*





Thơ Tình Từ Tiền Chiến đến Tân Hình Thức

 Khế Iêm

Dân Việt là giống nòi tình, thơ nghiêng về cảm xúc và thường là thơ tình. Trước thời kỳ Thơ Mới, thơ Việt không có thơ tình vì bị chi phối bởi nền văn hóa Nho giáo và chế độ phong kiến. Chỉ sau thời kỳ Thơ Mới, ảnh hưởng bởi phong trào Lãng mạn Pháp, thơ Việt mới lấy lại bản chất đích thực của nó. Những nhà thơ nổi tiếng đều làm thơ tình, từ Xuân Diệu, Huy Cận (Ngậm Ngùi), Bích Khê (Tranh Lõa Thể), Hàn Mạc Tử (Tình Quê), đến Ðinh Hùng (Tự Tình Dưới Hoa), Vũ Hoàng Chương (Mười Hai Tháng Sáu), Nguyên Sa (Áo Lụa Hà Đông)... Những bài thơ trên chúng ta dễ tìm lại trên các website về Văn học Việt nam.
 

Ai cũng có thể thuộc một vài bài một vài đoạn của những tác giả trên. Vần điệu là phương tiện lý tưởng để chuyên chở những tình tự, đến nỗi người ta tưởng rằng thơ tình chỉ thành công với vần điệu. Những bài thơ trên nội dung không có gì ngoài tâm tình yêu đương, êm ả với vần điệu, dễ nhớ dễ thuộc, không cần phải suy nghĩ. Nhưng thơ tình mới xuất hiện một thời gian ngắn, tại sao lại được mọi người ưa chuộng đến thế? Thành phần người đọc và sáng tác của Thơ Mới tiền chiến là lớp người mới lớn, trên dưới 20, nên tình yêu là niềm say đắm và nguồn cảm hứng của họ. Ở vào thời kỳ đó, chữ quốc ngữ mới được sử dụng, xã hội vừa thoát khỏi những ràng buộc khắt khe của thời phong kiến, khuynh hướng nghiêng về phương Tây rất mạnh. Xã hội tương đối thanh bình, dù đang ở thời Pháp thuộc. Một phần vì những phong trào chống Pháp bằng vũ lực đã thất bại, một phần vì những nhà cách mạng đang chủ trương nâng cao dân trí. Những nhà thơ trẻ ở thời này, được đào luyện trong nền giáo dục Pháp, tiếp nhận những ý tưởng của chủ nghĩa Lãng mạn và Tượng trưng nên thơ tình gặp thời cơ thuận tiện để thăng hoa.

 Tình trạng thanh bình đó chỉ kéo dài được hơn một thập niên thì chiến tranh bùng nổ. Toàn dân bị cuốn hút trong không khí thời chiến, và thơ nhuốm thêm tâm tình khắc khoải, vừa lãng mạn vừa bi tráng, Tây Tiến, Ðôi Bờ... của Quang Dũng chẳng hạn. Thơ tình thời tiền chiến mang tính ủy mị và sáo mòn không còn thích hợp. Ảnh hưởng thế chiến thứ II, những trào lưu chính trị cùng chiến sự và những ưu tư về nền độc lập chi phối suy nghĩ của mọi thành phần xã hội. Nhưng khi chiến tranh chấm dứt thì đất nước bị qua phân, miền Bắc cắt đứt liên lạc với thế giới phương Tây, miền Nam thuộc về thế giới tự do. Những nhà thơ trẻ ở miền Nam, khao khát những hiểu biết mới, khi hòa bình lập lại, tiếp nhận qua sách vở tâm trạng nổi loạn thời hậu chiến của xã hội phương Tây, thêm những trường phái văn học như chủ nghĩa Siêu thực, Hiện sinh, phát động phong trào thơ tự do. Họ quan tâm tới ngôn ngữ và bản chất của chính thơ hơn là những chủ đề của thơ, ngay cả những biến động thời thế xảy ra chung quanh.

