Khải Huyền Dối Trá
biên tập / non-fiction - điểm phim
Tác giả: Đinh Linh
Lê Ðình Nhất-Lang chuyển ngữ
Nguồn
Dù có những lời rêu rao phim Khải
Huyền Ðến Rồi (Apocalypse
Now) — dự định đưa ra theo dạng nối dài — đã phô bày sự thật về chiến
tranh
Việt Nam,
bộ phim đầy dẫy những bịa đặt lố bịch và những cảnh giả tạo đến phát
ngốt. (The
Guardian, Thứ Sáu, 2 Tháng 11, 2001)
Trong tiểu thuyết
Trái Tim Ðen Tối (Heart of Darkness) của
Joseph Conrad, một nhân vật tên Kurtz trốn khỏi văn minh và đời sống
gia đình
(nước Anh và vị hôn thê của hắn) để sống hoang dã ở Congo.
Trong phim Khải Huyền Ðến
Rồi (Apocalypse Now), dựa trên cuốn truyện này, một nhân vật tên Kurtz
trốn
khỏi văn minh và đời sống gia đình (lục quân Mỹ và vợ hắn) để sống
hoang dã ở Cambodia.
Ði
ngược dòng sông, mỗi anh tìm thấy lãnh địa riêng của mình trong rừng
rậm. Vây
quanh bởi những “thổ dân,” mỗi anh trở thành một ông trời, không vướng
mắc bất
cứ luật lệ nào của văn minh. Tuy nhiên, thứ tự do tuyệt đối ấy không
thể không
bị trừng phạt, và vì thế mỗi anh bị săn lùng bởi một thám tử của cái xã
hội mà
hắn đã rời bỏ. Trong Khải Huyền Ðến Rồi, tay thám tử ấy là Ðại Uý
Willard.
Là một người lính lão
luyện và một thám tử CIA, đã từng có
một đợt công tác ở Việt Nam,
Willard gây ấn tượng là ngây thơ lạ lùng và không có nét gì nổi bật.
Hắn có vẻ
đần độn hơn là bị bàng hoàng về chiến tranh, và lời kể chuyện trong
phim của
hắn, do nhà báo Michael Herr viết, thực sự sống động hơn bất cứ điều gì
thốt ra
từ chính miệng hắn. Ở đầu phim, Willard say rượu, tự thoát y, và đấm
vào gương.
Có lẽ đây là hội chứng rối loạn hậu khủng hoảng, hay có lẽ đây chỉ là
một gã
sinh viên đập phá phòng trọ của mình sau một tiệc rượu với hội huynh đệ.
Willard nhớ rừng,
nhưng ta không bao giờ rõ hắn muốn làm gì
khi hắn vào rừng. Hắn không có mục đích thật sự nào, cả một mục đích
điên khùng
cũng không có nốt. Hắn không muốn cứu vãn nền dân chủ hay giết Việt
Cộng, hay
ngay cả say sưa trên luồng kích thích tố của chiến tranh. Hắn nhận
nhiệm vụ
lùng bắt Kurtz với một lời thoái thác chán mửa: “Tôi lãnh nhiệm vụ. Tôi
biết
làm cái chó gì khác đây chứ? Nhưng tôi chẳng biết tôi sẽ làm gì khi tôi
tìm ra
hắn.” Khuôn mặt vô cảm của Willard không hề bộc lộ niềm day dứt của
Klaus
Kinski trong phim Aguirre, Cơn Thịnh Nộ Của Thượng Ðế (Aguirre, Wrath
of God)
của Herzog, trong một phim truy-lùng-điên-đảo-ngược-sông khác. Có thể
nói, hắn
chỉ là một Huckleberry Finn tồng ngồng.
Tuy nhiên, thay vì
trôi nổi theo dòng Mississippi với một
bạn nối khố da đen, thì giờ đây Willard xình xịch ngược sông Nung bên
các bạn
đồng hành Chief, Clean, tay lướt ván Lance, và Chef. Cái mà bọn họ nhắm
tới là
“chốn tệ hại nhất trên trái đất,” doanh trại của Kurtz ở giữa khu rừng
rậm, và
những cuộc đụng độ đẫm máu, hầu như bạt mạng dọc đường đi, là cái phần
nạc của
phim này, những điểm chính của phim, bởi vì thực ra chẳng có gì xảy ra
khi họ
tới nơi. Phần kết là một bãi hổ lốn gồm những ý tưởng non dại và nghệ
thuật làm
phim già dặn.
