Ngoài lề truyện ngắn
Những Vòng Đồng Ký Ức
Mấy hôm
nay nhận được
rất nhiều thư, điện thoại, comment của cả bạn viết lẫn bạn đọc về
truyện ngắn Những vòng đồng kí ức. Phải nói thật là
tâm trạng rất vui, bởi lẽ viết mà có người đọc là hạnh phúc lắm rồi.
Đằng này
nhiều bạn đọc thuộc thế hệ 8X, vốn đã không ưa lắm thể loại văn chương mậu
dịch thế này. Thế mới thấy, sức sống
của tờ VNQĐ vẫn còn mạnh và gu đọc của mọi người vẫn chưa thị trường
hóa hoàn
toàn. Trong tâm trạng phấn khích như vừa cắn thuốc, tại sao tôi lại
không viết
đôi điều xung quanh truyện này nhỉ?
Đầu tháng
5, anh
Nguyễn Đình Tú bảo đang chuẩn bị số đặc biệt và hỏi tôi có truyện gì
không. Tôi
nhận lời, hẹn cuối tháng sẽ nộp bài.
Viết về
người lính, về
chiến tranh bây giờ rất khó. Cái khó lớn nhất là những gì hay, những gì
đẹp đã
được các nhà văn cha chú viết đến gãy bút rồi. Cái khó thứ hai là chúng
tôi
không đi qua chiến tranh, nên vốn sống rất hạn chế. Cái khó thứ ba là
nếu đặt
góc nhìn khác đi về chiến tranh, thì cái sự khác đi ấy, có được chấp
nhận hay
không?
Tôi yêu
người lính và
rất thích viết về họ. Tôi sẽ viết gì, nhất lại là đề tài thương binh
liệt sỹ,
xương xẩu nhất trong các đề tài về chiến tranh. Khen họ ư? Từ trước đến
giờ ai
viết chả khen. Chê họ ư? Như thế là bất nhân, không được phép nghĩ như
thế, chứ
đừng nói là chấp bút viết.
Tôi cứ
mông lung xem
viết thế nào, không bị cũ mòn mà vẫn toát lên được tính nhân văn. Tôi
có rất
nhiều hình ảnh, chi tiết, nguyên mẫu nhân vật trong cuộc đời thực. Chọn
lọc và nhìn
nhận thế nào quả là hóc búa.
Năm 85, 86
tôi vẫn
đang học cấp III, mỗi lần tôi đi xe khách qua Đáp cầu Bắc ninh lại thấy
những
người lính trẻ tay chống nạng, khập khiễng đứng giữa đường chặn xe xin
tiền.
Lúc đó tôi còn trẻ, thấy buồn mà chưa thấy đau.
Sau đó một
thời gian,
tôi nhập ngũ, lúc này tôi mới hiểu tâm tư của người lính cuối những năm
tám mươi.
Các bạn đừng vội cho rằng chiến tranh đã kết thúc, những gì mất mát đau
thương
thế hệ cha anh đã gánh chịu hộ hết rồi, những người lính lúc này có gì
phải
chịu đựng nữa đâu. Hãy đặt họ vào hoàn cảnh cụ thể, khi mà ở các thành
phố thanh
niên tối tối phóng xe máy chở bạn gái đi cà phê, thì đâu đó miền biên
cương
súng vẫn nổ và máu đỏ vẫn loang triền núi. Với những người lính ấy,
cuộc chiến
trong tư tưởng còn khốc liệt hơn cuộc chiến ngoài mặt trận.
Năm 95, 96
tôi về làm
việc tại Hợp tác xã Thương binh nặng XX. Xã viên hầu hết là thương
binh: chống
Pháp, chống Mỹ, biên giới Tây Nam.
Công trạng của họ to lắm, huân huy chương họ đeo đầy người, giấy khen
dũng sỹ
diệt Mỹ, diệt cơ giới xếp đầy một ngăn tủ. Sức khỏe của họ xấu, có ai
còn lành
lặn đâu. Người thì mất cánh tay, người mất đôi chân, kẻ thì bất thần
xách dao
đòi chém người đi đường. Còn tư cách người lính và tư cách con người
thì thật
là buồn. Tôi đau đớn thật sự khi họ lấy trụ sở hợp tác làm chỗ hội họp
bàn
phương thức sinh nhai: Bảo kê, chăn gái, đòi nợ thuê, ba lô tăng bạt
mắc võng
khiếu kiện chính sách thuê. Đau đớn nhưng cảm thông: biết làm gì để
sống đây!?
Đến cuối
tháng 5, tôi
đã viết hết ba đoạn mở đầu, ba cách tiếp cận vấn đề rồi vẫn phải bỏ đi
vì thấy
chán quá. Anh Nguyễn Đình Tú giục ời ời. Tôi xin thêm ba ngày nữa là
đúng hết
tháng 5.
Tôi quyết
định lấy
nguyên mẫu là người bạn học, hơn tôi 1 tuổi và đã mất cánh tay phải.
Tôi cố
gắng đặt mình vào để khai thác tâm lý nhân vật, chắp nối các sự kiện,
những câu
chuyện tâm sự, chia sẻ với nhau suy nghĩ thời mặc áo lính để viết
truyện này.
Họ là những người lính không hùng hổ đặt tay lên ngực thề thốt, nhưng
vẫn chấp
nhận hi sinh một cách vô điều kiện mà vẫn đau đáu nỗi niềm què quặt,
nỗi niềm
rất đời. Xuyên suốt câu chuyện, là sự ám ảnh về mất mát thể xác, để rồi
một
ngày nhận ra rằng sự què quặt tâm hồn mới là thứ đáng sợ. Những người
lính chiến
đã từng đối mặt với chết chóc, có ai mà không bị ám ảnh, có ai mà không
cảm
thấy què quặt một chút trong sâu thẳm?
