Trong
Đất Trời Nhau....
Trong đất
trời nhau mình vẫn gần.
Mai Thảo
Khu lều bạt Thăng Long, nơi tạm trú
sinh viên Hà Nội di cư,
nằm ngay trung tâm thành phố trên đất Khám Lớn Sài Gòn cũ, tháo dẹp.
Sinh viên
chuyển vào Đại Học Xá Minh Mạng, dù công trình xấy cất chưa hoàn tất.
Đặc san
Lửa Việt của Hội Sinh Viên Đại Học Hà Nội, do anh Trần Thanh Hiệp làm
chủ
nhiệm, anh Nguyễn Sỹ Tế làm chủ bút, sau số Xuân Chuyển Hướng, cũng
ngưng xuất
bản.
Bấy giờ là năm 1955. Di cư đã đến hồi vãn cuộc. Hà Nội khuất
biệt từ tháng Mười năm trước. Sài Gòn vẫn còn xô bồ những mới mẻ, những
hứa hẹn
trong con mắt người di cư.
Chúng tôi - các anh Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc
Sỹ, và tôi - gặp nhau, cùng làm việc, quen dần nhau qua mấy số Lửa Việt
- nơi
đã in vở kịch Trắng Chiều của
anh Tế viết khi còn ở Hà Nội, các truyện
ngắn Chàng Nhạc Sỹ, Gìn Vàng
Giữ Ngọc của anh Sỹ và một vài bài thơ của tôi
- , đồng
ý cần có tờ báo của mình để viết cho
sướng tay, để may ra đóng góp
được
cái gì cho công cuộc chung.
Trong khi chờ anh Hiệp tìm kiếm nguồn tài trợ, chúng tôi
nhận hợp tác với nhật báo Hòa Bình của anh Vũ Ngọc Các, làm trang Văn
Nghệ hàng
tuần cho tờ báo. Tôi được giao phó công việc đầu bếp lo việc sắp xếp
bài vở cho
trang báo vì rành thì giờ nhất và được nết chịu khó đọc.
Nhờ trang báo chúng tôi gặp thêm bạn: Giao Thanh và Mai
Thảo.
*
Giao Thanh, một nhà giáo bị gọi vào
khoá 2 Thủ Đức, chết năm
79 hoặc 80 tại K5, trại Tân Lập, Vĩnh Phú. Những năm còn ở Sài Gòn,
Sàigòn, Anh và Chị
thỉnh thoảng cùng nhau thả bộ từ nhà ở chung cư Sĩ Quan trên đường Trần
Hưng Đạo gần Đồng Khánh sang nhà tôi chơi ở Bà Chiểu; năm 70, khi
tôi lên Trường Võ Bị Đà Lạt, chúng tôi gần nhau hơn: anh chỉ ao ước làm
sao in
được tập truyện viết từ nhiều năm của anh mà không được.
Nhớ một truyện ngắn của anh gửi đến chúng tôi kể về một đôi
vợ chồng trẻ di cư ở trên một nhà - thuyền, đêm thao thức, cùng nhau nỉ
non tâm
sự, cùng mơ ngày có căn nhà trên đất liền cho con cái ở; để tả cảnh
sông nước
Hậu Giang, anh cho nhân vật ra đứng trên mũi thuyền tiểu tiện xuống
sông. Nhớ,
sau khi đăng truyện, gặp anh Vũ Khắc Khoan đã bị trách: "mấy cậu avant-gardiste này
nhảm quá..."
*
Mai Thảo gửi tới chúng tôi Đêm Giã Từ
Hànội.
Tôi nhận được một bao thư dầy cộm, không địa chỉ người gửi,
trong đựng xấp bản thảo đánh máy. Bút hiệu Mai Thảo hoàn toàn xa lạ với
tôi.
Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh
ngạc:
Phượng
nhìn xuống vực thẳm: Hànội ở dưới ấy.
Câu trích đề của truyện đột ngột khác thường. Nó
không trích
ra từ một tác phẩm khác đã có. Nó như tự trên trời rớt xuống, hay nói
như Mai
Thảo là câu “bắt được của trời”. Cái chiều sâu của nó làm chóng mặt.
Tưởng nên nhắc nhớ rằng ẩn dụ “vực thẳm”, cứ theo chỗ tôi
biết, cho đến lúc bấy giờ chưa thấy được dùng trong văn chương Việt Nam.
Phải đợi
vài năm sau, khi Phạm Công Thiện xuất hiện với ảnh hưởng của Nietzsche,
văn từ
“hố thẳm” mới tràn lan và trở thành sáo ngữ.
Đọc hết truyện thì rõ câu trích đề là một câu ở trong
truyện. Phượng là tên nhân vật.
*
Đây là một truyện không cốt truyện.