Hai kẻ dở hơi ràng
hai đầu chuyến đi của bọn họ. Ở cửa sông
Nung, họ đụng nhằm Ðại Tá Kilgore bát nháo. Anh này có vẻ biểu tượng
cho một cỗ
máy quân sự Mỹ luôn lạc quan, phấn khích, điên rồ nhưng giết được
người. Tấn
công một làng bị Việt cộng chiếm, hắn phát bản Ngồi Trên Thiên Mã Thần
Nữ (Ride
of the Valkyries) của Wagner ầm ĩ trên trời. Rồi hắn ra lệnh cho vài
đàn em
lướt ván trong trận đánh. Khi một trong các binh sĩ ngần ngừ, Kilgore
quát:
“Tao nói lướt ván ở bãi biển này an toàn, tức là lướt ván ở bãi biển
này an
toàn.”
Ở cuối chuyến đi của
bọn họ, nhúm người còn lại đụng nhằm
một ký giả nhiếp ảnh điên rồ, do Dennis Hopper thủ diễn. Là một anh hề
trong
triều đình Kurtz, hắn say ngất khi lãnh tụ ngâm thơ và phun ra tưới
sượi những
lời ngớ ngẩn mê sảng như: “Ðây là phép biện chứng. Ðây là phép biện
chứng rất
đơn giản. Một đến chín. Không có lẽ, không giả dụ, không phân số. Anh
không thể
du hành trong không trung, anh không thể đi ra ngoài không trung, anh
biết chứ,
nếu không cần, như là, anh biết chứ, có những phân số.” Hắn còn tìm
được cách ghép
T.S. Eliot vào lời bá láp: “Tôi là một người nhỏ bé. Ông ấy, ông ấy là
một
người vĩ đại! Ðáng lẽ tôi phải làm một cặp càng tơi tả hối hả băng qua
những
đáy biển yên tĩnh.” Khó tưởng tượng nổi lời nào tệ hơn được nói bởi một
diễn
viên hàng đầu.
Chắc bạn nhận thấy
mãi đến đây tôi chưa đề cập đến nhân vật
người Việt Nam nào. Bởi vì không có. Vai nói tiếng Việt duy nhất thuộc
về một
thông dịch viên quân đội Nam Việt Nam, nói ông ổng được mấy câu: “Thằng
này là
VC dơ bẩn! Nó muốn uống nước! Cho nó uống nước ruộng!” Ðây là một cuốn
phim mà
Coppola tuyên bố một cách ngạo nghễ “không phải là về Việt Nam — nó là
Việt
Nam.” Phim này, như vậy, thực ra là về một bầy những tên da trắng, kể
cả
Coppola, lội sâu vào quả tim đen tối của chính bọn họ. Chắc chắn nó
không phải
là về Việt Nam. Tôi cũng không dám chắc nó là một phim chiến tranh Việt
Nam.
Trước hết, chiến
tranh Việt Nam chủ yếu là một cuộc nội
chiến. Hai phe chính lâm chiến là Bắc Việt và Nam Việt, như những con
số tử
vong sau đây cho biết: 1.1 triệu cho Miền Bắc, 223,746 cho Miền Nam, và
58,200
cho người Mỹ. Trong ba trận tấn công lớn của cuộc chiến — Tết (1968),
Lễ Phục
Sinh (1972), và Mùa Xuân (1975) — lục quân Mỹ chỉ dự một. Thế nhưng bạn
không
bao giờ biết được điều đó, nếu chỉ nhờ xem bất kỳ cuốn phim chiến tranh
Việt
Nam nào do người Mỹ làm, dù là Người Săn Nai (The Deer Hunter), Trung
Ðội
(Platoon), Những Chàng Trai Trong Ðại Ðội C (The Boys in Company C) hay
Khải
Huyền Ðến Rồi (Apocalypse Now).
Ðối với nhiều người
Mỹ, chiến tranh Việt Nam là một màn
trình diễn của người Mỹ, dàn dựng ở Việt Nam. Thừa nhận nó là một cuộc
nội
chiến tức là hạ nước Mỹ xuống vai phụ trong một bi kịch của kẻ khác.
Nhưng đó
mới đúng là sự thật: một bi kịch của kẻ khác. Dù cho nước Mỹ tiêu tốn
bạc tỉ,
chiến tranh Việt Nam vẫn chủ yếu là chuyện của dân Việt Nam. Ðơn giản
là vì họ
chịu nhiều thiệt hại hơn nhiều.