Ba ngày
còn lại của
tháng 5 tôi hoàn thành truyện này, đặt tên là Thương binh sọ não.
Nhưng cái tên truyện vừa lộ, vừa không
văn, nên anh Nguyễn Đình Tú đã sửa lại như trên và phải công nhận rằng
nó hợp
lý hơn hẳn.
Có
thể
dưới con mắt
lão luyện của các nhà văn gạo cội, truyện ngắn này của tôi chưa đạt cả
về kỹ
năng, cấu trúc lẫn nội dung. Nhưng điều đó không làm tôi buồn, vì cái
chính là
tôi thích và các bạn thích. Đúng không nhỉ?
Những vòng đồng ký
ức
Note: Gấu đọc và bỗng nhớ
đến Ngoại Ô, Dĩ An và Linh Hồn Tôi,
của Cung Tích Biền, Con Thú Tật
Nguyền của Ngụy Ngữ.
Xin trân trọng giới thiệu. NQT
*
Tay thương binh trong truyện này, còn làm Gấu nhớ đến... Gấu,
xém chút nữa, cũng thành độc thủ đại hiệp như anh ta, nếu không nhờ
me-xừ Danney, bác sĩ quân y, làm việc tại Grall, bệnh viện hải quân
Pháp, tức nhà thương Đồn Đất, Sài Gòn, lấy tí xụn chân, xụn
háng... đắp
vô khúc xương đã bị mìn claymore thổi bay vào miền hư vô!
*
Ôi nhát chém hư vô (1):
Cái cảm giác mất cánh tay, nhưng vẫn nghĩ nó còn, đó, khủng khiếp lắm.
Gấu tuy xém mất, nhưng đã kinh qua nỗi bi thương này.
Bữa nào rảnh kể hầu quí vị.
Mà hình như đã khoe khoang rồi?
(1) Một lời nhạc, trong Chuyện Tình
Buồn, an ủi Gấu suốt thời gian ở trại tù Đỗ Hải.
Những "gì gì", "Ngày nhà em pháo nổ, anh cuộn mình trong chăn... ôi
nhát chém hư vô!"... "Anh một đời rong ruổi, em tay bế tay bồng"....
Chả là, trước khi bị tóm, và sau đó, bị tống đi tập trung cải tạo, Gấu,
nhớ cô bạn ngày nào quá, bèn mò về con hẻm cũ..... Chuyện này kể ra
rồi, Gấu Cái đọc, chửi, anh đúng là đồ vô lương tâm....
Tôi
giở cuốn sổ tay, dò tìm tên người bạn đồng ngũ. Lê Tuấn Hải, địa chỉ:
Cộng hòa Latvia,
thành phố Riga, đường X, nhà Y, phòng Z. Bạn tôi ở kí túc xá, không có
điện
thoại riêng. Muốn liên lạc với bạn thì chỉ có gửi thư, đánh điện, hoặc
ra bưu
điện đặt cuộc gọi.
Tôi
đang cần liên lạc với Hải gấp, nên quyết định ra bưu điện trung tâm đặt
cuộc
gọi đường dài. Điền đầy đủ tên tuổi địa chỉ của Hải vào tờ đăng kí rồi
đưa cho
cô nhân viên bưu điện. Bưu điện sẽ có trách nhiệm thông báo cho bạn tôi
ngày
giờ chính xác để bạn tôi ra bưu điện gần nhất thực hiện cuộc kết nối
điện thoại.
Hải
ra quân sớm cùng thời kì với tôi, sau đợt hai đứa bị thương. Từ đó
chẳng có tin
tức gì về nhau. Tôi thi đại học rồi sang Nga. Hải về quê làm anh thợ
cày. Tình
cờ năm ngoái có chút việc vào ốp
người Việt ở Matxcova, gặp Hải đang vật vờ trong đó. Trông bạn tôi vẫn
như xưa
với mái tóc rũ dài xù tổ quạ như hồi còn trên chốt. Cái quần mặc lép
xẹp một
bên mông. Hỏi ra mới biết cậu ta đã sang đây mấy năm theo diện xuất
khẩu lao
động, làm ở nhà máy giầy, dưới thành phố Riga.
Chúng tôi lấy địa chỉ của nhau rồi chia tay vì cả hai cùng vội. Hẹn có
dịp, tôi
sẽ xuống chơi.
* * *
Điểm
cao mà đơn vị chúng tôi chọn làm đài quan sát là một ngọn núi đá vôi
lọt thỏm
trong dãy núi đất cao sừng sững. Độ cao mỏm núi này không lớn, chỉ
khoảng sáu
bảy trăm mét so với mực nước biển, nhưng vô cùng khắc nghiệt vì địa
hình hiểm
trở. Tôi với Hải chung một hầm. Thực ra nó chỉ là một hốc đá nhỏ đủ chỗ
cho hai
thằng và đặt một máy nhìn xa Tiệp Khắc. Cửa hầm được che chắn bằng các
bao tải
cát to bằng cái gối mầu xanh xỉn, nhưng bị bột đá nhuộm bạc trắng .
Mấy
hôm vừa rồi pháo địch bắn rát, ầm ầm cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi nằm
khoèo trong
hốc đá nhai gạo rang qua bữa, thỉnh thoảng ngớt pháo thì tranh thủ
chỉnh lại
những bao cát xô lệch do sức ép của đạn pháo nổ gần.
