|
Những người đã chết đều có thật
Tuesday, June 21, 2005
NGÔ NHÂN DỤNG
Một phụ nữ đưa ba con
xuống tàu vượt biển sau khi đi thăm
chồng trong trại tù cải tạo và nghe chồng nói nhỏ: Bố không có ngày về.
Ðưa các
con đi đi. Bà mẹ và các con không bao giờ tới bến. Cả ba đã chết chìm
giữa bờ
biển Việt Nam
và các hòn đảo Indonesia.
Bây giờ người cha đang tị nạn ở Mỹ, vẫn tự hỏi mình có trách nhiệm như
thế nào.
Một bà mẹ khác đã an táng chồng sau khi ông tự tử không chết rồi bị
bệnh nặng
được đưa từ trại tù cải tạo về nhà chờ chết. Bà cũng quyết định cho các
con đi
vì chúng thuộc thành phần khi lớn lên sẽ không được vào đại học, không
được làm
cho cơ quan nhà nước, trong một xứ không có tư doanh. Họ có hai con
trai và bốn
con gái, đứa con trai lớn tình nguyện đi trước, cháu đã 16 tuổi. Nhưng
một
tháng sau thì mẹ và các em biết tin người anh đã biến mất ngoài biển
Ðông cùng
những bạn đồng thuyền. Bây giờ gia đình đã ở Mỹ, hình ảnh người cha và
người
anh một già một trẻ vẫn có mặt, ở trên bàn thờ. Tôi biết những chuyện
đó vì đều
là những người thân thiết.
Một người khác tôi
quen đã bắt được mối với chính quyền để
tổ chức vượt biên gọi là “bán chính thức,” với sự tiếp tay của các cán
bộ ăn
hối lộ bằng “cây.” Anh đã thành công nhiều chuyến trước khi quyết định
đưa gia
đình mình ra đi, với một chiếc tàu lớn và đầy đủ thực phẩm, nước uống,
thuốc
men với cả vũ khí tự vệ. Khi chiếc tàu tới Phi Luật Tân thì bị lật, vì
người ta
vội vã chạy về một phía sườn tàu. Vợ con anh đã chết hết, anh còn sống
nhưng
trong lòng cũng chết. Tôi vẫn gặp anh ở đây nhưng không bao giờ dám gợi
lại
những chuyện bi thương đó.
Chúng ta ai cũng có
những người thân, người quen biết, đã
mất tích ngoài biển Ðông. Nhiều người thuyền bị chìm, nhiều người
thuyền trôi
lạc lõng cho tới khi hết nước uống, hết thức ăn. Có bao nhiêu người
chết đói
chết khát khi giạt lên các hòn đảo nhỏ li ti nằm giữa đại dương sóng
cả? Có bao
nhiêu người bị hải tặc tàn sát!
Ở những trại tạm cư
như Bidong, Galang, mỗi nơi vẫn còn
những nghĩa trang chôn người Việt Nam
với mấy trăm ngôi mồ. Có những ngôi mồ tập thể chôn hàng trăm xác chết
từ cùng
một chiếc thuyền, thuyền trôi nổi lênh đênh đã được kéo vào bờ nhưng
mọi người
trên thuyền đã tắt thở. Vì lý do y tế, không ai tìm tòi để ghi tên
những xác
chết đó trên mộ bia. Những xác chết vô danh nhưng vẫn có mồ yên mả đẹp,
dù chôn
cất vội vã trên các hòn đảo, đó vẫn là những người may mắn. Vì còn mấy
trăm
ngàn người Việt Nam
đã chết trên biển Ðông, họ chết trong đau đớn, khổ cực, tuyệt vọng,
những xác
chết không tên và không mồ. Trước khi chết họ ngẩng mặt lên trời, miệng
không
ngừng cầu Chúa, niệm Phật, tụng Nam Mô Bồ Tát Quan Thế Âm hay đọc kinh
Kính
Mừng Maria. Ðó là những thuyền nhân chết không mồ mả. Biển Ðông là nấm
mồ vĩ
đại của họ.