 Thật ra thơ tự do không phải là phương tiện thuận lợi để chuyên chở thơ tình. Chúng ta biết rằng bài thơ tự do đầu tiên, Tình Già của Phan Khôi, là một bài thơ tình thất bại. Ngay cả bài thơ tự do thành công của Hữu Loan, Màu Tím Hoa Sim, mang rất nhiều âm hưởng của thơ vần điệu, được biết đến nhiều nhờ phổ thành nhạc. Ngay bản chất của thơ tự do cũng là một động lực phủ nhận vần điệu tiền chiến, chẳng khác nào thơ tự do phương Tây phủ nhận truyền thống thơ của họ. Thơ phương Tây, khi phủ nhận những thể thơ và nghệ thuật truyền thống, họ tìm cách thay thế tận gốc những quan điểm về thơ. Cái hay trong tiến trình phân tích thay thế cái hay của vần nhịp và nhạc điệu. Người đọc tham dự vào tiến trình đó, giải thích theo nhiều cách khác nhau. Ða tầng đa nghĩa nằm trong tiến trình đọc chứ không phải nơi cách suy diễn trên mặt chữ. Tìm ra được cái hay mới để hoán chuyển cái hay cũ, quả là một thành công lớn của thơ hiện đại. Sở dĩ như vậy vì nền văn minh phương Tây đặt căn bản trên lý luận, có một truyền thống học thuật lâu đời, bất cứ lãnh vực nào họ cũng muốn tìm hiểu tới nơi tới chốn. Lý luận phân tích đã nằm sâu trong tâm thức, trở thành thói quen và bản chất văn hóa của họ. Nhưng suốt gần một thế kỷ, thơ tự do thật sự đa dạng với nhiều trường phái khác nhau. Dada, Siêu thực dựa vào sự tình cờ, ngẫu nhiên, tìm kiếm những ý tưởng và hình ảnh mới, làm ngạc nhiên người đọc, tạo nên tiến trình lạ hóa. Từ thơ tới họa, hai đặc điểm trên phù hợp với tiêu chí làm mới, trở thành phương tiện của thời hiện đại.

 Và dù cho hết trường phái này đến trường phái khác, phủ nhận nghệ thuật và thi pháp, hiểu theo nghĩa truyền thống, người nghệ sĩ chỉ chăm chú đi tìm những đường nét, màu sắc hay câu chữ không ai ngờ tới để tạo ý tưởng và cảm xúc. Lập thể, Trừu tượng, Pop Art hay Conceptual Art trong hội họa là một điển hình. Cái hay không nằm trong kỹ năng của người nghệ sĩ mà nằm nơi những đường nét, màu sắc, và ý tưởng khác thường. Trong thơ, dù theo cách phân tích để tìm ý nghĩa hay dùng chữ để lạ hóa, thì cuối cùng, đỉnh cao của nó cũng như hội họa trừu tượng, là diễn đạt cái vô nghĩa của đời sống. Ðời sống vốn vô nghĩa, nghệ thuật nhập vào đời sống, thể hiện chính nó, sự vô nghĩa. Thật đáng kinh ngạc, những nhà hiện đại đã tìm ra cách thực hành và biểu lộ điều đó trong nghệ thuật.

 Và dù ghê gớm đến thế nào, thì đến lúc cũng phải biến đổi. Không phải nghệ thuật thời này hay hơn hay tiến bộ hơn thời khác, mà chỉ là làm sao cho phù hợp với thời đại đó thôi. Thơ tự do phương Tây với gần một thế kỷ thường xuyên nổi loạn, minh chứng một điều, mỗi thời có giá trị riêng, tất cả đều tương đối và không có giá trị nào là đúng nhất. Văn học nghệ thuật là sản phẩm của con người, không khác gì đời sống, cũng bị đào thải theo thời gian. Rồi chủ nghĩa hậu hiện đại ở nửa sau thế kỷ, được coi là thời kỳ quá độ của chủ nghĩa hiện đại, bị cuốn trôi bởi nền văn minh điện toán vào cuối thập niên 1980, tự nó hủy diệt chính nó, từ kiến trúc, hội họa đến thơ văn. Bất chiến tự nhiên thành, thơ truyền thống nằm im suốt gần một thế kỷ, để rồi trở lại ngôi vị mới, bắt đầu lột xác để trở thành một truyền thống khác. Cuộc đời vốn dĩ vô nghĩa, nhưng để sống, người ta phải đi tìm ý nghĩa cho nó. Mỗi thời có một trang giấy trắng riêng lẻ để viết lên, ghi dấu sự tồn tại, không thể viết đè lên trang giấy đã viết của thời khác. Sự vô nghĩa chính là ý nghĩa được viết trên trang giấy của thời hiện đại.