Gọi nó là nội chiến
tức là nhìn nhận những khác biệt ý thức
hệ giữa người Việt với nhau, một khái niệm không thể có nếu ta coi họ
là một
khối đồng nhất và không có khả năng cãi vã lẫn nhau. Quả là ý nghĩa khi
Kurtz
gặp rắc rối vì giết bốn “gián điệp hai mang” của Nam Việt. Theo
Willard: “Kurtz
ra lệnh ám sát ba người đàn ông Việt Nam và một người đàn bà. Hai người
đàn ông
là đại tá trong quân đội Nam Việt. Hoạt động của địch trong khu vực của
hắn
giảm xuống số không.” Cuốn phim muốn nói là cạo cái vỏ của một người
theo phe
Cộng Hoà, thì bạn sẽ thấy một người Cộng Sản.
Bốn người bị giết này
ít ra có chung một đặc điểm, họ là
những người Việt Nam duy nhất có tên trong phim, như được thoáng thấy
trên thẻ
ID của họ. Những người còn lại chỉ là một đàn không diện mạo tung tăng
ở phía
sau, nhất là những người dân núi. Khác với những gián điệp hai mang
người Việt,
họ không hai mặt. Ðể làm một gián điệp hai mang, anh phải gian manh,
lừa lõi,
đạo đức giả — những hoạt động đầu óc mà những người này rõ ràng là
không thể
thi hành. Thực ra, họ có vẻ không biết nói: không một ai trong bọn họ
nói một
lời trong phim. Những người dân núi này thật đơn giản, thật con nít, họ
có thể
bị đuổi chạy tán loạn bằng tiếng còi hụ. Khó mà so với những chiến sĩ
quả cảm
người ta cho là không sờn trước đạn pháo và bom napalm. Thoả mãn hoang
tưởng
của người đàn ông da trắng, họ thờ kính Kurtz như một ông trời, và sau
khi hắn
bị Willard giết chết, họ vẫn còn muốn sụp lạy trước hắn.
Những người dân núi
cũng được Kurtz đánh giá cao vì họ biết
cách sử dụng những bản năng nguyên thuỷ: họ biết cách giết người không
chút cảm
xúc, y như Việt Cộng. Kurtz kể lại những tháng ngày hắn ở trong đội đặc
nhiệm:
“Bọn tôi đi vào một cái trại để chích ngừa cho trẻ nít. Bọn tôi rời
khỏi trại
sau khi đã chích ngừa lao cho bọn trẻ, thì có một ông già chạy theo bọn
tôi và
khóc lóc... Bọn tôi trở lại đó và họ đã tới và chặt đi mọi cánh tay
được chích
ngừa. Chúng nằm đó một đống... một đống những cánh tay nhỏ. Và tôi nhớ
tôi đã
khóc. Tôi khóc như bà khóc cháu vậy. Tôi muốn bứt răng mình ra. Tôi
chẳng biết
mình muốn gì. Và tôi muốn ghi vào tâm khảm chuyện này. Tôi không bao
giờ muốn
quên nó. Tôi không bao giờ muốn quên. Và rồi tôi khám phá ra... cứ như
tôi bị
bắn. Như là tôi bị bắn bằng một viên kim cương. Một viên đạn kim cương
xuyên
thẳng qua trán tôi. Và tôi nghĩ ôi Thượng Ðế ơi, đó là thiên tài. Thiên
tài.
Cái nghị lực để làm việc đó. Hoàn hảo, chân thật, đầy đủ, thấu suốt,
nguyên
chất. Và rồi tôi nhận thấy họ mạnh hơn chúng ta. Những người đàn ông
này họ
chiến đấu với quả tim, họ có gia đình, họ có con cái, họ tràn đầy tình
cảm,
nhưng họ có cái sức mạnh để làm việc đó. Nếu tôi có 10 sư đoàn gồm toàn
những
người đàn ông này thì các vấn đề của chúng ta ở đây hẳn sẽ chấm dứt rất
nhanh.”
Nước Mỹ chắc chắn sẽ
thua cuộc chiến vì không có 10 sư đoàn
mọi tinh nhuệ. Ðó là lý do Kurtz phải thành lập đội quân riêng để đánh
cuộc
chiến riêng của hắn. Cách để thắng trận chiến này là trở thành quy tắc
hơn
trong tính cách man rợ.
