pd

Giới Thiệu


Nhạc sĩ Phạm Duy: Lá có rụng về cội?

7:21, 29/03/2005

Nhạc sĩ Phạm Duy.

 Một nhạc sĩ có tài nhưng đầy mâu thuẫn bởi hay nói trước quên sau, một con người đã nhiều lần rời bỏ những gì từng quý từng yêu để đến những bờ bến lạ với hy vọng ngày mai sẽ vui thú hơn ngày hôm qua. Đó chính là nét tính cách của nhạc sĩ Phạm Duy.

 
Tâm sự với bè bạn, trả lời phỏng vấn của một số nhà báo, nhạc sĩ Phạm Duy thường nói một trong những lý do để ông quyết định sớm xin trở về là từ những câu thơ ám ảnh đến nao lòng của một nhà thơ con một người bạn ông : “Về thôi…/ Làm gì có trăm năm mà đợi/ Làm gì có kiếp xưa mà chờ/ Đất mẹ - Đất Nàng/ Con sáo sang sông tha ngọn rơm vàng/ lót ổ…”.

 Không biết có phải để chuẩn bị cho việc xin về sống ở quê hay không, mà hình như khoảng năm 2002 thì phải, Phạm Duy đã tự vấn trên một tờ báo Văn của bà con Việt kiều ở Mỹ: “Nhiều khi tôi tự hỏi trên 25 năm nay được cái may - lúc đầu mệt mỏi mưu sinh, về sau an cư lạc nghiệp - tới sinh sống tại một nước giàu sang nhất thế giới là Hoa Kỳ, tại sao không sống bình thản với cái mất, cái còn, cái thua, cái được trong cuộc đời rất nhiều tiện nghi này? Mà cứ không chịu quên mình là người Việt Nam… Khắc khoải cuối cùng cũng đã ra đi với sự tôi trở về căn nhà thời thơ ấu ở phố Hàng Dầu, Hà Nội để hoàn tất chu kỳ một đời lang thang. Còn mong gì hơn nữa? Còn làm gì hơn nữa? …”.

 Tự vấn như thế, phải chăng cũng là một cách Phạm Duy trách mình, hay nói “văn chương” hơn là “sám hối”.

 Phạm Duy tâm sự với một nhóm nhà báo trong nước: “Tôi đi bao nhiêu năm tâm hồn tôi vẫn ở Việt Nam. Và trong suốt bao nhiêu năm đó không hề có bài hát nào về nước Mỹ, toàn là những bài hát về Việt Nam, cho Việt Nam dù vui, dù buồn, dù hay hoặc không hay. Tôi không có Việt Nam thì làm sao tôi sống được?”. Trải bao biến thiên dông bão của thời cuộc, hình như  lúc nào cũng thế, người nhạc sĩ này đã luôn tỉnh táo và khéo léo “thoát” qua những thời điểm nhạy cảm nhất để phải chăng là trung thành tuyệt đối với “lý tưởng” mà ông từng thừa nhận: “Tôi chỉ là một anh chàng chạy theo cái bóng của mình. Gần như suốt đời”.

 Có lẽ Phạm Duy đã nói đúng một phần khi tự nói về mình. Ông mải chạy theo ông đến mức nhiều người Hà Nội từng mê ông, mê những khúc nhạc tràn trề tình yêu quê hương của Cô hái mơ (phổ thơ Nguyễn Bính 1942), Tiếng thu (phổ thơ Lưu Trọng Lư 1945), Tiếng sáo Thiên thai (phổ thơ Thế Lữ 1952), Bà mẹ Gio Linh (1948)… bỗng có lúc đã  quên mất có một nhạc sĩ Phạm Duy đang sống ở “trời Tây” kia.

 May mà còn một số ít người Hà Nội tầm tuổi trên dưới 60 vẫn còn nhớ tới một Phạm Duy và người vợ Thái Hằng xinh đẹp dịp đầu xuân 1953 trong chuyến Đoàn Gió Nam mà hạt nhân là Ban hợp ca Thăng Long từ Sài Gòn trở lại miền Bắc biểu diễn ngay tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Lần đó vợ chồng Phạm Duy đi cùng với vợ chồng người nhạc sĩ - ca sĩ Phạm Đình Chương (em vợ  Phạm Duy) - Khánh Ngọc và nữ ca sĩ tài danh Thái Thanh…

 Người Hà thành có truyền thống yêu nước và thanh lịch, chẳng phải họ yêu tiếng hát của Ban hợp ca Thăng Long chỉ vì sự quyến rũ của các ca sĩ tài tử, thanh tú mà có lẽ trước hết giữa một Hà thành đang bị thực dân Pháp chiếm giữ người ta vẫn còn được nghe vẳng lên thánh thót hiếm hoi những ca từ lấp lánh tình yêu nước, yêu quê hương xen lẫn tình kháng chiến… cho dù lúc đó Phạm Duy trở lại miền Bắc không hẳn đã vì tinh thần kháng chiến mà ông đã sớm từ bỏ. Nhưng công bằng mà nói khi các ca sĩ Phạm Duy, Thái Hằng, Thái Thanh, Khánh Ngọc hát Tiếng hát Sông Lô và Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy tại Nhà hát Lớn Hà Nội trước sự thính tai của mật thám, quân đội Pháp thì chắc chắn họ chẳng dại gì thiệt thân để hát đúng lời nguyên bản như Phạm Duy từng sáng tác.