Vì vậy nhưng tấm bia
tưởng niệm dựng trên các đảo Galang và
Bidong cũng là những mộ bia tập thể của nửa triệu cho tới một triệu
thuyền nhân
tử nạn. Các vị tu sĩ thuộc nhiều tôn giáo đã trở lại đảo làm lễ cầu
siêu độ cho
họ, và dựng lên các bia mộ tập thể đó. Ðứng giữa hàng trăm nấm mồ có
bia mộ và
hàng trăm nấm mồ khác không được dựng bia, các đài tưởng niệm là bia mộ
của
những người được thủy táng trên biển Ðông. Ðó là những thuyền nhân xuất
phát từ
Hà Tiên, Vũng Tàu, Nha Trang hay Thanh Hóa, Móng Cái, nhưng không bao
giờ tới
bến tự do.
Trên thế giới đã có
những mộ bia tập thể dành cho người Do
Thái bị Ðức Quốc Xã sát hại. Có những đài kỷ niệm của người Armenia bị
quân Thổ
Nhĩ Kỳ giết tập thể trong thời Ðại Chiến Thứ Nhất. Tại Washington thủ
đô nước
Mỹ cũng có bia tưởng niệm những người Do Thái đã tử nạn, cùng với một
viện bảo
tàng. Ở Ottawa, thủ đô Canada
và nhiều thành phố khắp thế giới có dựng đài tưởng niệm các thuyền nhân
Việt Nam.
Nhưng không tấm bia ở một nơi nào mang ý nghĩa lớn như ở các hòn đảo
nơi có
hàng triệu người tị nạn đã tạm trú. Nhiều người chết ở đó, nhiều trẻ em
Việt Nam
cũng ra đời ở đó. Ðó là những dấu tích sẽ được ghi trong lịch sử dân
tộc Việt Nam,
mãi mãi.
Những người còn sống
sót để đến được các miền đất tự do phải
cảm thấy một bổn phận linh thiêng đối với những người đã tử nạn trên
đường đi.
Ðó là những bạn đồng hành không may mắn như chúng ta. Họ là những đồng
đạo đã
cầu nguyện cùng một đức Phật, cùng một đức Chúa như chúng ta. Hơn nữa,
đó là
những bạn đồng ngũ, trong cuộc chiến đấu đi tìm tự do để xây dựng lại
một cuộc sống
có nhân phẩm. Không thể nhắm mắt bỏ quên họ, không thể để cho họ chết
một lần
nữa trong lãng quên, chỉ còn là những con số vô danh vô hồn ghi trên
trang sách
lịch sử dân tộc. Nói như một thi sĩ của chúng ta: “Những người đã chết
đều có
thật.” Khi nghĩ tới những người thân thiết đã mất tích trên mặt biển,
tôi vẫn
thầm nhủ, “Những người đã chết đều có thật.”
Cho nên người Việt tị
nạn ở khắp nơi trên thế giới cần vận
động để dựng lại các bia mộ tưởng niệm thuyền nhân tử nạn tại các hòn
đảo ở các
nước Indonesia và Mã Lai Á. Cuộc vận động này mang tính chất tín
ngưỡng, cần
được các vị lãnh đạo tinh thần dẫn đầu; cũng có tính cách lịch sử, cần
các nhà
văn hóa và các cơ sở truyền thông góp tay. Chúng ta cần nhắm vào tình
nhân loại
và lòng hào hiệp của các dân tộc ở Indonesia và Mã Lai Á. Cần vận động
giới
truyền thông, báo chí, chính quyền và dư luận dân chúng địa phương,
những người
đã từng chứng kiến cảnh khổ não của những người vượt biển tìm tự do. Họ
cũng đã
từng tiếp xúc và hiểu biết, thông cảm tình cảnh người tị nạn hơn các
viên chức
chính quyền trung ương. Chúng ta phải trở lại Pulo Bidong, Galang, vân
vân.
Phải dựng lại những tấm bia mộ của đồng bào tử nạn. Ðó là bổn phận của
những
người sống sót đối với những bạn đồng hành không may mắn. Phải chứng
minh cho
đời nay và đời sau biết: “Những người đã chết đều có thật.”
|