Tô Hoài
Tình Buồn
Ngày trước
ai đi lấy chồng như bà Tứ người ta bĩu môi chửi là gái nứng đi theo
chồng và
khinh ra mặt. Ông Tứ nghề thợ ngõa, quanh năm đeo hòm vác cưa, cầm cân
nảy mực
đi ăn cơm tứ chiếng. Năm ấy, bỗng dưng đưa về một người con gái. Làng
nước thì
thào cô này chửa buộm, đứa con trai đầu lòng ấy không phải con phó Tứ.
Có người
bảo là anh thợ mộc cuỗm con gái chủ nhà. Cô ấy người dưới nam, nghe rõ
giọng kẻ
bể. Lại người thì nói cái tiếng ấy là người chẳng đâu xa, vùng bên kia
sông
thôi. Không biết thế nào.
Bà con rồi
cũng gọi là thím Tứ, cô Tứ. Dần dà thì sự khinh khi của người ta cũng
nhạt đần.
Đến khi con cái trong nhà đã lớn và thế sự đã thay đổi nhiều thì cũng
chẳng còn
ai rỗi hơi bới móc gốc rễ cái người đàn bà ngày trước khăn gói lấy
chồng theo
không ấy nữa. Thời buổi mới, cho qua.
Vợ chồng phó
Tứ có ba người con. Chồng đặt tên con theo cái thú chơi cờ bạc là sáu
tên sáu mặt
con thò lò thoạt nghe cũng có vẻ buồn cười một tý nhưng rồi sinh có ba
con, nên
chỉ có được thằng Nhất, cái Nhị, cái Tam. Thế mà đứa con nào cũng khá
cả. Thằng
Nhất học hết bậc phổ thông, được làm anh giáo trường làng. Cô Nhị, cô
Tam lấy
chồng làng bên, những con rể có chức vị có máu mặt. Người nào cũng khi
chủ tịch,
khi chủ nhiệm, khi bí thư...
Một năm kia,
ông Tứ ốm. Rồi ông mất bệnh già. Chẳng bao lâu, thấp thoáng đấy mà bà
phó Tứ đã
lọm khọm lúc nào. Từ khi ông mất, bà không ở hẳn với con nào. Cứ liều
liệu ở mỗi
nhà ít lâu, nhưng Tết nhất hay giỗ chạp thì bà thế nào cũng về nhà con
trai là
anh Nhất. Mới năm trước, còn đi ra ruộng làm cỏ lúa. Giữa trưa, nắng
chang
chang mà xách được giỏ cua dưới đồng sâu về, lấm như vùi. Mấy năm nay
thì chịu
rồi, chỉ loanh quanh nhặt nhạnh cái rau cái cỏ trong bờ rào. Tính nết
đâm ra lẩm
cẩm dần, ăn đấy lại quên đấy.
Bà Tứ ngồi
rười rượi trông ra ngoài ngõ, có người đi qua, chào hỏi: "Bà đã xơi cơm
chưa?". Vừa xong bữa hẳn hoi, mà bà Tứ ngây mặt ra rồi hừ một cái:
"Nào đã cơm cháo gì đâu ! ". Người con dâu trưởng đã để ý cái nhẵng
tính tai ác đấy của bà mẹ chồng từ lâu. Có lần chị cũng nói trong bữa
ăn, nhưng
nói vui thôi. Bà buông đũa xuống, đứng lên: "Tôi vu oan giá họa cho ai
để
tôi chết không nhắm mắt à?".
Các cháu
cũng không dám nói cợt bà thế. Tưởng chỉ ở nhà giáo Nhất thì có thể
sinh ra
chuyện "chó dữ mất láng giềng, dâu dữ mất họ!" bà lão mới hay dở chứng,
nhưng cả những khi ở bên nhà các cô Nhị, cô Tam bà cũng vùng vằng, mà
trước mặt
các con gái, bà còn rủa xả ác khẩu gấp mấy: "Là con chó dại cắn càn thì
mới
mở mõm ra ăn không nói có thế".