Hải
nằm gối đầu lên cái ba lô lép kẹp, xoa xoa bụng ọc ạch chỉ toàn nước,
hỏi tôi:
“Mày bảo liệu anh nuôi có mang cơm lên được không?” Hải to như bồ
tượng, sức ăn
bằng hai bằng ba người khác mà phải nhai gạo mấy ngày liền nên tôi an
ủi: “Trời
hôm nay mù, tầm nhìn kém, chắc dàn DKZ sẽ ngậm miệng”. Hải ừ một câu
rồi trở
mình, nằm co quắp như con tôm, thiu thiu ngủ.
Tôi
mở ba lô lấy cái vòng đồng màu vàng đỏ làm bằng vỏ đạn đeo thêm vào cổ
tay
phải. Tôi đeo vòng để theo dõi thời gian, dùng vòng tuần như bọn trẻ
con chơi
đồ hàng ở dưới thành phố. Cổ tay tôi có năm cái vòng, tức là hôm nay
thứ năm.
Cứ hết một tuần vòng, tôi lại nhét một viên sỏi vào túi cóc ba lô. Ngày
tháng giờ
giấc đặc biệt có ý nghĩa đối với những kẻ trong hoàn cảnh như chúng
tôi. Thỉnh
thoảng tôi mang sỏi ra đếm: “À, mình đã sống thêm được ngần này ngày”.
Bao
nhiêu viên sỏi, là bấy nhiêu tuần địch chưa phát hiện ra mục tiêu cụ
thể. Hốc
đá mà chúng tôi dùng làm đài quan sát lưng dựa vào một vách đá dựng
đứng, miệng
hầm đối diện với ngọn núi không có địch, vì thế mà tránh được tầm bắn
của dàn
DKZ trên sườn núi đằng sau. Chúng chỉ có duy nhất một nhiệm vụ ngày đêm
vãi đạn
sang bên này, bắn vỡ tất cả những tảng đá mà có khả năng bộ đội ta ẩn
nấp. Đá
vôi vỡ vụn, bột đá phủ trắng như tuyết từ đỉnh xuống đến chân núi. Trên
ngọn
núi trơ trọi này, trong cơn bão đạn, bộ đội ta vẫn phải bám trụ ngày
đêm. Theo
kế hoạch, chúng tôi sẽ phải quan sát, ghi chép và báo cáo tình hình
địch khi
phát hiện được cho Tiểu đoàn và ở đây khoảng hai tư, hai lăm viên sỏi
thì sẽ
hoàn thành công việc
Hải
lồm cồm bò dậy, vớ can nước tu một ngụm, súc miệng òng ọc rồi nhổ toẹt
vào vách
đá, giương cặp mắt phù thũng sưng húp híp vì thiếu chất, nhìn tôi,
cười: “Răng
lung lay quá. Đánh răng bây giờ là rụng”. Tôi đùa: “Thế có chân giò
luộc mày có
ăn được không?” Hải bảo: “Luộc chân mày nhé”. Tôi bảo: “Phỉ phui cái
mồm mày”.
Hải nhăn nhở: “Sống chết có số rồi, sợ cái gì”.
Cánh
lính chốt chúng tôi thường kiêng kị ba điều: cắt tóc cạo râu, mặc quần
áo mới
và nói lời tạm biệt khi chia tay. Họ sợ vận đen khi cắt tóc. Quần áo
mới chỉ
dành cho tử sỹ. Nói tạm biệt rồi không bao giờ về nữa. Nó như một thứ
luật ngầm
ngấm vào tiềm thức của mỗi người, bất thành văn mà ai cũng tuân thủ
tuyệt đối.
Thế nhưng chuyện sống chết thì Hải cứ bô bô chẳng kiêng cữ vì “có số cả
rồi”.
Một lần,
giữa hai đợt
oanh tạc, không gian yên ắng lạ thường. Sự yên tĩnh khiến tôi thấy mình
là người
thừa trong trò chơi tìm và diệt này. Thiếu tiếng pháo, thiếu cảm giác
âm âm
rung rung dưới lòng đất, chúng tôi ngủ không sâu giấc. Tôi khều Hải
dậy, gợi chuyện:
-
Hay
là ta chuồn?
-
Lượn à? Tùy mày! Nhưng đã ở được từng ấy ngày rồi giờ lại tuột xích.
Sao không
phắn mẹ nó từ dưới kia cho nhanh.
-
Nhưng tao thấy mình như con chuột sống trong nhà có nuôi mèo.
-
Sợ
bị mèo vồ à? - Hải cười khùng khục trong cổ họng.
-
Tao
không sợ chết. Chết là hết, chính ra lại nhẹ nhàng. Tao chưa có vợ con
nên
chẳng vướng bận. Cùng lắm bố mẹ khóc vài ngày rồi cũng nguôi ngoai. Tao
sợ bị
thương. Tàn phế cả đời. Cả đời dặt dẹo và làm nhiều người khác khổ lây.
-
Ôi
dào, mày cứ lắm chữ rồi nhiều chuyện. Có ngày bị một mảnh vào đầu đấy.
Cho mày
bi bô cười nói cả ngày, tha hồ mà yêu đời nhé - Hải đùa độc mồm.
Tà
chiều thì anh nuôi mang được cơm lên cho chúng tôi. Cơm nắm ăn với cá
mắm. Con
cá to bằng hai ngón tay bốc mùi khắm lặm. Hải vừa ăn vừa chửi anh nuôi,
cơm
phùi ra cả mép: “Tổ sư mấy thằng nhát chết. Để bọn tao chết đói thế này
lấy đâu
ra sức mà đánh nhau”. Cậu anh nuôi cỡ tuổi chúng tôi, trẻ măng, chớp
cặp mắt
ngân ngấn nước, uất ức bảo: “Tao là thằng thứ ba đấy, hai thằng kia đưa
cơm cho
chúng mày đều đi rồi”. Tôi thấy vậy bảo: “Về đi, lát nữa là đến giờ
pháo bắn”.