Sự hấp dẫn bắt đọc là ở lời, giọng kể, ở ma lực của tiếng
nói bắt lắng nghe – theo bước di chuyển của nhân vật giữa thành phố bỏ
ngỏ trong
đêm, sự vật ẩn hiện nổi chìm trong giấc kín bưng triền miên của chúng -
, ở sự
dồn đẩy khôn ngưôi của chữ nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành
những vận
tiết mê mải tới chốn nhòa tắt mọi tiếng.
Gọi Đêm Giã Từ Hànội là
truyện hay tùy bút đều được. Cứ theo ký ức cùng
cảm thức của riêng tôi, trong và sau khi đọc, thì đó là một bài thơ.
Thơ là thứ tiếng nói tàng ẩn trong quên lãng bất chợt vẳng dội, đòi
được
nghe lại (nghĩa là đọc lại, lập lại). Người ta nghĩ đến một truyện
ngắn,
một bài tùy bút, một quyển tiểu thuyết đã đọc, nhưng người ta nhớ đồng
thời nghe và gặp lại một câu thơ, một bài thơ.
Đêm
Giã Từ Hà Nội là một bài thơ
thỉnh thoảng vẫn vẳng dội trong tôi mà tôi không thể nhớ toàn vẹn
- tỷ như lúc này đang viết đây tôi không cách nào tìm đọc bài thơ ấy
trừ cách tưởng tượng dựa vào ý ức và cảm thức còn sót đọng, trừ câu
trích đề.
*
Nhớ trong buổi họp kiểm bài vở trước khi chuyển xuống nhà in, tôi đã
không thể ngăn nổi mình yêu cầu các anh Hiệp, Sỹ, Tế nghe tôi đọc
Đêm Giã Từ Hànội đăng trọn trong
một kỳ báo, không cần lời giới thiệu. Và tôi đọc say sưa,
hùng hồn liên hồi. Và các anh
chịu khó ngồi nghe trên căn gác
lửng tối chật của tòa báo. Anh Tế kết thúc buổi họp nói đùa "Anh làm
chúng tôi mất cái thú tự mình khám phá".
Năm di cư thứ hai mươi [1974], khi viết bài
Tử Địa, nghĩ đến những đứa
con tư sinh của đất Bắc ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu
trích đề của Anh, tuyên xưng nó là câu văn bất hủ. [Người ta có thể
nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi
ông bảo: "Cả sự nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng
nửa
vần thơ của Pushkin."]
Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng
trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm
bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên
tai
"... Nhìn xuống vực thẳm... dưới
ấy..", câu của anh vẳng ngân như
là một câu thơ. [Câu văn là một câu gắn liền trong mạch văn,
tách ra khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách ra
khỏi mạch vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc].
*
Đăng bài Anh, tôi viết lời
nhắn mời anh đến chơi tòa soạn.
Mai Thảo đến.
Anh đi chiếc xe đạp đầm sơn trắng, đầu còn đội mũ
phớt kiểu
Hà Thành Công Tử.
Yên xe đạp được nâng lên cao hết cỡ vẫn chưa vừa với
tầm chân
của anh. Chúng tôi rủ nhau ra quán cà phê đầu hẻm gần đấy, ngồi trên
ghế thấp
trên lề đường Lê Lai trông sang bờ tường rào của nhà ga Sàigòn nói
chuyện. Hồi ấy
anh mới vào Nam, còn ở chung với gia đình anh Viên trong một căn phố
đường
Jacques Duclos, thuộc khu Tân Định (đường này song song với đường Trần
Quang Khải,
trong khoảng từ nhà hát bội đến lối vào Xóm Chùa. Tôi nói bỡn: “Anh ở
trúng vào
con đường mang tên một tay tổ Cộng Sản Pháp”).
Chuyện giữa hai chúng tôi xoay quanh văn chương, thi ca. Anh
đọc và nhớ khá nhiều thơ Việt
Nam
thời hiện đại kể cả loại thơ ít người đọc như thơ Nguyễn Xuân Xanh
trong
Xuân
Thu Nhã Tập. Anh rất
chịu
thơ Chế Lan Viên. Nhân đề cập đến thơ ở Hànội
rồi Sàigòn
lúc ấy, tôi nhắc đến một bài thơ gần đây tình cờ đọc trong một trang
Văn Nghệ của
một tờ báo mới xuất bản: một bài thơ mới, lạ, chững chạc, dưới ký tên
lạ hoắc
chưa từng thấy: Nhị; một bài thơ
lạnh,
tôi rất thích chất
lạnh của
thơ,và cách
biểu hiện cảm thức bằng những hình ảnh dở dang, trở đi trở lại dưới
những ánh rọi
khác nhau, đồng thời với cái tiết điệu biến hoá được nối kết lại bằng
những câu
trùng; tôi đọc những câu thích nhất, có hơi thơ gần
siêu thực:
Lại thấy con đường như
lặng
Những đỉnh cây xanh
Và những ngón tay trên
phím dương cầm
Đôi guốc mộc trong căn
phòng trừu tượng.