Cả năm nay
bà lão ngại đi, chỉ ở nhà giáo Nhất, không sang nhà các con gái. Thỉnh
thoảng
hai cô em đèo lên anh yến gạo và ít tiền. Được cái anh em nhà này vốn
cũng dễ
dãi, êm ấm cả. Nhưng mà người ta bảo số tuổi càng gông đeo trĩu cổ thì
lại chỉ
trái tính hơn. Bao nhiêu nết na, kỹ càng, ý tứ và thời con gái nhanh
nhẹn ve vé
việc nhà của cô Tứ xưa mà bà lão Tứ bây giờ vẫn còn nhớ vanh vách đấy
nhưng bà
lão thì hàng ngày chỉ còn làm trò chơi cho lũ trẻ con.
Bà vẫn nói:
Người ta trước kia không tuềnh toàng đoảng như chúng mày bây giờ đâu.
Nồi cơm
bưng lên phải nhớ lót rế, sới cơm thì có đũa cả, đàn bà con gái phải
ngồi đầu nồi...
Không vét nồi quèn quẹt, vét nồi là điềm năm ấy đói kém, mà cũng là nhà
keo kiệt
mới thổi ít cơm phải vét nồi thế. Dâu con trong nhà, giá có ăn được ba
bát thì
cũng chỉ thong thả hai lưng, mà khéo ý tứ đứng lên sớm hơn trước cả
nhà. Bà lão
vẫn thuộc in những thói phép thế. Bà hay mắng: "Bố chúng mày là thầy
giáo
mà chúng mày ăn uống hùng hục như lợn thế thì bố chúng mày đi bảo người
ta học
cái gì! ". Bà rỉa róc thế, các cháu chỉ cười hô hố.
Không phải
chúng nó cười những sự cổ tích nhiêu khê của bà đâu. Mà chúng nó cười
cái khác,
cái hâm của bà. Chả là những răn dạy khuôn phép của bà lão bây giờ lẫn
lộn cả với
những cái dở hơi. Thói quen trên dưới nhường nhịn vẫn nhớ đời mà con
người thì
già đi, ít ai nhận ra tuổi đã khác thì cũng sinh lắm tính khác.
Ăn đói thì
phải chóng đói. Mà người già ở trong làng, cả đời chưa chắc đã được đủ
ngày hai
bữa. Bụng còn thòm thèm, nhưng lại nghĩ, bây giờ chẳng còn làm ra của
nả cho
nhà mày, mắt kèm nhèm đuổi con gà cũng không được, nên bớt mồm bớt
miệng lại.
Nhưng mà thế thì đói, làm thế nào.
Khi nhà vắng,
bà lão Tứ lần xuống bếp. Bà lão sờ soạng các thứ từ cái mâm chõng ăn
cơm lên chạn.
Có bát tương, bà lão thò hai ngón tay chấm rồi đưa vào hàng móm mút
chùn chụt.
Chỗ cơm nguội còn đến lưng liễn. Bà lão bốc một nắm to. Mỗi lần bốc
rồi, bà lão
lại lấy tay san phẳng vun khéo lại như cũ. Hai hàm răng bà lão đã rụng
hết, lâu
nay chỉ nhai bằng lợi. Hình như của ăn vụng bao giờ cũng ngon hơn hay
là bà lão
đương đói, lại đứng trong bếp một mình, cho nên cứ việc bốc bải, nhai
nuốt, mặc
sức mặc nhiên.
Bà lão tưởng
thế thôi, chứ không phải lúc ấy có một mình đâu. Hai con mắt bà lão bị
nhài quạt,
bấy lâu chỉ còn thấy mờ mờ, đi trong nhà đã quen bước chân và người thì
chỉ
nhìn bóng mà đoán ra. Mấy đứa nhóc tụ tập ngay ngoài hiên. Trẻ con
thích nghịch
ác, chúng nó bấm lưng nhau im lặng rón rén vào xem bà ăn vụng. Bà mút
tương, bà
húp nước dưa, bà bốc cơm... Chốc bà lại hốt hoảng nhìn ra. Nhưng chẳng
nhìn thấy
gì cả.
Có đứa thích
quá, thúc cùi tay vào sườn đứa kia. Thằng nọ kêu toáng:
- ối!
Bà lão Tứ giật
mình, đặt vội cái liễn vào trạn, khép hai cánh gỗ lại, quay mặt ra hỏi
ngay ngắn
tự nhiên:
- Đứa nào về
đấy?
Bà lão còn
lúng túng chưa biết nói thêm thế nào, một đứa đã hét to:
- Một, hai,
ba...