Khi
tôi đếm được mười tám hòn sỏi và ba cái vòng tay thì bọn địch phát hiện
ra cửa
hầm. Lúc ấy vào buổi trưa, phát đạn đầu tiên nổ cách cửa hầm khoảng
chục mét.
Đá vỡ bay rào rào, bụi đá lẫn khói đạn quánh đặc. Hải chồm dậy, chửi:
“Bọn chó
nó thay đổi vị trí bắn rồi”. Ánh lửa đầu nòng của cối 81 ly lóe lên
ngay sườn
núi đối diện đã nói lên điều đó. Hải phản xạ tương đối nhanh, thò khẩu
trung
liên RPK qua kẽ hở bao cát bắn xối xả về phía có địch. Vỏ đạn văng ra
đập côm
cốp vào vách đá bắn cả vào mặt tôi. Tôi xách khẩu phóng lựu M79 ra bắn
cắc đùm,
khoảng cách khá xa nên đạn không tới được mục tiêu. Quả đạn cối thứ hai
nổ gần
hơn, hơi đạn đập vào vách núi dội ngược dí bẹp tôi xuống đất. Hốc đá
chúng tôi
nấp như công sự đá tự nhiên, đằng trước lại được che chắn bởi một vài
tảng đá
lẫn bao tải cát. Vì vậy, trừ trường hợp chúng chỉnh được đạn rơi chính
giữa
miệng hốc đá thì mới lo, chứ rơi vãi xung quanh thì chỉ như muỗi đốt
gỗ. Đạn
cối bắn cầu vồng, chỉnh chính xác đến thế không phải dễ.
Tôi
đã nghe thấy tiếng súng chi viện của một vài hầm khác. Qua cơn bối rối
ban đầu,
Hải giờ đã bình tĩnh hơn, mắm môi bắn từng loạt ngắn, vai rung bần bật.
Thỉnh
thoảng lại quay sang nhìn tôi lóng ngóng không biết làm gì với khẩu
phóng lựu
vô dụng, quát: “Thỗn cái mặt ra đấy à! Tiếp đạn cho tao”. Bên kia, địch
bị đánh
trả nên không thể bình tĩnh chỉnh góc bắn chuẩn, quả đạn tiếp theo vượt
qua đầu
chúng tôi rơi mãi phía sau lưng.
Đúng
lúc đó tôi nhìn thấy một quầng lửa, chỉ kịp nghĩ trong đầu: “Thôi
xong... DKZ ”
thì xung quanh lửa bùng lên rồi tôi chẳng hay biết gì nữa.
* * *
Hình
như tôi có tỉnh dậy một lần, thấy xung quanh tối đen, đầu óc tay chân
nặng
trịch. Cảm giác chật chội khiến tôi nghĩ mình đang nằm trong quan tài.
Mình đã
chết, phần xác đã được chôn và phần hồn đang trên đường sang thế giới
bên kia,
đợi được phân loại lên thiên đường hay xuống địa ngục.
Tôi
tỉnh lại lần thứ hai thấy mình đang nằm trên giường của bệnh xá sư
đoàn. Khắp
người quấn bông băng trắng toát và ê ẩm đau. Ánh nắng xiên qua tán cây
chui vào
cửa xổ vãi tung tóe xuống nền nhà. Đàn gà cục tác bới đất kiếm ăn ngoài
vườn.
Tỉnh hay mê? Tôi đưa tay lên dụi mắt để nhìn cho rõ. Cánh tay tôi nhẹ
bẫng vuốt
mãi không tới mặt. Tay phải cụt đúng đến khuỷu và máu rỉ ra ngoài băng
đã khô
mầu nâu sậm. Tôi bật khóc hu hu như trẻ con.
Nửa
tháng sau khi tôi đủ sức để đi lại tập tễnh thì cũng là lúc được tháo
băng.
Khắp người tôi lồi lõm chi chít sẹo đang lên da non mầu hồng nhạt xấu
xí vô
cùng. Nhưng dù sao nó còn được che đậy bởi lớp quần áo bên ngoài nên
không phải
ai cũng nhìn thấy. Còn cánh tay phải, người ta tháo khớp rồi khâu túm
lại. Một
khúc thịt, xương, da ngoe nguẩy bên hông trông rõ tởm. Thật khó diễn tả
tâm
trạng tôi khi ấy. Lúc khoác chiếc áo lên người, ống tay áo rủ xuống
thõng
thượt, gió thổi bay phần phật. Tôi bèn xắn lên cho gọn, một khoảng
trống không
gì bù đắp nổi hiện ra. Thế là lại thả tay áo xuống và đành phải giắt
vào cạp
quần cho gọn.
Hải
thỉnh thoảng có sang thăm tôi. Cậu ta bị mảnh đạn phạt mất một miếng
mông. Gặp
tôi là than phiền: “Rơi mất mấy lạng thịt sấn”, rồi nhìn tôi lắc lắc
cái đầu:
“Trông mày chán quá”. Tôi im lặng không muốn nói chuyện, thỉnh thoảng
lắm mới ừ
hữ một câu cho nó biết tôi chưa cụt lưỡi. Vài lần như thế nó cũng nản,
chẳng
qua độc thoại với tôi nữa. Hải ra viện sớm hơn. Ngày về đơn vị, Hải
xách ba lô
qua chào. Nó nhìn tôi một lúc rồi lấy tay xoa xoa lên mái tóc cắt vội
lởm chởm
của tôi, chép miệng nửa đùa nửa thật: “Mày càng ngày càng vô hồn. Để
tao kiểm
tra xem có mảnh nào chui vào sọ không”. Tôi không muốn ai động vào
người mình.
