Vang vang
trời vào Xuân
Tuesday,
April 04, 2006
Quỳnh Giao
Thanh Tâm Tuyền ra đi vào ngày đầu của
Mùa Xuân khi ông vừa
tròn bảy chục. Có nói rằng ông đã qua bảy mươi Mùa Xuân thì không sai.
Bảy mươi Mùa Xuân là bảy chục lần thấy
đời bỗng như mới.
Thanh Tâm Tuyền thấy văn chương bỗng như mới khoảng nửa thế kỷ trước,
là lúc
nhóm Sáng Tạo ra đời, muốn xé các tờ lịch cũ để làm mới tất cả. Cũ ở
đây là văn
nghệ tiền chiến, lên đến cả thời Tự Lực Văn Ðoàn. Thời ấy, Mai Thảo
cũng mới
chỉ ba chục, Thanh Tâm Tuyền thì đúng vào tuổi đôi mươi, và vào tới
miền Nam
bát ngát, ai ai cũng hăng hái nghĩ đến một trang giấy trắng. Tha hồ
muốn viết
gì thì viết.
Nhóm Sáng Tạo ra đời trong nguồn cảm
hứng cuồn cuộn đó.
Chiến tranh đã hết, cuộc đời mở mùa tái tạo...
Việt Nam
ta có một cái rất giỏi là chiến tranh, cho nên định nghĩa “tiền chiến”
là cái
gì đó thật co giãn, thường thì kéo dài, quá dài. Trong thời tự do của
miền Nam,
21 năm ngắn ngủi từ 1954 đến 1975, thì “tiền chiến” có thể là thời kỳ
kéo dài
từ những năm 1930 đến 1945, hoặc những gì xảy ra trước 1954.
Sau đấy và cho đến
ngày nay, “tiền chiến” có thể là những gì
xuất hiện trước 1975.
Với Thanh Tâm Tuyền,
tiền chiến có khi trải dài cho đến
những năm về sau, sau khi chiến tranh chính thức kết thúc năm 1975.
Những năm
ông ở trong tù.
Chiều Thứ Năm tuần
trước, ngày 30 Tháng Ba, một số bằng hữu
của ông tại Orange County đã gọi nhau tổ chức một buổi tưởng niệm Thanh
Tâm
Tuyền tại hội sở vừa được làm mới của tờ Việt Báo. Trong ban tổ chức,
các bạn
của ông đều là những người sinh sau Thanh Tâm Tuyền - trừ cô Thái
Thanh, mà vẫn
là vai em vì ông chơi với người anh là Phạm Ðình Chương. Và cũng không
có ai là
văn nghệ sĩ đã viết trong nhóm Sáng Tạo.
Thái Tuấn hay Doãn
Quốc Sỹ, Duy Thanh hay Tô Thùy Yên đều ở
xa. Mai Thảo hay Ngọc Dũng thì không còn.
Không góp mặt trên tờ
Sáng Tạo vì trẻ hơn, nhưng mọi người
hôm ấy đều đồng ý và ngợi ca Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ lớn của
Việt Nam.
Trong số
“mọi người” này có Ðỗ Quí Toàn, Trần Dạ Từ và Nhã Ca đều cũng là những
nhà thơ.
Thời Thanh Tâm Tuyền,
các tác giả trong nhóm Sáng Tạo đều
muốn bước ra khỏi cái bóng của thơ “tiền chiến”, những thi sĩ của loại
“thơ
mới”. Họ muốn làm mới thơ mới, không viết loại thơ bảy chữ, tám chữ như
thế hệ
Phan Khôi, Ðông Hồ hay Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng nữa.
Thời nay, hôm ấy, mọi
người đều nhắc đến với sự trân quý tài
thơ của Thanh Tâm Tuyền. Ra đến ngoài này, trong cõi tự do đang cuộn
chảy,
không ai còn muốn làm mới tất cả và nhìn lại sự khai phá của Thanh Tâm
Tuyền,
và cả những cây bút cùng thời của ông, với niềm tiếc nhớ.
Quỳnh Giao muốn trở
lại cái thời mà Thanh Tâm Tuyền đã nối
lại vòng tay với các nhà thơ đi trước, qua những bài thơ ông viết trong
tù,
được đưa ra ngoài dưới bút hiệu Trần Kha. Ông trở lại thơ lục bát,
những bài
thơ có vần điệu, những câu thơ bảy chữ... Ở tuổi bốn mươi, trong tù,
ông viết
với sự an nhiên của một cụ già. Và ra tới bên ngoài này là gác bút. Ông
tự xé
lấy tờ lịch của chính mình.