Rồi cả lũ ồn
ào hét một lượt:
- Bà ăn vụng
cơm ? Một, hai , ba. Bà ăn...
- Cha đẻ mẹ
chúng bay!
- Mép bà còn
dính hạt cơm kia kìa. Cơm lại vãi dưới đất nữa...
- Cha đẻ mẹ
chúng mày ? Tao thề có thổ thần hai vai, tao mà nuốt trộm một hột cơm
của nhà
chúng mày thì giời tru đất diệt tao.
- Ê, ê... Một,
hai...
- Tao thề...
Hôm ấy câu
chuyện vui, trẻ con khoái quá kể với bố mẹ ngay ở bữa ăn. Bà lão đặt
bát cơm ăn
dở xuống, run run đứng dậy, nước mắt đổ ròng ròng, ra ngồi ngoài ngõ.
Vợ giáo
Nhất chỉ tủm tỉm cười, giáo Nhất thì quát chúng nó im. Giáo Nhất vốn
người dễ
tính, mãi đến chiều mới nói với mẹ:
- Bận sau bà
cứ ăn cơm cho no, đừng phải làm thế.
- Tôi thề,
tôi thề có quỷ thần hai vai, tôi không...
- Con chỉ
xin mẹ thế thôi. Đến bữa cứ ăn đủ, đừng nhường nhịn mà khổ thân, mà để
các cháu
nói hỗn thế nó sinh hư ra.
Sáng hôm
sau, nhà lại vắng như mọi hôm, bà lão Tứ nghe ngóng xung quanh im ả,
rồi lần lần
vào bếp. Những đứa trẻ lại đến đứng ngoài hiên từ lúc nào, thêm cả mấy
đứa hàng
xóm cũng sang xem "trò chơi" bà ăn vụng. Mà bà không biết.
Bà lão Tứ bốc
cục cơm, móm mém nhai. Thì...
- Một, hai,
ba...
- Bà già ăn
vụng! Một, hai... bà già...
Bà lão trợn
hai con mắt cùi nhãn, lật đật đóng cánh cửa chạn.
- Đẻ mẹ
chúng bay?
- Một, hai,
ba...
- Có quỷ thần
hai vai...
Thường mỗi
buổi sáng lại sinh ra trò chơi ấy của trẻ con. Ngồi vào mâm, có hôm
quên bố mắng,
trẻ em lại lỡ miệng ríu rít kể. Bà lão lại bỏ bát cơm, lần thần ra ngồi
ngoài
ngõ. Giáo Nhất phải quát: "Không được hỗn!". Rồi những đứa trẻ cũng sợ
bố, không dám nói huyên thuyên, bắt chước cả bà bốc cơm, nhưng mỗi buổi
sáng
chúng nó vẫn rủ nhau rón rén đến đứng xem bà vào bếp ăn vụng. Mẹ chúng
nó chép
miệng nói trống không: "Cả tối bà cũng lần xuống bếp, chả cứ ban
ngày!".
Giáo Nhất lặng
im. Nông nỗi nhà này cũng lắm éo le. Vợ giáo Nhất chẳng ưa mẹ chồng,
nhưng nể
chồng cho nên không bao giờ nói một lời nặng nhẹ như cái câu thế gian
mai mỉa:
"Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể; con nuôi cha mẹ con kể từng
ngày", nhà không hề có tiếng bấc tiếng chì về gánh nặng mẹ già. Nhưng
mọi
việc phải làm cho mẹ, Nhất cáng đáng tất. Nhất không cho mẹ ra cầu ao,
sợ nhỡ
bà cụ lẩy bẩy sa chân thì khốn. Nhất tự tay rũ giặt xống áo cho mẹ. Vợ
giáo Nhất
làm như không để ý.
Cái sự con
trẻ xấc xược thì giáo Nhất cũng chỉ coi như một bực mình lặt vặt dẹp đi
thì
thôi. Nhưng mà việc đời đổi thay như mưa nắng có con kiến và con người
vần xoay
ở trong, vả chăng, nghĩ hay chẳng nghĩ thì rồi cái việc ấy, cái ngày ấy
cũng đến.
Mỗi năm mỗi tuổi, bà lão Tứ ngày một yếu. Rồi bà lão Tứ ốm. Việc ấy,
ngày ấy
đương tới rồi.