Thói quen dùng tay phải bao năm không dễ mà bỏ ngay được, mẩu thịt
xương da nơi
bả vai tôi khua lên khua xuống mấy cái nhưng không chạm được vào tay
Hải vì
ngắn quá. Lúc ấy tay trái mới có phản xạ hỗ trợ hất cánh tay của Hải
đang để
trên đầu tôi. Ra đến cửa còn nghe thấy Hải lẩm bẩm: “Thằng này hỏng
rồi”.
* * *
Đúng
giờ như đã đăng kí, tôi ra bưu điện trung tâm. Cô nhân viên bưu điện
tóc vàng
mắt xanh mỉm cười xin lỗi: “Bạn anh không còn ở địa chỉ trên”. Tôi phản
ứng rất
vô nghĩa: “Không có lẽ, bạn tôi ở đấy mà”. Cô gái nhắc lại chậm rãi
từng từ như
thể tôi không hiểu tiếng Nga: “Bạn... anh... chuyển... đi... rồi...
hiểu...
chưa?”
Có
thể Hải đã về nước. Giai đoạn này công nhân về nước ồ ạt vì hợp đồng
lao động
chấm dứt trước thời hạn do Liên Xô tan vỡ. Cũng có thể Hải đã chuyển
sang thành
phố khác làm ăn chăng? Dù thế nào đi chăng nữa, thì sợi dây duy nhất để
liên
lạc với Hải đã đứt mà tôi thì đang rất cần sự giúp đỡ của cậu ta.
Các nữ
công nhân nhà
máy dệt dưới thành phố Hải đang đóng gói để về nước. Tùy vào vị trí và
thâm niêm
công tác mà mỗi người được đóng từ một đến vài khối hàng. Lương của các
cô trừ
chi tiêu hàng tháng, tiết kiệm mua hàng chỉ được một góc thùng. Góc
thùng còn
lại được các chủ hàng trên Matxcova sử dụng và trả phí cho chủ nhân.
Niken lúc
này ở nhà đang tiêu thụ mạnh, lãi tới dăm sáu lần. Loại này là mặt hàng
cấm
xuất. Mua được cũng không dễ, phải thông đồng với đám công nhân ăn cắp
từ các
nhà máy cơ khí ra.
Để
thoát được sự kiểm tra của Hải quan Nga, họ đã nghĩ ra một loại thùng
rất kì
lạ. Thoạt đầu mới nhìn thì cũng giống như bao thùng khác đóng bằng
những thanh
gỗ thông. Bên trong nhét hầm bà làng chăn ga gối đệm xô chậu nồi niêu
bát đĩa
cũ nát. Đại khái là những mặt hàng Hải quan khi kiểm tra cũng phải nhỏ
lệ
thương cảm cho những công nhân nghèo. Thế nhưng, chì Hải quan đã được
kẹp vào
nắp thùng, thì đêm ấy họ cậy hai thanh gỗ bên hông được đóng rất lỏng
lẻo, lôi
hết đống của nợ ra để mai còn ngụy trang thùng khác. Nhét gì vào thùng
đã kẹp
chì là tùy thuộc vào độ liều của chủ thùng và độ máu của chủ hàng trên
Matxcova.
Họ đã làm thế nhiều lần và đều trót lọt. Công việc đang xuôi chèo mát
mái thì
bỗng đâu rơi xuống một nhóm người, chúng đòi thu phế bến bãi
theo kiểu
phia. Nếu không chấp nhận chi sẽ bị báo hải quan thu trắng. Chưa
kể
nếu giải quyết không khéo, chúng nổi khùng lên xin tí tiết các chủ hàng
để dằn
mặt thì còn khốn hơn.
* * *
Tôi
khoác chiếc ba lô bên trong có vài bộ quần áo với mười tám viên sỏi và
năm
chiếc vòng còn sót lại lên vai trái rồi xuống xe buýt. Nhà tôi cách bến
xe buýt
khoảng một cây số. Đi bộ hết chục phút nhưng tôi không về ngay mà tạt
vào quán
nước ven đường đợi trời tối. Tôi không muốn mọi người trong khu tập thể
nhìn
thấy tôi trong bộ dạng này.
Tôi
kéo vành mũ sụp xuống che hết nửa khuôn mặt, mua chục điếu thuốc lá
cuốn ngồi
hút dần. Gọi đến chén nước chè thứ năm thì bà cụ chủ quán không giấu
được tò
mò.
-
Chú
tìm ai phỏng?
-
Vâng, cháu tìm nhà người bạn - Tôi nói lí nhí trong cổ họng.
-
Khu
nào thế chú?
-
Khu
C - Tôi nói tên khu tập thể nhà tôi.
-
Ừ,
khu ấy chú cứ đi theo lối này, bao giờ cụt đường thì đến nơi. Giờ này
chắc nhà
người ta chưa đi làm về. Chú cứ ngồi đây đợi - Bà cụ lưỡng lự một lát
rồi hỏi
tiếp - Bà hỏi khí không phải, bạn chú hi sinh rồi phải không?
-
Vâng - Chẳng hiểu sao tôi lại trả lời thế.
-
Tội
nhỉ. Nhìn cánh tay chú là bà hiểu. Trên ấy khốc liệt lắm phải không
chú? Thanh
niên khu này đào ngũ hàng loạt vì sợ phải lên
biên - Bà vừa nói, vừa lấy gấu áo chấm dòng nước mắt đang lăn ra
từ
khóe mắt nhăn nheo.
Tôi
cũng không rõ, bà khóc vì người bạn tôi
hi sinh, vì ống tay áo phất phơ của tôi, hay vì đám thanh niên đào ngũ?
