Làm thơ
trên đất Mỹ
Những đêm trở về nghe tay chân rời mỏi
Muốn ngủ yên như cọng lá giữa trời
khuya
Em bây giờ mười tám tuổi rồi đó
Đi rong hoài cũng đến lúc già nua
Chim đêm vắng ngủ quên không hót
Em trở về buồn bã từng dấu chân
Thôi nhé Thư! Ngàn năm rồi cũng mất
Tình sẽ tan không dấu trong sương!
Cô nhỏ Huế theo “ngày tháng bềnh bồng”
giữa sân trường
University of Pacific, thành phố Stockton
– California
nhìn lại
chính mình và “thấy mình đã lớn”. Trong
thơ, Phạm Vũ Anh Thư không những đã “lớn” mà còn trưởng thành trong suy
tư và
cảm xúc. Giữa xa lộ sách đèn đủ mặt các
sắc dân trên thế giới, cô bé Việt Nam, gốc Tây Lộc Huế, đã
chọn một
lối rẽ khá gian nan vào con đường mang vẻ đẹp diệu kỳ, nhưng cũng quanh
co khúc
khuỷu khó đi, đó là ngõ vắng đi vào thơ.
Bé Thư đến Mỹ vào lứa tuổi măng non.
Gắng học để giữ gìn
tiếng mẹ đẻ đã khó; giữ gìn, trau giồi tới trình độ làm thơ -- mà thơ
hay nữa
chứ -- thì quả thật cô bé Anh Thư đáng mặt tài hoa.
Thơ là sự cô đọng tột cùng của ngôn
ngữ ; là sự thể hiện tuyệt mỹ tài năng vận
dụng
ngôn ngữ và quyền năng sáng tạo của thi ca và thi sĩ. Vũ trụ, con người
và tình
cảm đi vào thi ca mang vóc dáng của người nghệ sĩ un đúc thành thơ, nên
văn là
người mà thơ là trái tim của nó - như ý
của A. Rimbaud.
Đối với người yêu thơ, đọc được một
câu thơ hay là một niềm
vui bất chợt và đọc được một bài thơ hay là một hạnh phúc... trời cho
vì có khi
cảm xúc bị ám ảnh đến giày vò hay cảm khái đến rưng rưng.
Có những bài thơ hay đã làm thay đổi
cuộc đời và số phận của
thi sĩ và khách yêu thơ. Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Tô
Đông Pha,
Tagore dùng thơ mà xây cuộc sống. Lý
Bạch, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm,
Appolinaire quàng thơ mà đi qua từng thế kỷ.
Khuất Nguyên, Ấm Thuyên, Cao Bá Quát, Robert Burns
vì thơ mà khổ lụy một
đời. Thơ không có điểm khởi đầu mà cũng
chẳng có điểm cao cùng tột vì thơ tự nó là thơ, lung linh và lóng lánh
giữa đời
bằng vẻ đẹp chân thật mà mê hồn, bụi đời màkhuê các.
Một tác phẩm thơ đã ra đời là một giọt
nước đã thành mưa,
một đóa hoa đã nở, một ý niệm đã thành hình.
Với nhân gian – dù nồng
nàn hay
bạc bẽo – thơ chỉ còn một lời mời gọi: “Nhận tôi đi dù địa ngục thiên
đường!”
Bởi thế, ngâm thơ, bình thơ, đọc thơ... cũng chỉ là những cách thế khác
nhau để
nhận thơ, sống với thơ và đưa thơ đến gần người đọc!
Trang trọng mời người đọc đến với thơ Phạm Vũ
Anh Thư cũng chỉ là một cách tiếp cận với thơ.
Thơ Anh Thư sẽ không đổi thay vì người đọc và đứng
ngoài giới hạn khen
chê.
Như một loại “thánh ngữ” của tâm hồn,
thơ không có
tuổi. Đa số những thi nhân thời Thịnh
Đường làm thơ từ thuở lên 5. Nghe một
câu thơ đầy cảm khái, đọc một bài thơ
hay, tôi không thắc mắc tác giả là bao nhiêu tuổi mà tôi chỉ thầm hỏi
rằng, bản
ngã của người thơ đó có đủ bản lĩnh để vật lộn trước sự khen che đầy
gió bụi
giữa cuộc đời hiện thực này không? Sự
già dặn của bản lĩnh thi ca không nằm ở độ tuổi, cũng chẳng nằm ở số
lượng mà
nằm ở sự sáng tạo độc đáo (độc sáng) của thi nhân.