Bà lão Tứ
không dậy được. Rồi cũng chẳng ăn uống gì nữa. Giáo Nhất che chiếu lên
một gian
bên, kê cái giường ra phía ngoài cho sáng một chút. Rồi bẻ hai quãng
nan giường
dưới đặt một thúng tro. Lại cắt thủng cái chiếu để bà cụ nằm lọt một
phần lưng
vào chỗ giường khoét, cho tiện đái ỉa.
Nhà có người
ốm cứ buồn thiu như ngày có mưa dầm, ấy là bà con xóm giềng rồi các
thầy cô, học
trò trường làng và trường bên đến thăm hỏi, quà bánh, lúc nào cũng có
người ra
vào.
Nhất bưng
bát cháo vào giường mẹ. Mấy hôm nay bà lão không nghiêng người được.
Nhất ngồi
đút từng thìa cháo cho mẹ. Bà lão ngoẹo cổ ra cố nuốt, trông tội tội
như con cá
ngáp trên cạn.
Cũng hết được
lưng cháo. Nhất đặt cái bát, kéo lại mép chiếu lệch góc trong. Một lúc,
bà lão
bỗng bảo Nhất:
- Mẹ có việc
nhờ anh.
- Có gì thì mẹ
bảo.
- Mẹ không
phải là người làng này.
- Mẹ cứ lẩn
thẩn nghĩ ngợi điều ấy làm gì?
- Không, mẹ
có nghĩ đâu. Mẹ chỉ muốn nhờ con.
- Vâng.
- Mẹ quê ở
Giang Hạ bến kia sông thôi.
- À, làng
Giang, làng Hạ.
- Làng Hạ,
con ạ. Hôm nào con sang Hạ, con vào xóm Đồng, bây giờ già rồi thì không
biết
tên là gì, nhưng ngày trước tên là Cõi, anh cả Cõi. Con nói rằng ông
Cõi có được
thư thả thì mời ông sang chơi.
Nhất còn muốn
hỏi thêm mẹ thế nào nữa, nhưng bà lão đã lặng lẽ nghiêng mặt vào vách.
Cái người
ngày trước tên là Cõi, cái anh cả Cõi ấy là tôi. Bây giờ tên tôi vẫn là
Cõi, bởi
tôi vẫn bà cô ông mãnh thế. Có điều, đã tuổi tác, theo tục lệ và thói
quen kính
nể, ít người réo tên tục người già ra nữa mà làng xóm gọi tôi là ông
Ba, cụ Ba
- chỉ có mấy con mẹ bán bánh đúc tương ở chợ hay ỡm ờ chớt nhả thỉnh
thoảng cứ
réo tên cúng cơm gọi đùa lão Cõi, ông mãnh Cõi, bao giờ ông Cõi cưới bà
ấy cho
chúng cháu được ăn cỗ. Có mà lấy bà sáu tấm. ấy, chúng nó cứ trêu chọc
thế. Tôi
chẳng chấp.
Anh giáo Nhất
chắp tay nói:
- Mẹ cháu có
lời thưa với ông...
Chỉ mới nghe
thoáng thế thôi, tôi đã như thấy ngay cả rồi. Như là có thần linh cách
cảm giao
nhau khi người ta cùng nghĩ đến nhau hay là bởi nét mặt người đàn ông
này, cái
mũi và con mắt sao mà phảng phất cô ấy đến thế.
Mấy chục năm
đã qua. Nhưng mấy chục năm ở quãng giữa trống không, người trong cuộc
thì ngỡ
như chẳng có khoảng cách nào. Cô ấy ngày trước con nhà khá giả vườn
trên ao dưới.
Mà tôi thì bố mẹ nghèo quá. Dây dợ đâu đâu vương tơ khi trai gái đương
thì, cái
duyên cái nợ mà gặp nhau thôi. Cô ấy bảo tôi: "Anh về nói với mẹ bỏ cái
nghề cắp thúng đi khâu mướn thì...". Tôi bực mình, mát mẻ: "Nếu mẹ
không bỏ được cái tội đi khâu mướn ăn cơm nhà người thì giá xem có được
ngày nhờ
người đến đánh tiếng chắc ông phó lý bố em cho tuần cầm ba toong ra
đuổi ông mối,
chứ gì! ". Thế là cô ấy lại khóc, chỉ khóc.