Tôi
quay mặt nhìn đi chỗ khác vì không muốn nhìn thấy phụ nữ khóc. Cho dù
người phụ
nữ ấy là một bà già và giọt nước mắt ấy là của người mẹ. Tôi sợ nhìn
thấy nước
mắt vì sợ phải đối mặt với một tinh thần yếu hèn trong cái thể xác đàn
ông tàn
tạ của tôi. Càng sợ hơn nếu giọt nước mắt đó được ban phát bởi sự
thương hại.
Tôi
ngồi cho đến lúc bà cụ dọn hàng đi ngủ. Đường phố vắng lặng, tôi lầm
lũi đi
trong ánh đèn đường vàng vọt. Bóng tôi đổ dài xuống nền đường và tôi
chợt phát
hiện ra rằng, mình đang có xu hướng lệch người về một bên do cơ thể
thiếu sự
cân bằng. Chỉ còn vài trăm mét là đến mái nhà nơi tôi sinh ra và lớn
lên. Vậy
mà tôi lại không muốn trở về căn nhà đó.
Cha
tôi là một công chức, cả đời an phận sống dựa vào đồng lương còi cọc
chỉ đủ mua
báo đọc hàng tháng. Gánh nặng gia đình dồn hết lên vai mẹ tôi, một
người đàn bà
lắm bệnh nhiều tật. Mẹ tôi phải xin nghỉ mất sức, về nhà làm đủ các
nghề để có
bữa rau bữa cháo nuôi các con và ông chồng. Cuộc mưu sinh vất vả khiến
cho hôn
nhân trở nên ngột ngạt. Chẳng người nào đủ can đảm để bỏ người kia
nhưng năm
ngày ba trận lớn đánh đuổi nhau vòng quanh khu tập thể, hai trận nhỏ
chì chiết
nhiếc móc suốt đêm. Cách thể hiện duy nhất của cha tôi để thấy mình còn
chút uy
danh trong xã hội là chửi đổng hàng xóm và đem các con ra đánh cho đỡ
ngứa mắt.
Lũ chúng tôi, những đứa trẻ sống giữa hai “làn đạn” của cha mẹ, thấy
gia đình
nhiều khi như thể địa ngục. Tôi nhập ngũ ngay khi đến tuổi luật định.
Gần hai
năm sau, tôi mười chín tuổi, tàn phế lê bước quay trở lại ngôi nhà địa
ngục bởi
chẳng biết đi đâu về đâu. Tôi giận đời, giận mình sao không chết quách
cho rồi
trong cái hốc đá đó. Để bây giờ thân tàn ma dại thế này đây.
Người
mở cửa là cha tôi. Các em đã ngủ, lăn lóc dưới sàn gạch của căn hộ rộng
mười
hai mét vuông. Tôi khẽ chào cha rồi lặng lẽ tìm một góc bên cạnh các
em. Cha
tôi vẫn đứng chỗ cánh cửa, chống nạnh nhìn tôi từ đầu đến chân rồi chua
một
câu: “Đẹp nhỉ, oai phong lắm”. Mẹ tôi nằm trên cái giường duy nhất nơi
góc nhà,
nhỏm dậy búi lại mớ tóc rũ rượi, khóc nức nở: “Sao lại ra nông nỗi này
hả con.
Ông giời cứ đày đọa tôi mãi thế này!” Tôi bảo: “Con lậy mẹ, đừng khóc
nữa”. Cha
tôi đau đớn: “Tay chân thế này thì xúc đất mà đổ vào mồm”. Tôi định bật
lại:
“Cha đủ cả hai tay mà cũng có nuôi được bản thân đâu”. Nhưng hèn, nên
lại nói
chệch đi: “Con sẽ tự nuôi con, đừng lo”. Cũng phải thôi, thằng hèn lại
đẻ ra
thằng hèn, tôi không dám bật lại cha cũng có căn nguyên của nó.
Đây
là quãng thời gian nặng nề nhất trong đời. Tôi giam mình trong nhà,
trong bộ
quần áo dài từ đầu đến chân và chẳng tiếp xúc với ai. Cảm giác tù túng
còn
khủng khiếp hơn trong hốc đá trên điểm cao. Ánh mắt dò xét của mọi
người xung
quanh còn sắc hơn mảnh đạn. Tôi bị cơn đau vết thương hành hạ. Cơn đau
kì lạ,
nó không phải ở nơi khuỷu tay mà xuất hiện ở cẳng tay đã mất. Tôi cảm
thấy rất
rõ, bàn tay phải giập nát, xương cổ tay gẫy chọc thủng da lòi ra ngoài
nhọn
hoắt, trắng hếu. Tôi đau vật vã mỗi khi trái nắng trở trời. Bố tôi
chửi: “Mày
lại làm trò”. Bác sỹ bảo: “Cơn đau là có thật, nhưng không thuốc nào
chữa nổi.
Cơn đau được ghi nhớ trong bộ não, thỉnh thoảng nó lại phát tín hiệu
như thật.
Bệnh này của bác sỹ tâm lý”. Chẳng tìm đâu ra bác sỹ tâm lý trị liệu,
chỉ có
bác sỹ chữa bệnh tâm thần, chữa điên, mà tôi lại chưa điên mới khổ.
Tôi
chỉ dám ăn một ngày hai bữa, mỗi bữa một lưng cơm vì thấy mình là gánh
nặng, là
kí sinh trùng của cha mẹ mình. Cha tôi mỉa mai: “Ăn nhiều tay nó cũng
không mọc
dài ra đâu”. Nước mắt chan bát cơm, tôi ngẹn ngào: “Cho con vay bát
cơm”. Vay
tức là tôi sẽ phải trả.
Tôi
tập viết tay trái và lao đầu vào ôn thi đại học. Chỉ có cách ấy, may ra
tôi mới
cứu tôi thoát khỏi địa ngục và bệnh điên đang cười nói rình rập ngoài
cửa.