Đọc thơ Phạm Vũ Anh Thư, người đọc sẽ bị đặt
trước một nỗi bất ngờ lý thú: Những từ
và cụm từ cổ kính, quý phái, phảng phất vẻ kiêu sa và lãng tử được sử
dụng khéo
léo gần như tự nhiên để diễn đạt một cách đầy gợi cảm những ý tưởng
tươi mát,
trẻ trung và thuần hậu của tuổi hoa niên:
Con chim họa mi năm nào
Bay vút cao cùng tiếng hót
Là chị, một thời tiêu dao
Dạo khúc hồ cầm phiêu hốt
... Cây đa gõ đoạn tình si
Nhịp phách lạc cơn trường mộng
Mây trắng ngút ngàn phương xa
Nỗi trôi một đời hoài vọng...
(Của
Ngàn Mây và Tiếng Chim)
Thế giới thơ của Phạm Vũ Anh Thư cũng
là một thế giới man
mác hoài niệm về một quê hương “cố lý xa xăm”, nhưng Anh Thư không làm
những
khúc “mộ ca” đòi đoạn mà chỉ ngoái nhìn quê mẹ một cách đằm thắm, thiết
tha để
vững lòng vươn tới:
Cưu mang tâm sự thời lưu xứ
Mây khói xây thành mộng viễn du
Ngàn nỗi nhớ mang theo cánh hạc
Ruỗi dong tìm nguồn cội quay về
... Tài hoa thì cũng là con gái
Chắc đã giúp gì được bản thân
Nói chi cố quận sầu man mác
Nói chi trăng cuội lẽ tồn vong
... Bỏ nước ra đi bao kẻ sĩ
Sá gì ta một bóng lưu ly
(Tự
Khúc Mùa Xuân)
Bản chất của thơ là nỗi buồn và sự
lắng đọng trong cô
tịch. Thơ của Phạm Vũ Anh Thư cũng không
ra ngoài ước lệ đó, nhưng trong sự vắng lặng miên trường của cõi thơ,
Anh Thư
không chọn một thái độ triết lý để đối diện với hư vô như thế hệ những
nhà thơ
đi trước đã làm. Thư đã đem vào cõi thơ
của mình những giới hạn đời thường rất gần gũi: Đó là quê hương, là
thân phận,
là Huế, là mẹ cha, là những thực tại có thể nắm bắt được trong hoàn
cảnh mới
nơi quê người.
Sông Hương
Nước chảy về thơ
Em
Cô bé nhỏ
Đôi bờ mắt xa
... Câu ly biệt
Chén quan hà
Buồn lên mắt
Vẫn nhớ
Là nhớ sông
(Sông
và Em)
Thanh sắc thi ca có một vẻ đẹp diệu kỳ
không quy ước. Khi tìm đến với thơ, có
người thích thơ vì từ
điệu hay nhạc ngữ; có người thích thơ vì hình tượng kỳ vĩ và tư tưởng
sáng tạo
lạ lùng; cũng có người thích thơ vì bắt gặp ở một nơi nào đó thơ nói
lên tiếng
nói bí ẩn của lòng mình. Những người đọc
thơ Phạm Vũ Anh Thư có một cảm giác rất gần nhau là thơ Anh Thư rất
phong phú
từ điệu, nhạc ngữ và nhiều nét sáng tạo bất ngờ. Thể
thơ phổ thông và dễ sáng tác nhưng lại
rất khó hay trong Thơ Việt là thơ lục bát.
Thấp một chút sẽ thành vè, cao một chút sẽ thành thơ
“thiền” đầy bí
hiểm. Thơ Anh Thư có nhiều thể loại khác
nhau, nhưng tài hoa nhất vẫn là thơ lục bát sáng tác dưới dạng “ngắt
từ”.
Mẹ
Là nguồn cội yêu thương
Là niềm cảm hứng
Tâm hồn
Của con
Là bầu vú
Sữa căng thơm
Dù thăng trầm
Vẫn ngọt tươm mạch đời...
(Mẹ là
Nguồn Cội Yêu Thương)
Một mình, phố
Đứng trong mưa
Đợi ai?
Hay phố đợi mùa thu xa?
Mùa thu,
Hoa cúc quê nhà
Vàng sắc áo
Lụa Phù Sa
Thủa nào?