Cúi đầu xuống cúi đầu
xuống.
Anh lặng nghe tôi bình phẩm, đọc thơ, rồi nói: Nhị là tôi.
Chúng tôi thân thiết nhau ngay từ buổi gặp gỡ ấy.
*
Cúi Đầu
Cúi đầu xuống cúi đầu xuống
Mà đi vào chiều xanh đỉnh cây
Một đẹp lên khối hai đẹp lên hình
Người cúi đầu đi vào chiều mình
Thảm cỏ non cánh cổng thấp
Lớp đá đường rồi thảm cỏ non
Hướng chiều thăm thẳm phố hoang vu
Người tuổi ấy hát chiều sao ấy
Tiếng hát suối trong hàng mi liễu buồn
Mắt tròn im lặng.
Tôi chọn tình yêu làm biển trời
Cúi đầu xuống cúi đầu xuống
Mà thương trở lại nhớ nhung về
Hàng hiên xưa, trang sách mở, cánh tay
ngọc
Chiếc dây chuyền và sợi len đỏ
Mái tóc dài của người trong vườn
Cột điện đầu tường lá rụng
Rào rào mái đựng mùa thu
Phố đếm chân đi về mãi mãi
Điếu thuốc lá, chiếc khăn quàng, vành
mũ lệch
Đổ xuống bờ vai bóng tối núi rừng
Mưa phùn ngõ nhớ nghiêng lưng
Lối đi là lối dương cầm
Đôi guốc mộc căn phòng trừu tượng
Tôi chọn tình yêu làm biển trời
Cúi đầu xuống cúi đầu xuống
Mà dựng tình yêu thành thế giới
Cấy những chùm sao lên nền trời
Hát nghìn năm biển đầy vĩnh viễn
Lại thấy con đường im lặng
Những đỉnh cây xanh
Và những ngón tay trên phím dương cầm
Đôi guốc mộc căn phòng trừu tượng
Cúi đầu xuống cúi đầu xuống
NHỊ
*
Trong nhiều năm anh viết văn, bằng
lòng làm nhà văn, không làm
thơ. Trên Sáng Tạo chỉ một lần anh đăng hai bài thơ ngắn – Nghe Đất, Ý Thức – cũng
ký tên Nhị. Cả ba bài thơ của thời trẻ này được giữ lại trong tập Ta Thấy Hình
Ta Những Miếu Đền gồm những bài thơ anh làm sau ngày anh bắt
buộc phải lìa bỏ Sàigòn.
Chẳng rõ anh Khánh có tìm thấy những trang thảo để lại trên bàn viết
của Anh bài
thơ nào sót không? Câu thơ trích làm nhan cho bài viết này lấy từ một
bài thơ
anh gửi tôi khi tôi còn ở nhà sau chuyến đi Bắc.
Ở Người
Việt rồi Sáng Tạo,
anh viết truyện ngắn, tùy bút, lý
luận… Những bài tùy bút như Phương
Sao, Tiếng Còi Trên Sông Hồng đánh dấu một bước
mới mẻ của câu văn Việt. Tuy nhiên, đối với tôi, anh lúc nào cũng là
một thi sĩ
cho dù anh không làm thơ.
Đầu năm 78, ở Lao Kay lần đầu tiên
nhận được thơ nhà, biết
tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: “Bố nuôi của Thái về quê ngoại sống, không
ở Sàigòn
nữa”) tôi như người chợt tỉnh sau giấc hôn thuỵ. Bài Nhớ Thi Sĩ viết vào lúc
ấy đề
tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi
nghĩ chắc
không còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có
cả lời thơ
của anh.
*
Như mọi thi sĩ của một thời điêu đứng,
anh chạy trốn thơ cho
đến lúc không thể trốn được nữa, bởi anh đã rõ:
Cõi không là thơ,
Không còn gì hết là Thơ. Nơi không còn gì nữa hết là Thơ. Một xóa bỏ
tận cùng.
Từ sự xoá bỏ chính nó. Tôi xoá bỏ xong tôi. Không còn gì nữa hết. Tôi
thơ.
Và như thế…?
Et le poète
reconquiert son invisibilité.
Jean Cocteau
Good Night, Sweet
Prince!
Hamlet – Shakespeare.
Chúc Người An Giấc, Công Tử của Lòng
Ta.
Thanh Tâm Tuyền
2-98
[Lần đầu đăng trên Tạp Chí Thơ, số Mùa Xuân 1998 ]