Việc nguỵ tạo một
hành động tàn ác đầy hứng khởi của Việt
Cộng phù hợp với mối bận tâm của cuốn phim đối với những con người
nguyên thuỷ
da ngăm. Với Trái Tim Ðen Tối làm lớp đá lót đường ý thức hệ, điều này
là không
thể tránh. Trong truyện của Conrad, chiếc thuyền đi ngược dòng về
“những cội
nguồn xa xưa nhất của thế giới.” Dọc đường họ gặp những người Phi châu
với
“những bộ mặt như những tấm mặt nạ quái dị.” Một người đàn ông bị so
sánh với
“một con chó trong một màn khôi hài mặc quần ống túm và đội một chiếc
nón lông
đi trên hai chân sau.” Trong Khải Huyền Ðến Rồi, Việt Nam chẳng qua là
một khu
rừng miên viễn, với những xác chết toòng teng trên cây, và những mũi
tên và mũi
giáo bay ra từ trong các đám lá. Cảnh tấn công bằng tên được bê nguyên
con ra
từ tiểu thuyết Trái Tim Ðen Tối, chỗ một tài công da đen bị đóng cọc
bởi một
ngọn giáo. Sự giả dối của cảnh này thật đáng kinh ngạc. Quân đội Bắc
Việt và
Việt Cộng đâu có thắng một cuộc chiến hiện đại bằng cung tên và giáo
mác. Nhưng
một cảnh từ một cuốn sách năm 1901 phải được nhét vào một cuốn phim năm
1979 vì
Coppola mê mọi.
Khi tàu của Willard
đi ngược sông Nung, những dấu hiệu duy
nhất của văn minh là hai trại lính Mỹ và, trong phiên bản nối dài mới,
một đồn
điền Pháp. Ðiều này không khớp với Việt Nam của thực tại. Như bất cứ ai
đã từng
ở đó đều sẽ cho bạn biết, Việt Nam đang (và trong thời chiến từng) đông
dân hết
sức. Những khu gia cư trải dài suốt các con sông và đường lộ. Nước Mỹ,
so ra,
còn hoang dã hơn. Một điều khác mà một du khách đến Việt Nam có thể
thấy dễ
dàng là sự phổ biến của ngôn ngữ viết — tức là, của văn minh. Bảng hiệu
và biểu
ngữ khắp nơi. Không có những thứ này trong bất cứ đoạn quay toàn cảnh
nào của
Khải Huyền Ðến Rồi. Coppola không chỉ tịch thu tiếng nói của người
Việt, ông
còn cấm họ viết.
Các ý kiến chính trị
sắc bén nhất trong cuốn phim mới xuất
phát từ miệng một người Pháp. Gần cuối chuyến đi của bọn họ, nhóm của
Willard
phát hiện ra một đồn điền của người Pháp trồi lên trong sương mù. Ðược
chủ
nhân, Hubert de Marrais, mời vào ăn tối, họ được nghe một bài giảng nhỏ
về lịch
sử nước Việt Nam. Ðầu tiên de Marrais nói với họ rằng chính người Mỹ đã
tạo ra
Việt Minh, một tiền thân của Việt Cộng, vào năm 1945. Ðiều này tầm bậy.
Cơ quan
OSS, về sau trở thành CIA, chỉ hỗ trợ Việt Minh trong thế chiến hai vì
nó đã là
một nhóm du kích chính thức, có khả năng theo dõi bọn Nhật. Rồi de
Marrais bảo
họ: “Người Việt Nam chẳng là gì cả. Chúng tôi đã tạo ra một cái gì từ
số không.
Chúng tôi chiến đấu vì điều đó... người Mỹ các anh chiến đấu vì cái số
không to
nhất trong lịch sử.” Nên nhớ, Việt Nam hình thành năm 939, hơn một
thiên niên
kỷ trước khi Pháp có thể chiếm cứ. Còn đối với nước Mỹ, thì những mục
tiêu của
nó ở Việt Nam chưa bao giờ là thực dân tự bản chất, mà là ý thức hệ.
Bài học
lịch sử tệ hại đó là đặc trưng của cuốn phim. Mỗi khi nó hướng tới
những điểm
gút mắc hoặc mò mẫm xuống chiều sâu, nó chỉ bị tuột hẫng.