 Trong khi tại Việt nam, sau chiến tranh người đọc nhàm chán với thơ tình tiền chiến. Nhưng vì văn học quốc ngữ còn non trẻ, không có nền tảng học thuật hàng ngàn năm như phương Tây, nên trong thơ chỉ có thể rút ra yếu tố lạ hóa kết hợp với nghệ thuật tu từ, làm thành một dòng thơ tự do đặc biệt Việt nam. Ảnh hưởng chủ nghĩa Siêu thực, cái hay của thơ tiền chiến, với những âm điệu du dương, tạo bởi tài năng của từng nhà thơ, được thay thế chỉ với chữ. Khi vần điệu và nghệ thuật tu từ cô đọng lại nơi con chữ thì cũng không khác gì quan điểm của họa sĩ Piet Mondrian (1872-1944), ở đầu thế kỷ, hội họa (trừu tượng) tự diễn đạt chính nó, qua sự liên hệ giữa đường nét và màu sắc. Ðường nét và màu sắc giải phóng khỏi nội dung tác phẩm, không thể hiện bề mặt thực tại hay cuộc đời mà chủ yếu thể hiện bản chất thực tại và cuộc đời chúng ta đang sống. Chữ đóng lại và mở ra một thế giới đầy hình ảnh bí ẩn và mộng ảo, có tác dụng làm mới lạ cảm xúc, đưa người đọc tới một thực tại khác. Cũng giống như trừu tượng, thơ từ chối sự diễn dịch, và là hiện thân của chính nó. Nhưng tính nổi loạn trong văn học ở thời bình (1957-1960) chẳng bao lâu được thay thế bởi tính tàn phá và khổ đau trong chiến tranh (1960-1975). Lớp người đọc trẻ tuổi của miền Nam thập niên 1960, quay về vần điệu, thay thế tình yêu thời tiền chiến bằng chủ đề tâm linh (thiền học), để cố quên lãng một thời cuồng nộ.

 Vần điệu trở lại nhưng thơ tình thì vẫn biệt tăm, trừ vài người như Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư... cố gắng làm mới bằng cách đưa vào thơ, ngôn ngữ và cảm xúc của thời hiện tại. Nhưng cũng không thoát khỏi khuôn mẫu tiền chiến vì ngôn ngữ vẫn bị hạn chế bởi vần và điệu, quanh quẩn với trò chơi tu từ. Có lẽ vì xã hội còn dựa vào nông nghiệp, chưa có động lực phát triển thành xã hội tiền công nghiệp, nên tâm tình cũng không khác biệt lắm, vì thế chưa có nhu cầu thay đổi tận gốc phương pháp biểu hiện. Sau 30 tháng 4, đất nước thay đổi chế độ, đóng cửa với thế giới bên ngoài. Thơ bất động, và cho đến thời mở cửa, thập niên 1990, những nhà thơ trẻ ở trong nước, làm sống lại thơ tự do thập niên 1960 ở miền Nam. Chữ hiếm, chữ lạ được thay thế bằng chữ tục, với phương cách làm sốc người đọc, qua chữ. Thơ Việt và ngay cả những loại hình nghệ thuật khác như hội họa chẳng hạn, vẫn đứng nguyên một chỗ vì vẫn sử dụng phương cách đã rất cũ của thời hiện đại.