 Một nhà nghiên cứu về Hà Nội từng có giây phút được chứng kiến thời đó đã kể với chúng tôi rằng, khi Ban Hợp xướng ấy  hát Trường ca Sông Lô “Ai nhớ Sông Lô, giặc lên ăn cướp dân ta. Tôi nhớ sông Lô ngày qua chôn xác quân thù. Ba nghìn quân Pháp vùi thây…”, thì được hát “trệch” đi “ba nghìn quân cướp vùi thây…”. Hay khi hát Bà mẹ Gio Linh “Nhà thì Pháp đốt còn đây, khuyên nhau báo thù phen này. Mẹ mừng con giết nhiều Tây. Ra công xới vun cày cấy…”, thì Ban Hợp ca Thăng Long hát thành “Mẹ mừng con đánh giặc hay”, còn không nói rõ là đánh giặc nào.

Vâng, giữa ngày chiến tranh giặc giã, đánh đuổi thực dân giải phóng đất nước, dẫu thật bụng hay không, dẫu “xu thời” ích kỉ thế nào nhưng ai góp cho kháng chiến một chữ, một câu, người dân Hà thành nào dám quên. Và cũng chỉ cần những câu “trệch” đi như thế, chỉ cần những hành vi ứng xử của Ban Hợp ca Thăng Long như thế, người ta còn nhớ đến một Phạm Duy.

 Không phải ngẫu nhiên mà sau này có một nhà báo Việt Kiều ở Mỹ đã đánh giá về Phạm Duy thời gian ngắn ngủi ông đi theo kháng chiến thế này: “Đi kháng chiến, ông được bắt rễ trở lại với dân dã, gần gũi quần chúng. Tác phẩm của ông dần dà được định hình trong khuynh hướng rất nhất quán suốt thời gian sáng tác sung sức nhất của ông trong thời gian ở vùng kháng chiến”.

 Nhưng rồi, người nhạc sĩ ấy đã từ bỏ ân huệ, từ bỏ những tình cảm hiếm hoi quý giá ấy mà đi xa hơn 50 năm có lẻ (lâu đến mức mãi tới khi về quê lần đầu vào năm 2000, người con trai của văn sĩ Phạm Duy Tốn - tác giả của thiên truyện xuất sắc Sống chết mặc bay mới được biết mình là Trưởng tộc, cao tuổi nhất họ Phạm, gốc gác ở làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, Phú Xuyên, Hà Tây).

 Vậy là còn một chút tình ngắn ngủi góp cho những ngày kháng chiến chống Pháp trong những lời ca, Phạm Duy cũng từ bỏ nốt để chạy theo tiếng vọng của riêng mình, “an cư lạc nghiệp” trong khuôn viên cái bóng của mình. Chẳng phải vì Phạm Duy bỏ đi lâu mà người ta quên, công bằng mà nói nhiều người đã quên dần đi những Xuất quân, Ngày trở về, Cây đàn bỏ quên (1945), Khối tình Trương Chi (1945), Tình kỹ nữ (1946); quên dần ngay cả Tình quê (phổ thơ Hoàng Mạc Từ), Ngậm ngùi (phổ thơ Huy Cận 1961), Mộ khúc (phổ thơ Xuân Diệu 1962)… phải chăng là quy luật khắc nghiệt của thời gian và không gian; đồng thời cũng là sự đánh giá khá công bằng thuộc quy luật tình cảm của người Việt Nam thường dị ứng với tư tưởng “xu ngoại”.

 Ngay cả hàng loạt sáng tác sau này mà Phạm Duy tự chia thành đủ các loại ca… thì cũng thật hiếm thấy ca khúc của ông được công chúng trong nước tiếp nhận. Chẳng phải vì nhạc ấy ông viết ở nước ngoài “phảng phất hợp chất lồng kính” không tươi mởn cùng đời sống tình cảm thực nên khó song cùng với sự thưởng thức nghệ thuật của công chúng. Cái chính là trong đời, để thỏa mãn mình, Phạm Duy đã đi quá đà, có lúc dù vô tình hay hữu ý trở thành “con mồi” bị kẻ xấu lợi dụng chống lại cái thiện, có lúc lại lầm lạc sang cả những ca khúc mà lời lẽ ẩn chứa nội dung phản động, không thể chấp nhận với cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và con người Việt Nam.

 Thế nhưng, sau đó gần đây có lần, Phạm Duy khẳng định với báo chí người Việt ở hải ngoại như là sự vớt vát: “Tôi nhận xét hiện nay các nhạc sĩ (hải ngoại - Tác giả), dù trong làng cổ nhạc hay tân nhạc, sống lẻ loi cô quạnh quá. Thức ăn bồi dưỡng cho nhạc Việt là sự sống vô cùng phong phú ở thôn quê. Cổ nhạc, nhạc cải cách, nhạc cải tiến, dân ca phát triển, nhạc Việt Nam thuần túy theo lề lối cổ điển phương Tây mà muốn tốt đẹp phải bắt nguồn vào đời sống nhân dân…”.

 Ông nói thì có vẻ bài bản như thế, nhưng làm thì chẳng dễ chút nào, vì thế mà đã thừa nhận một cách tỉnh táo, thẳng thắn với một nhóm nhà báo trong nước nhân tết Ất Dậu này: “Cái chỗ đứng của nhạc sĩ Phạm Duy trong lòng công chúng còn quá chông chênh”. Quả là rất đúng khi có một nhà phê bình Việt kiều đã dí dỏm và đầy ẩn ý nhận xét về đôi mắt Phạm Duy: Một con mắt đắm đuối lãng mạn, và con mắt kia ráo hoảnh, tỉnh táo. Chẳng biết có phải tỉnh táo chiêm nghiệm từ trầm luân, lầm lạc của đời mình hay không mà giờ đây ông quyết định xin Nhà nước để con trai Duy Quang được về hát trên các sân khấu Việt Nam?

Hồng Thái

[Trích báo Công An trên lưới]