Ta hãy xem xét đường
hướng đạo đức của phim này. Coppola
viết: “Tôi cảm thấy bất cứ nghệ sĩ nào làm một phim về chiến tranh cũng
sẽ buộc
phải làm một phim ‘phản chiến’ và tất cả các phim chiến tranh thường là
như
thế. Phim của tôi là phim ‘phản trá’ nhiều hơn, ở chỗ một nền văn hoá
có thể
nói dối về điều gì thực sự xảy ra trong chiến tranh — chuyện người ta
bị hành
hung, tra tấn, làm cho tàn phế và giết chết — và bằng cách nào đó chứng
tỏ điều
này là đạo đức, ấy mới là điều làm tôi khiếp sợ, và là điều duy trì khả
thể của
chiến tranh.”
Mọi cuộc chiến đều
hành hung, tra tấn, gây tàn phế, và giết
chóc — một cuộc chiến chỉ gồm những việc đó. Mọi nhân vật chính trong
phim biết
và chấp nhận những sự kiện này. Họ còn tự hào về chúng. Willard chẳng
hạn,
không bao giờ nao núng trước bất cứ hành động tàn ác nào được thực hiện
với sự
hiện diện của hắn. Chính hắn cũng nhúng tay vào một việc như vậy khi
giết một
người đàn bà thường dân Việt Nam gặp nửa đường trên sông. Khác với
Lance, kẻ đã
dùng súng máy hạ sát cả nhà bà ta trong cơn hoảng loạn, Willard bắn
người đàn
bà một cách không thương xót.
Willard giết người
đàn bà chỉ vì gặp nhằm lúc, vì hắn đang
vội đi tìm Kurtz. Hắn cũng làm vậy vì sự nhất quán. Như Willard giải
thích: “Ðó
là một cách chúng tôi sống với chính mình ở đây. Chúng tôi chặt họ ra
làm đôi
bằng súng máy và cho họ một miếng băng cứu thương. Ðó là một điều dối
trá. Tôi
càng trông thấy họ, thì tôi càng ghét điều dối trá.” Kurtz cũng tương
tự, không
bận tâm đến những vụ giết chóc, nhưng bực mình vì sự dối trá. Hắn không
bao giờ
tra vấn những mục tiêu của quân đội Mỹ, mà chỉ những biện pháp của nó.
Khác
biệt giữa Kurtz và Willard là về mức độ, không phải về bản chất. Cả hai
đều tin
ở cuộc chiến, và ở những phương tiện ngoài pháp luật để theo đuổi nó.
Willard
chia sẻ cùng Kurtz một niềm khinh thị dành cho những sĩ quan Mỹ cao
cấp: “Cuộc
chiến được điều khiển bởi một lũ hề bốn sao mà rồi sẽ đi đến chỗ cho đi
nguyên
cả gánh xiếc.” Và hắn cảm phục phong cách tự do phóng túng của Kurtz:
“Tôi càng
đọc và bắt đầu hiểu biết hơn, thì tôi càng cảm phục hắn hơn.”
Nếu Willard thấy mình
giống Kurtz nhiều như thế, tại sao hắn
lại muốn giết Kurtz? Chính Willard không cho biết manh mối nào cả: “Một
phần
trong tôi sợ điều mà tôi sẽ tìm thấy, và điều mà tôi sẽ làm khi tôi đến
đó. Tôi
biết mọi mối nguy, hay tưởng tượng là tôi biết. Những điều mà tôi cảm
thấy rõ
nhất, rõ hơn cả sự sợ hãi, là lòng ham muốn đối đầu với hắn.” Ðối đầu
với hắn
để làm gì? Kurtz có thể bảo cho Willard biết điều gì mà hắn chưa sẵn
biết? Rằng
tạp chí Time nói sai? Liệu một người làm cho CIA, một người buôn bán
lời nói
dối, có cần phải được nhắc nhở điều ấy?
Việc Willard ám sát
Kurtz, vì vậy, chỉ có thể được diễn dịch
là một sự quy thuận dưới thẩm quyền quân đội Mỹ. Hắn không chiêu hồn
được con
quỷ nào cả. Chính cảnh ấy cũng không có tuồng tích chi hết. Ngoi lên từ
một cái
ao xanh rờn, một kiểu lễ rửa tội bằng bùn nhớp, Willard lẻn vào phòng
Kurtz và
chém tên chúa trùm đến chết. Bên ngoài, những thổ dân đang dùng búa
chém một
con trâu trong một cuộc giết tế lễ. Ðó là một cảnh rất đẹp mắt, nhưng
phép so
sánh thì vô nghĩa.