 Thơ tình chỉ có thể trở lại khi có được một thể thơ thích hợp. Tài năng của nhà thơ và nghệ thuật thơ đã bị thui chột quá lâu, cần phải được phục hồi. Nếu thơ vần điệu chuyên chở thuần cảm xúc, còn thơ tự do thuần ý tưởng, thì thơ không vần tân hình thức cân bằng giữa cảm xúc và ý tưởng. Bởi mỗi thời đại cần những phương tiện thể hiện riêng, nội dung mới cần một hình thức mới. Thơ tình Việt nam sau những biến động của thời thế, bây giờ mới đủ điều kiện xuất hiện. Tuy vậy, cũng chưa hẳn đã được chấp nhận vì người đọc đã quen với những dòng thơ cũ. Nhưng chuyện thơ không thể cưỡng cầu, mà cần phải có chút cơ duyên. Không ai có thể bắt buộc người khác phải thay đổi nếu họ chưa cảm thấy thúc bách phải thay đổi. Dù thế nào thì chúng tôi cũng xin trân trọng giới thiệu một số bài thơ Tân hình thức, thơ tình và những chủ đề khác, để bạn đọc thưởng ngoạn, trích trong cuốn: Thơ Không Vần, Tuyển Tập Tân Hình Thức hay tựa đề tiếng Anh: Blank Verse, An Anthology of Vietnamese new Formalism Poetry.

 
Dã Thảo

FARAWAY LOVE 

I still go by here every day,

buildings tall and old as always,

the balcony a light color

and low where you used to place

your hands talking to the absent-

minded friends while watching me walk

by every morning. But now

you are no longer standing there

in the sun to greet me with smiles

sometimes bright; if I look back at

you by the low balcony,

sometimes I see only a wink

behind my footsteps that passes

by and disappears into your

dark glasses, that would not return

until lunch when we are in the

cafeteria in the fleeting

moments of noon hurried with everyday

things, we speak of the crackbrained and

bragging boss, lay-offs past, now and

coming soon; stories about being

in jail, about world terror, mostly

about broken things (although we

do not miss them we still think of

them), stories about you and a

young girl who speaks the same language

but is not of the same skin

color, about me and a young

boy who is not the same skin

color and speaks the same language

but never stories about us

alone. I go by everyday

buildings, tall as always; the talker

by the balcony is no longer,

the greeting in the sun no longer,

the morning smiles no longer,

eyes quietly warming; you have

left me before I could tell you

about my refugee roots, my first

generation immigration

and the minority community

Chinese, Vietnamese, Spanish,

Cambodians, Indonesians,

Cubans, and Malaysians; and all

you know is that I am a citizen

of a mixed race nation I love

to work I am lazy at playing

I like brad pitt I am not

addicted to soccer I am

not obsessed with football I

like jazz I love hiphop I

am a different skin color, speak

a different language, am with

the same company. Now that

you are gone, I miss you much!!!

(but I do not say as much because it

does not count for anything anyway.)

Dã Thảo

TÌNH XA

 

em vẫn qua đấy mỗi ngày

building cao cao và cũ

ban công thấp thấp màu nhạt

nơi anh thường tì đôi tay

chuyện trò cùng đám bạn lơ

đãng và sẽ nhìn thấy em

qua đấy mỗi sáng giờ không

còn anh đứng trong nắng gửi

một lời chào có khi một

nụ cười tươi nếu em tình

cờ liếc nhìn ban công thấp

đôi khi chỉ là ánh mắt

thầm dõi bước em qua và

em sẽ biến mất trong màu

kính sẫm tối anh sẽ chẳng

nhìn thấy cho đến lúc chúng

mình ăn trưa cafeteria

chen chúc những phút ban trưa

vội vàng lắm chuyện đời thường

để nói chuyện xếp dở hơi

phách lối, laid-off, đã,

đang và sắp tới, chuyện trại

tù, chuyện khủng bố thế giới

nhiều nhất là những tan vỡ

dù không hối tiếc vẫn nhớ

tình anh với ả con gái

cùng ngôn ngữ khác màu da

tình em với gã con trai

cùng màu da khác ngôn ngữ

nhưng chưa lần nhắc chuyện chúng

mình em mỗi ngày đi qua

building cao cao vẫn có

người tì tay chuyện trò

bên ban công thấp không còn

lời chào trong nắng không còn

nụ cười buổi sáng không còn

ánh mắt lặng lẽ ấm áp

anh đã đi xa em chưa

kịp kể nguồn gốc em dân

tị nạn thế hệ thứ nhất

không thuộc cộng đồng thiểu số

mít, tàu, xì, campuchia,

inđônêzia, cuba,

malayzia... anh biết

mỗi điều em là công dân

hợp chủng quốc em mê làm

việc em lười rong chơi em

khoái Brad Pitt chẳng ghiền bóng

đá không nghiện bóng cà na

em mê jazz khoái hiphop

em khác màu da khác ngôn

ngữ cùng công ty giờ đây

anh đã ra đi... nhớ nhiều!!!