Vang Vang Trời Vào
Xuân là tập thơ ngắn của Trần Kha, với
những bài như Chôn Tù, Long Giao, Mưa Trên Núi, Chiều Hanh Khô Trên Ðồi
Hương
Nhu, Ngã Trên Núi Khi Vác Nứa, Nhổ Cỏ Hương Nhu Nhớ Bạn...
Gần hai chục năm
trước, Cung Tiến phổ nhạc loạt thơ này
thành tập “liên ca” gồm một chục ca khúc ngắn. Lần đầu chúng ta hát thơ
Thanh
Tâm Tuyền sau các bài nổi tiếng như Dạ “Tâm” Khúc, Lệ Ðá Xanh hay Ðêm
Màu Hồng
là khi Lê Văn tổ chức tại miền Ðông, có Mai Hương và Quỳnh Giao chia
nhau hát
liên ca ấy. Sau đó, liên ca còn được hát hai ba lần tại California
và Minnesota...
rồi đi dần vào lãng quên.
Trăng lạnh soi mái
ngoài
Lênh đênh đêm chẳng
thấy
Gió hú rợn núi đồi
Ðêm sâu kín khắc
khoải...
Quỳnh Giao nhớ mãi
câu này. Ðêm trên núi đồi giữa vùng trăng
lạnh, tâm trí người tù lại thấy lênh đênh, không mênh mang mà lênh
đênh, như
đang trôi dạt trên biển đen.
Trượt dốc té nhào
trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân
trong giây lâu....
Thanh Tâm Tuyền viết
như vậy khi ngã trên núi ở Yên Bái năm
1979.
Với nhạc Cung Tiến -
những Hoài Cảm hay Nguyệt Cầm đều đã
thành Hương Xưa - người hát phải “té” trên năm nốt nhạc. Từ ré xuống
tới sol mới
“nhào”, và hẻm núi sâu hun hút với nốt láy không nguôi. Thơ làm nhạc té
như
chiếc lá, lảo đảo rơi xuống vực.
Sáng nay mệt chết
giấc ở trên đồi
Vòng quanh, tiếng
cuốc bổ liên hồi
Ðào huyệt chôn tù
nghe đây chúng bạn:
Cứ để nguyên người tù
xác phơi...
Câu “mệt chết giấc”
là một giấc rất dài, kéo không dứt trên
nhiều nốt nhạc.
Nôm na dễ hiểu là hát
không dễ!
Duy nhất dễ nhớ là
đoạn trích dẫn cuối bài Nhổ Cỏ Hương Nhu
Nhớ Bạn, nhạc Dang Dở của Ðoàn Chuẩn Từ Linh, như nhớ về thời “tiền
chiến”.
Vì hát không dễ mà
sau này ít còn ai nghe thấy Vang Vang
Trời Vào Xuân, một điều thật đáng tiếc.
Cung Tiến càng học
nhạc lại viết càng khó, giai điệu của ông
đã ra khỏi thời mượt mà cảm động năm xưa, trở thành “classique”, nhưng
“contemporain”,
cổ điển mà đương đại, và trúc trắc khó diễn tả. Cho nên những bài “tiền
chiến”
của ông, từ Hoài Cảm đến cả Vết Chim
Bay,
may ra còn có người hát. Chứ sau đó thì thôi.
Mà Phạm Ðình Chương
không còn nữa, ông mất quá sớm khi vừa
qua lục tuần. Thơ Thanh Tâm Tuyền vì vậy bị đọng trong thời Sài Gòn tự
do, thời
“tiền chiến” 1954-1975. Thơ Xuân phơi phới của ông ở trong tù tan loãng
dần
trong cõi tự do, có khi đã trở lại núi rừng Việt Bắc năm xưa...
Mắt hoen nhòa hứng
giọt thiên thâu...
Năm xưa, bên huyệt
sâu của Mai Thảo, Võ Phiến đã có bài điếu
văn nói về cái nghiệp của người cầm bút lưu vong như Mai Thảo. Trong
một thế
giới quý trọng vật chất họ tiếp tục theo đuổi cái đẹp, nhiều khi phù
phiếm vô
vọng, nhưng giúp chúng ta trở thành văn minh hơn.
Trong cõi văn minh ấy
của tâm tư, trong cõi văn minh riêng
tư ấy, nếu có cơ hội cùng hát và đọc thơ Thanh Tâm Tuyền, dù chỉ để cho
nhau
nghe, thì cũng là một niềm vui và là một sự nhắc nhở đầy đủ về di sản
thơ văn
của ông.
Với Thanh Tâm Tuyền,
tiền chiến có khi trải dài cho đến
những năm sau 1975. Những năm ông ở trong tù.
Nguồn