Nhiệm vụ đã xong,
Willard chỉ đi xuôi dòng về phía những kẻ
như Ðại Tá Kilgore, những kẻ với những đặc điểm giống Kurtz mà chính
Willard
phác hoạ: “Hắn ta là một trong những tên có thứ ánh sáng kỳ lạ ấy chung
quanh.
Bạn biết ngay hắn sẽ chẳng bị gì ngoài một vết trầy ở đây.” Một người
bất bại
tới mức đó chỉ có thể là một ông trời, hay một đạo diễn điện ảnh Mỹ
đang làm
việc trong rừng, đi lạc trong trái tim đen tối của chính mình.
Cái câu “Nỗi kinh
khiếp, nỗi kinh khiếp” do Kurtz thốt ra
trong Trái Tim Ðen Tối không ám chỉ những nỗi kinh khiếp của rừng rậm,
như một
số người tưởng, mà là những nỗi kinh khiếp của cuộc sống thường ngày ở
bất cứ
đâu. Ðó là một điểm rất ư là sâu sắc. Trong truyện của Conrad, Kurtz
rời bỏ
người vị hôn thê người Anh của hắn chỉ để chung sống với một người vợ
Phi châu.
Hắn cảm thấy “an cư” trong rừng rậm. Chạy trốn một sắp đặt gia đình,
hắn lao
vào một cái khác. Bọn mọi, một khi bạn hiểu họ rồi, hoá ra chẳng khác
gì đám
bạn thân và bà vợ mà bạn đã rời bỏ. Ðược cứu, hay đúng ra là bị Marlow
bắt cóc
mang về Anh, Kurtz chết dọc đường, nhưng cũng kịp ộp ộp được lên mấy
lời “phán
xét về những cuộc phiêu lưu của linh hồn chàng trên đất này”: “Nỗi kinh
khiếp!
Nỗi kinh khiếp!” Ở nhà, người đàn bà của hắn mong mỏi được nghe thấy
những lời
cuối của vị hôn phu. Marlow trả lời: “Lời cuối ông ấy thốt lên là tên
bà.”
Giống như Kurtz trong
Trái Tim Ðen Tối, Willard và Kurtz
trong Khải Huyền Ðến Rồi cũng chạy trốn khỏi cái quen thuộc, khỏi những
bà vợ ở
nhà, đi vào cái kỳ lạ và cái chưa biết. Sau đợt công tác đầu tiên của
họ ở Việt
Nam, họ ghi danh cho một đợt nữa. Willard thổ lộ: “Tôi về nhà sau
chuyến đầu,
thấy tệ hơn. Tôi thức dậy và luôn thấy trống vắng... Tôi gần như không
nói một
tiếng với vợ cho đến khi tôi nói đồng ý về việc ly dị.” Kurtz viết
trong một
bức thư cho vợ: “Bán nhà đi. Bán xe đi. Bán bọn trẻ đi. Tìm người khác.
Quên
đi. Anh sẽ không bao giờ trở về. Quên đi.”
Phim này, như vậy,
không phải về những nỗi kinh khiếp của
rừng rậm mà về những cám dỗ của nó. Rừng rậm trở thành hang ổ của những
ham
muốn hoang dã, nơi bạn có thể chơi thân với bọn mọi, bắn chúng, bị bắn
trả, đốt
đi hàng mẫu rừng, bị cọp làm khiếp vía.
Nó trở thành, nói cho
ngắn gọn, cái công viên đề mục lý
tưởng. Giữa cuộc nô đùa, Lance tóm gọn được ý chính: “Disneyland. Cái
đéo, cha
nội, cái này còn ngon hơn Disneyland!” Bất cứ gì để đi khỏi “nỗi kinh
khiếp,
nỗi kinh khiếp” dưới mái nhà.
Như Huckleberry Finn
nói ở cuối chuyến đi thuyền hoang dại
của mình: “Bà ấy sẽ nuôi tôi và giáo hoá tôi. Làm sao mà tôi chịu nổi.
Hồi xưa tôi
đã từng văn minh.”
Ghi chú của người
dịch: Bài này có một số chi tiết khác với
bản tiếng Anh, với sự chấp thuận của tác giả.
Nguồn: damau.org