(nhưng chẳng nói nói ra nhiều

cũng vậy thôi.)

Quốc Sinh

SICK

 

Phở at Ðề Thám junction is the best and

a bean ice-cream at Cung Ứng is the best.

Isn’t it so? When we are together

no matter if it’s sweet or bitter, it’s best.

 

Afternoon on the stone benches of a park,

we invite each other to sit. Ðá Chồng’s

waves wake up in the middle of the night.

The fruits and the flowers of Ðầm Market

 

are sweet with honey. I look to the north

and see Bà Nằm Mountain in the horizon,

letting her hair down (all her life) I look

south and see Cầu Ðá Palace amidst trees.

 

Why is H sick and silent like Bà Nằm

Mountain, all her life letting her hair down?

Why is H sick for this room to be sad

like the Palace fading amidst forests?

 

Let me run up to Long Sơn Temple and

ring bells for a while. I will light ten-thousand

incense sticks and pray for color to return

to your face. I remember when your laughter

 

was like the waves crashing onto a

beach. I remember when your outstretched arms

were as long as the seagulls’ wings flapping

in the open skies. And I took you out

 

to go stand by Bóng Bridge where we walked beneath

the Tháp Bà Tower, to wander on golden

beaches under moonlight, the passions before

we parted.

 

A wanderlust time in Nha Trang.

Quốc Sinh

ỐM

 

Phở ngã tư Ðề Thám là ngon nhất

và ly chè kem Cung Ứng là ngon

nhất, phải không H ơi. Khi chúng mình

ở bên nhau thì chút ngọt cay nào

 

cũng đều thành ngon nhất. Buổi chiều ghế

đá công viên cho đôi lứa rủ nhau

đến ngồi, con sóng Ðá Chồng nửa đêm

thức giấc, hoa trái chợ Ðầm ban mai

 

hương mật. Anh trông lên hướng bắc thấy

lưng chừng mây núi Bà Nằm suốt đời

xõa tóc, anh ngó xuống đằng nam thấy

biệt thự Cầu Ðá đứng lẫn vào cây.

 

H ốm làm chi mà lặng im như

núi Bà Nằm suốt một đời xõa tóc,

H ốm làm chi mà căn phòng u

buồn như ngôi biệt thự chìm vào cây.

 

Ðể anh chạy lên Long Sơn Tự kéo

một vạn hồi chuông, thắp một vạn bó

hương cầu xin cho gương mặt em tươi

hồng trở lại. Anh nhớ mấy lúc em

 

cười như sóng vỗ bờ thơ dại, anh

nhớ mấy lúc em dang tay reo như

hải âu bay giữa bầu trời. Rồi anh

lại đưa em đi chơi đưa em đi

 

chơi, cùng đứng bên thềm cầu Bóng cùng

đứng dưới chân Tháp Bà, cùng lang thang

ven biển trăng vàng óng, kỷ niệm lại

nồng nàn nồng nàn trước lúc chia xa.

 

Một thời lang thang, yêu iếc và mệt mề ở Nha Trang.

Phạm An Nhiên

SEASON'S CALLINGS

 

October morning, I stand,

I sit as if to wait. Eager

perhaps because it is

autumn, calling to sunshine,

 

to wind, to leaves. Fingers yellow

stained with cigarette smoke.

Half of my head filled with gray

hair, yet I don’t wish to dye

 

my hair, but I wish to love

you, and so to heck with autumn.

The seasons are all the same,

clouds call to the wind, the wind

 

calls to the leaves, calls to me,

calls to you, to all our lives

that are in the world in which

I sit and wait, while the wind

 

calls to the leaves, calls to the

rain; I call to you for a

season of rebirth...

 

10/03/2004

Phạm An Nhiên

GỌI MÙA

 

Buổi sáng tháng mười tôi

đứng, tôi ngồi như chờ

như đợi, sốt ruột chắc

tại mùa thu. Gọi nắng

 

gọi gió gọi lá, gọi

tôi tay vàng khói thuốc.