Làm sao cho
mẹ tôi vứt đi đâu được việc khâu mướn ăn cơm khoán, cho bố con tôi thôi
đi bổ củi
thuê và các em tôi ngày không cắp cái bị bật quai ra cửa đình nhặt lá
đa về
phơi lấy cái đun. Chúng tôi như con săn sắt, con mài mài trong ao làm
sao bỗng
thành con cá hóa rồng được. Làng xóm dần dà cũng biết cuộc dan díu thầm
vụng éo
le này. Ông phó lý đã đánh cô con gái thừa sống thiếu chết. Có khi xích
chân
vào cột buồng cả phiên chợ. Nhưng mà dường như cô ấy lại càng bồng bột
như
điên. Xểnh ra lại đi tìm tôi. Có khi khóc đến hết nước mắt rồi cô bảo
tôi hay
là bây giờ hai đứa cùng ra cái đầm đầu làng nhảy xuống trẫm mình. Tôi
phải chắp
tay van lạy níu cô ấy lại.
Thế rồi chỉ
một việc nhẹ nhàng, vừa tan hoang lại vừa xong. Bố mẹ cô ấy tìm gả được
chồng
cho con gái. Đất làng này, nơi môn đăng hộ đối những nhà phó lý, trưởng
bạ thường
thường bậc trung, trước sân có hàng cau, vườn sau chuồng lợn ao bèo thì
cũng chẳng
mấy khó khăn. Mà cô ấy cũng chẳng tai tiếng đâu đến nỗi. Những chuyện
trai gái
phải lòng nhau làng nước coi như chuyện trẻ con mà người ta đồn đại
dông dài chứ
phải đâu gái chửa hoang, quân giăng há lên tỉnh la liếm hàng cơm quán
trọ. Thế
nào thì rồi mọi chuyện gả bán cũng xong xuôi như trăm nghìn đám cha mẹ
đặt đâu
ngồi đấy thôi.
Rồi nhà nọ
đi xem mặt, dạm ngõ, ăn hỏi, lại đã qua một cái sêu tết tháng bảy, đến
dạo cơm
mới tháng mười này thì cưới. Một hôm, cô ấy đi chợ rồi không về nữa.
Thế là biệt
tăm từ ngày ấy.
Bây giờ anh
giáo Nhất mới nhớ lại và nhận ra hình như cả một hồi còn trẻ không khi
nào mẹ
đi xem hội hè đình đám chèo hát ở đâu, cũng chẳng biết mặt cái chợ
huyện, mà
quanh năm mẹ chỉ như gái đẻ chít khăn vuông xùm xụp, ra cái chợ hôm lèo
tèo mấy
mủng cá tép ươn của nhà chài dưới sông đem lên đầu làng lúc xẩm tối.
Con người
gan liều đến thế. Chẳng được đẹp phận như người ta, thôi thì coi như
một đời
đành vùi vào chiêm bao, chỉ có một mình mình biết.
Cái lão ba
Cõi tôi theo giáo Nhất về bên sông ngay hôm ấy. Hai ông con qua đò
ngang. Chiếc
đò ngang xưa kia, ừ con đò ngang ngày ấy. Có lẽ như từ bao giờ vẫn thế.
Bên này
ới bên kia, con đò tai nghễnh ngãng, chểnh mảng, ẽo ợt, lững lờ sang.
Năm xưa,
đã có những giêng hai, mưa bụi như phấn hoa ngô bay, những chuyến đò
đưa đầy
người vào xem hội làng trong cánh đồng.
Còn đương
bâng khuâng về những ngày nào, thì mũi đò đã đụng bờ cát. Anh giáo Nhất
vác cái
xe đạp lên trước làm chòng chành con đò ọp ẹp. Ông Cõi đứng dậy, chị
nhà đò một
tay bế con, một tay giơ chiếc bơi chèo cho ông lão níu lấy, lẩy bẩy lần
lên. Rồi
tôi lại vẫn đương đi về ngày xưa. Tôi vừa lập cập vừa xăm xăm bước. Anh
giáo
"mời ông lại lên xe cho con đèo ông đỡ mỏi" nhưng tôi bảo anh cứ để
cho tôi đi thanh thả thế này. Xóm nhà anh tôi cũng biết rồi, chỗ khoanh
tre
quãng sông dưới kia chứ đâu.