Trời
chẳng phụ lòng người. Tôi may mắn đỗ đại học, cộng thêm điểm ưu tiên
thì vừa đủ
điểm đi tây. Lần thứ hai tôi xách túi ra khỏi ngôi nhà của mình và
không mong
quay trở về. Cha tôi nhìn theo không nói gì. Có lẽ ông đang nghĩ là nhà
mình
sắp sửa có nồi áp suất đun cho đỡ tốn dầu nên cố giữ những lời cay độc
không để
nó tuôn trào.
* * *
Tôi
chắt chiu dành dụm từng đồng học bổng để mua hàng gửi về trả những bát
cơm vay.
Còn lại một ít, tôi đi đặt cánh tay giả. Cánh tay bằng nhựa, rỗng ở
giữa để có
thể đút được mẩu thịt xương da của tôi vào. Cánh tay giả mầu nâu hơi
sậm hơn so
với da người thật, đủ cả bàn tay lẫn ngón tay, có dây buộc vào bắp tay
cho khỏi
rơi. Hình dáng khum khum trông không được tự nhiên lắm. Nhưng có nó,
tôi tự tin
hơn rất nhiều. Tuy không thể mặc được sơ mi cộc tay, nhưng sơ mi dài
tay không
cần phải giắt ống tay vào cạp quần nữa. Tôi ướm thử bộ comple, ngắm
nghía trước
gương, thấy mình không đến nỗi tồi.
Cuộc
sống khó khăn hơn rất nhiều sau chính biến năm chín mươi. Giá
cả tăng vọt, học bổng của tôi chỉ đủ ăn một
tuần là nhẵn túi. Một số bạn đã bỏ học đi làm, số khác được gia đình
bên nhà
gửi tiền ăn sang mới có thể học tiếp. Tôi lao vào làm bất cứ cái gì có
thể làm
được để có tiền nuôi sống bản thân và theo đuổi chuyện học hành. Tôi đã
đồng ý
áp tải chuyến hàng đó xuống Riga và nhận trách nhiệm dàn xếp với nhóm
người
kia. Mức thù lao được trả đủ trang trải cuộc sống tằn tiện cho đến hết
năm.
Trong hoàn cảnh khó khăn của tôi thì đó là một cơ hội quí. Hơn nữa, từ
trong
sâu thẳm, còn có một động cơ khác thôi thúc tôi nhận công việc này. Tâm
trí
tôi, muốn chứng minh với tôi, muốn cho tôi thấy tôi không phải là kẻ
đớn hèn.
Những chủ hàng chọn tôi cũng có lý do riêng, vì theo như họ nói: “Hình
như
chúng nó là lính”. Lính nói chuyện với lính ắt dễ hơn rồi. Tôi nghĩ,
nếu có Hải
giúp đỡ thì mọi việc sẽ hanh thông, vì cậu ta chắc phải quen những kẻ
nổi loạn
kia. Hải về nước rồi cũng chẳng sao, tôi sẽ đem lí lịch ra để thương
lượng vậy.
Xe
hàng đến địa điểm tập kết vào lúc nửa đêm. Đây là khu đô thị mới, nằm
bên kia
sông. Dãy nhà của các cô công nhân dệt ở cao tám tầng. Nó được xây dựng
chưa
lâu, kiến trúc khá hiện đại và không mang dáng dấp của kí túc xá, ngoại
trừ sự
xuống cấp cố hữu của những căn nhà có người Việt ở mà bằng mắt thường
cũng nhận
ra. Nhiều phòng đèn vẫn sáng. Nhà ở dành cho nữ công nhân nhưng nam
giới chiếm
phân nửa. Họ là công nhân của các nhà máy khác trong thành phố, bỏ sang
đây ở
cùng cho có đôi lứa. Dưới sân dãy nhà la liệt các thùng hàng gỗ thông
đang đóng
dở dang.
Từ
trên gác có mấy người ngó qua cửa sổ xuống sân. Tôi biết là sẽ có
chuyện nên chuẩn
bị tinh thần để đàm phán. Nếu họ cũng từng là lính, mọi chuyện sẽ dễ
thở hơn
nhiều. Còn không, thì tuỳ cơ ứng biến.
Chỉ
một
thoáng đã thấy họ xuất hiện bên chiếc xe chở hàng.
-
Xe chở
gì thế này? - Một người đá đá vào lốp xe và gằn giọng hỏi.
-
Một
ít hàng của mấy người bạn - Tôi trả lời.
-
Niken đúng không? - Kẻ nào đó khẳng định ngay.
-
Đúng
vậy? - Tôi nhũn nhặn kiên trì tiếp chuyện.
-
Này
ông! Ông là khách lạ chưa biết luật ở đây thì tôi vào đề thẳng nhé. Chỗ
này ít
nhất cũng phải vài tấn, vị chi là ngần này tiền, các ông chuyển về đến
Việt nam
vứt đi cũng được vài lần thế. Vậy bây giờ các ông để lại một ít tiền,
thì anh
em sẽ vô tư. Còn không thì mất hết.
Tuỳ các ông chọn lựa.
-
Ông
cứ bình tĩnh, rồi đâu sẽ có đó - Tôi tìm cách hoãn binh để thăm dò đối
tượng.
-
Đưa
đây năm chục vé, rồi thích làm gì thì làm - Một người trong bọn nói.
-
Tôi
lấy đâu ra ngần ấy tiền.
-
Thằng
chó, tao đùa với mày đấy à? Bố vụt
cho một trận rồi báo công an thu hết hàng bây giờ - Chúng buông lời đe
dọa phủ
đầu khi tôi còn chưa đưa ra con số thỏa thuận.