Tóc bạc hơn đã nửa

đầu, chưa thèm nhuộm, thèm

 

yêu em. Ừ, thì mặc

kệ mùa thu, mùa nào

cũng vậy mà thôi, mây

gọi gió gió gọi lá,

 

gọi tôi gọi em cả

đời. Ðó thế giới của

tôi ngồi, đứng và tôi

chờ tôi đợi, gió gọi

 

lá gió gọi mưa, tôi

gọi em mùa tái sinh...

 

10032004

Khánh Hà

FIVE O’CLOCK RHYTHM

 

Nights, staying up late, listening to snow

melting, dripping from the rooftop onto

the porch. Remembering nights lying in

Sàigòn, listening to rain dripping from

the drains of a rented room at the end

of an alley, a wooden ceiling with tin

roofing, burning-hot during the day, at

night, for lying on to look up at stars.

The window always open, the wind slipping

in and out. Only five o’clock there are

people getting up to go to church. The

clopping of clogs the banging of bells.

The five o’clock rhythms now thirty years

later, still in Sàigòn – still in the small

alleys still on the wooden ceiling and tin

roofing still in the dripping of rain still

in the clopping of clogs, in the banging

of bells. The five o’clock rhythm still in

some of us, listening and watching still.

Khánh Hà

ÐIỆU NHẠC NĂM GIỜ

 

Ðêm thức trắng nghe tuyết tan, nhỏ

giọt tong tong từ mái xuống thềm,

nhớ những đêm nằm ở Sài gòn

nghe mưa nhỏ tong tong từ máng

xối căn nhà thuê trong con ngõ

hẹp, vách ván mái tôn ngày nóng

hừng hực, đêm có thể trèo lên

mái nằm ngắm sao trời, cửa sổ

lúc nào cũng mở, lồng lộng gió.

Mới năm giờ sáng có người dậy

đi lễ, tiếng guốc lộc cộc, tiếng

chuông beng beng, điệu nhạc lúc năm

giờ bây giờ, ba chục năm sau

Sài gòn có còn con ngõ hẹp,

còn căn nhà vách ván mái tôn,

còn tiếng mưa nhỏ tong tong, tiếng

guốc lộc cộc, tiếng chuông beng beng.

Ðiệu nhạc lúc năm giờ có còn

ai, nghe thấy ai, nghe thấy ai

Nguyễn Thị Khánh Minh

A PLACE TO HAVE EARLY MORNING COFFEE

 

Last night I whispered this story and that

story. The fact is that I am having

a crisis, not knowing what I speak of

in my sleep. Sleep-talking in a half-conscious,

 

half-unconscious state. Perhaps, they’re answers

to the things I’ve been thinking and doing

during the day but have not been able

to speak about. Have not had the chance to

 

express, but only have spoken in whispers

to the night, digging up my heart from the

grave and re-burying it. After a night

like that, this morning I sat in sunshine,

 

across from running water, thinking of

common things that I must do each day, that

private emptiness that weighs down on me

every day. I could no longer contain

 

myself, so pretending to tie my shoe

laces, I let my tears fall without being

noticed.

Nguyễn Thị Khánh Minh

NƠI UỐNG CÀ PHÊ SỚM

 

Ðêm hôm qua tôi nói thầm

hết chuyện này đến chuyện nọ

thực tình tôi rất hoang mang

không biết mình nói trong mơ

 

hay mớ trong cơn nửa mê

nửa tỉnh, hình như đó là

những câu tôi trả lời về

những việc mà ban ngày tôi

 

chưa kịp nói, không có cơ

hội để giải bày, trò chuyện

hoặc là những lời nếu không

nói thầm với đêm thì chỉ

 

biết đào mộ nơi con tim

mà cất. Qua một đêm như

thế, sáng nay ngồi dưới nắng,

đối diện với một dòng nước

 

chảy, nghĩ đến những việc quen

thuộc phải làm mỗi ngày, cái

trống trải riêng tư đeo nặng

mỗi ngày, tôi không kìm được

 

giả vờ cài dây giày để

nước mắt có đường rơi xuống.

Nguồn:
nhamagazine.com

Trích lại từ website tạp chí thơ Nguồn