Nghĩ thế thì
tôi bồi hồi giật mình. Làm sao chỉ vài bước chân mà cả đời tôi không
nghĩ được
ra, không tìm ra cô ấy ở đâu mà cô ấy dường như vẫn biết tôi, vẫn nhìn
thấy
tôi.
Nếp nhà ba
gian lợp lá mía, dứng tre trát xi-măng xám nhạt. Trước sân, hai cây mít
xum xuê
lá. Một vườn xoan sau nhà. Cái cổng rong cành rào trống hốc, con chó
cũng chui
lọt. Nhà tuy ngăn nắp nhưng cũng chẳng có của nả, cũng không cần cửa
giả nên hồn.
Tôi bỗng ngỡ tôi đương đi về nhà tôi. ừ giá mà ngày ấy chúng tôi lấy
được nhau
thì nhà cửa, vườn tược, con cái chắc cũng tương tự thế này. Ngày ngày
ra sông
xuống đồng kiếm cái ăn, cả đời người chẳng có điều phải nghĩ xa nghĩ
gần. ở
trong làng xóm, ngẩng mặt lên bốn phía khoanh tre mù mịt, quan tâm đâu
đến
ngoài kia đồng đất thế nào, tôi đương đi về nhà tôi đây. . .
Tôi ngồi xuống
chiếc ghế đẩu kê đầu giường bà Tứ. Lũ trẻ lại đã lấp ló ngoài hiên. Từ
hôm bà ốm,
mỗi buổi sáng trẻ con không còn trò xem bà ăn vụng nữa. Chúng nó cũng
buồn. Bây
giờ chỉ còn ngóng khách đến chơi thăm bà- nhưng nhiều khi chỉ toàn
người làng,
nhìn mãi cũng chán mắt, lại tản ra ngoài vườn nhặt quả xoan non đánh
chắt, chơi
đố lá.
Không, bà
lão nằm ốm liệt giường kia không phải là cô ấy. Trong tưởng tượng của
tôi chưa
bao giờ nghĩ ra nông nỗi buồn thảm này. Tôi ngồi im. Tôi nghĩ thầm, tôi
cầu
mong không phải. Thì cũng đâu phải cô ấy ngày xưa, cô ấy ngày xưa cơ
mà.
Tôi cởi gói
bánh lúc nãy đi qua mua ngoài chợ và rồi lại lặng im chẳng biết nên nói
thế
nào.
- Nhà vẫn ở
dưới Hạ, chỗ cái bụi duối to ấy, hả ông?
- Vẫn đấy.
Nhưng cây duối thì làng xẻ đóng làm bàn cho trẻ học rồi, bà ạ.
- Ông thứ lỗi
cho tôi.
- Làm gì mà
phải nặng lời thế. Cố thuốc thang ít lâu cho khỏe rồi còn đi hội làng
trong.
Tôi vừa qua đò, sắp sang tháng hai rồi đấy.
Trên khuôn mặt
méo mó thoảng một nét cười mếu.
- Ông vẫn
chúa hay pha trò. Ông ơi, tôi chết không nhắm mắt được, tôi không giữ
được lời
với ông.
- Đã bảo
thôi mà. Ngồi dậy ăn bánh, cái bánh nếp mật ở chợ bây giờ chúng nó làm
cũng
khá.
- Ông bỏ lỗi
cho tôi.
- Thôi mà .
. .
- Ông nói
đi, ông bỏ lỗi cho tôi.
Tôi run rẩy
đưa hai bàn tay lên mặt người con gái năm xưa. Mặt người ốm trắng nhợt
nhạt như
đá, mà nước mắt thì nóng ấm đầm đìa lòng bàn tay tôi. Tôi sờ đến hai
con mắt,
hai con mắt mềm mềm nhắm lại, tôi dừng tay. Anh giáo Nhất quỳ xuống, ôm
hai đầu
gối tôi. "Ông ơi, mẹ cháu đi rồi". Tôi vuốt lại hai con mắt người vừa
nhắm. Thôi thế bà ấy đi rồi, cô ấy đi rồi.
Những người
con dâu, con gái đứng ở chân giường ôm mặt khóc nức nở. Lũ trẻ con chạy
tán loạn
ra vườn, tiếng khóc ánh ỏi, léc téc như những con chim sẻ bay vỡ đàn.