-
Các
ông phải hiểu cho tôi. Tôi cũng làm công thôi.
-
Thế
không có tiền thì cho bọn tao xin vài tạ niken vậy - Hắn nói xong thì
định nhảy
lên xe.
-
Ông
không được làm thế - Tôi cương quyết ngăn cản, dùng tay kéo áo tên kia
lại. Cánh
tay phải sõng sượt bên nẹp quần. Tình hình đàm phán diễn biến theo
chiều không
kiểm soát được.
-
A… thằng
này láo…
Chưa
dứt lời một người trong nhóm đã nhào vào tôi rất nhanh. Chúng bẻ quặt
tay phải
của tôi ra đằng sau. Tôi quẫy mình, cánh tay nhựa tuột khỏi khớp nối,
tụt qua
ống tay áo và nằm gọn trong tay kẻ kia. Dưới ánh đèn đường, tôi nhận ra
một
thoáng kinh hoàng hiện trên khuôn mặt người đang cầm cánh tay tôi. Hắn
giơ cánh
tay vẫn còn dây buộc lòng thòng lên cao nhìn một lần nữa cho kỹ, hộc
lên một
tiếng và ném xuống đất. Không phải là ném mà là buông tay để nó rơi tự
do. Có
lẽ hắn sợ, hắn tưởng bẻ gãy tay đối phương? Không phải thế! Trong
khoảnh khắc,
hắn nhận ra trước mặt mình là một người lính như hắn. Thậm chí còn
không may
mắn bằng hắn khi trở về chẳng nguyên vẹn. Lòng trắc ẩn của một người
lính tưởng
đã mất bỗng dưng trở về. Những người có mặt ở đó đều bàng hoàng trước
những gì
xảy ra quá đột ngột.
-
Tôi… tôi… xin lỗi ông! - Người đó lấy lại được bình tĩnh và nhặt cánh
tay nhựa lên
đưa lại cho tôi và hỏi - Bị thương ở đâu?
-
Mặt
trận H - Tôi trả lời - Mà sao đang nhiên ông lại bất ngờ bẻ tay tôi
vậy? - Tôi vừa
hỏi vừa cười. Tôi hiểu được tình hình đã thay đổi theo chiều hướng
thuận.
-
Nói
thật với ông, tôi tưởng ông để dao trong ống tay áo. Vì tôi thấy ông
chỉ sử dụng
tay trái, còn tay phải lúc nào cũng thấy khum khum.
Không
khí ngột ngạt sặc mùi đao búa bỗng cởi mở một cách chân tình rất lính.
Mọi
người đều nói cười và không ai nhớ rằng cách đây mấy phút họ vẫn còn
hùng hổ doạ
nạt để bắt tôi nộp phế. Một
người bảo: “Lên làm chén rượu đã. Ông cứ bảo chúng nó bốc hàng đi,
không sợ mất
đâu”. Tôi cười phụ họa: “Mất thế chó nào được” và theo họ lên phòng.
Tôi
đang rất vui vì chuyện phức tạp lại được hóa giải rất dễ dàng bằng một
thứ tình
cảm rất mộc mạc: đồng đội. Sự bất ngờ này chưa hết, sự bất ngờ khác lại
ập đến.
Ngồi chính giữa căn phòng tôi được mời lên uống rượu là một người đàn
ông lưng
to như cánh phản, tóc tai bù xù tổ quạ, mà mới chỉ thoáng qua, tôi đã
nhận ra
đó là ai.
Tôi
bảo: “Tao tưởng mày đã về nước”. Hải cười: “Về đi cày hả? Nhà máy giải
tán, tao
sang đây ở với bọn này cho vui”. Tôi hỏi lại: “Sang làm đại ca?”. Hải
bảo: “Đại
ca đại cốc gì! Toàn anh em lính tráng, bảo nhau mà làm ăn”. Tôi cười:
“Thế là
hôm nay tao làm mất cơ hội làm ăn của chúng mày”.
Rượu vào
biêng biêng.
Mọi người nâng lên đặt xuống liên tục. Tôi thấy nóng nên cởi phăng
chiếc áo
đang mặc. Gió mang hơi lạnh từ bờ sông thổi mát túm da khâu dúm dó đầu
khuỷu
tay làm tôi giật mình. Hóa ra từ lúc tay bị vặn gẫy, tôi chưa
xỏ lại. Đây là lần đầu tiên kể từ khi mua cánh
tay giả, tôi quên đeo. Cũng là lần đầu tiên từ ngày rời mặt trận, tôi
để cánh
tay trần không ngụy trang trước đám đông. Lại chạm cốc. Lại những câu
chuyện xa
lắc lơ ùa về rôm rả.
Cuối
chầu rượu, Hải thì thầm vào tai tôi: “Mày lấy được mảnh đạn trong sọ ra
rồi à”.
Rồi nó ngồi tự cười rũ rượi như ma làm. Tôi bảo: “Đừng tự sướng thế, cả
tao lẫn
mày và những thằng kia đều dính mảnh đạn vô hình trong não đấy”. Cả đám
nghe
thấy vậy, phản xạ tự nhiên xoa xoa tay lên đầu kiểm tra và hê hê cười
như trẻ
thơ.
* * *
Hai
ngày sau tôi quay trở lại Matxcova. Tôi lôi mười tám viên sỏi và năm
chiếc vòng
đồng làm từ vỏ đạn dưới đáy va ly ra lau chùi rồi đặt trang trọng trong
góc
phòng. Những vật kỷ niệm này là một đoạn đời không thể quên. Bần thần
một lát,
tôi lấy giấy bút ra và viết: “Cha mẹ và các
em thương yêu...”
Hà
nội tháng 05/2007
DD
Nguồn