(Thu
Phố)
Cảm quan nghệ thuật và năng lực sáng
tạo thi ca của Phạm Vũ
Anh Thư cũng “vượt biên” đến những chân trời mới khi Anh Thư làm thơ
song ngữ:
Tiếng Việt và tiếng Anh. Khác với những
người làm thơ song ngữ đi trước, Anh Thư không làm công việc “dịch thơ
mình” từ
Việt qua Anh hay ngược lại. Thư đã thực
sự sáng tạo. Thơ tiếng Anh của Anh Thư
cũng đã thể hiện được nguồn xúc cảm, nét tài hoa và sự rung động chân
thành như
trong thơ Việt. Thư đã tự mình nói lên
điều đó:
I bring forth
What is within me,
As a smile wafts to the breeze,
With the silent, invisible orchids
If the nature of those gentle flowers
Are to bloom,
I keep my soul vibrated
The kingdom of mystery
Dances
The whole twist
(Shall
I Tell You)
Tạm dịch:
Ta mang đến
Niềm riêng ẩn dấu
Như nét cười thoảng gió ru êm
Với những đóa phong lan thầm lặng
không tên
Nếu tinh túy của phong lan
Bừng nở
Ta thả hồn rung động miên man
Cả vương cung bí ẩn
Múa
Tưng bừng.
Dù sinh ra sau chiến tranh Việt Nam
và cuộc chiến trên quê hương chỉ còn là chuyện buồn của quá khứ, nhưng
khi nghĩ
lại, cô bé Việt Nam
bỗng cảm thấy tự hào nhớ về nguồn – Nguồn Cội Yêu Thương – khi đứng
chen vai
thích cánh với bạn bè giữa lòng thế giới.
I am
A Vietnamese Youth
Fixed on the land
Which feel my mind with prejudices!
Either major
Or minor
Prelude
Yet, I am not
I am the average
Beneath all camouflages,
Yearned for all my girlhood,
The Vietnamese,
The root
(The
War Within)
Dù phương tiện tinh hoa nhất của thơ
là ngôn ngữ phải vay
mượn tiếng người, nhưng Phạm Vũ Anh Thư vẫn diễn cảm được nỗi lòng tha
thiết
với quê cũ của mình – Huế ơi! Quê Mẹ - bằng cái “đoạn trường tân thanh”
đó.
Wandering aimlessly along the Huong River
Arecas in the full bloom, lingering,
scented the evening air
As a ferryman sang, the moon declined
With a thousand straggling tones that
tear...
(Hue,
a Long Road Home)
Trong phần đất văn học nghệ thuật giới
hạn của người Việt ở
hải ngoại, hiện tượng xuất hiện quá phong phú của thơ làm cho những
người yêu
thi ca vừa vui mừng vừa quan ngại. Vui
mừng vì dân ta hào sảng với thơ thì đã đành, nhưng cũng ưu tư vì sự ra
đời ồ ạt
của thơ không có nghĩa là vườn thơ hải ngoại sẽ khởi sắc theo bề dày
của số
lượng mà có khi còn ngược lại. Quang
Dũng đi vào văn học sử một cách sáng chói chỉ bằng 4 bài thơ. Advers được thế giới biết đến và mến mộ chỉ
có một bài thơ “Tình Tuyệt Vọng”.
Đọc tập thơ “Nguồn Cội Yêu Thương”
mỏng manh của Phạm Vũ Anh
Thư chắc hẳn niềm quan ngại vừa được trình bày ở trên sẽ vơi đi vì thơ
của Anh
Thư vừa mang đến cảm xúc rất tươi mới, vừa nói lên được một phần năng
lực sáng
tạo thi ca của tuổi trẻ Việt Nam nơi đất khách.
Tập thơ đầu tay của Anh Thư cũng
vừa là “chiếc cầu thế hệ” bắc ngang qua giòng sông văn hóa Việt Mỹ. Qua tâp thơ nầy, Phạm Vũ Anh Thư đã tự chứng
tỏ được bản lĩnh của mình, đó là bản lĩnh của tuổi trẻ Việt Nam đang
vững vàng
tiến bước đi vào mảnh đất thi ca và văn hóa của dân tộc Việt nơi quê
người. Đối với quê hương, Anh Thư đã về
và đã thấy.
Trần Kiêm Đoàn
Sacramento,
Thu 2005