Hữu Loan: “Cây gỗ vuông chành chạnh….”
Tiêu Dao Bảo Cự
Đó là mấy từ trong trích đoạn bài thơ
Hữu Loan chép tặng tôi
vào sổ tay 17 năm trước, với nét chữ cứng cỏi và cách xuống giòng bậc
thang đặc
trưng trong thơ ông. Năm đó ông đã 73 tuổi.
“…Tôi là cây
gỗ
vuông
chành
chạnh
suốt đời
đã làm thất
bại
mọi âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy
tiện
lăn
long lóc thế nào
thì long lóc
Chân
tính
đấy
hỡi Rìu, Bào
Phó – Mộc”
( chuyện Di Tề )
Đó là năm ông “tái xuất giang hồ” rời
bỏ làng quê giong ruổi
về phương nam sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nhà, một
nơi đèo
heo hút gió ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hoá. Trong
chuyến đi xuyên Việt năm 1988 của đoàn Hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí
Langbian để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới
thực sự,
chúng tôi đã đưa Hữu Loan về lại quê nhà sau gần một năm lang bạt.
Lần ấy, chép xong mấy câu thơ, ông chỉ
tay vào trang giấy
nói với tôi: “Anh thấy đó. Chữ Rìu, Bào và Phó - Mộc viết hoa. Anh biết
tôi
muốn ám chỉ ai rồi”
Dọc đường đất nước trên chuyến đi, ông
cũng đọc cho công
chúng nghe trong những lần gặp gỡ, bài thơ dài mới nhất của ông, bài
“Chuyện
tôi về”, một loại bút ký thơ kể về thời gian “ Ba mươi năm không phải
chuyện /
Một sớm một chiều/ Một ngày tù đã dài như thế kỷ / Ấy là tù giữa
chợ….”. Nhưng
30 năm đó, kể từ ngày có vụ án văn nghệ gọi là “Nhân văn - Giai phẩm”,
và 17
năm sau đó nữa, chẳng có ai dám viết, nói gì về chuyện của ông dù không
ít
người biết. Ngay cả sau khi gần đây, có hiện tượng xôn xao dư luận là
một công
ty đã bỏ ra 100 triệu đồng để mua bản quyền bài thơ nổi tiếng "Mầu tím
hoa
sim” của ông. Nhân sự việc này trên báo chí có một vài bài viết về ông
nhưng
tuyệt nhiên không ai nhắc đến 30 năm đó, như thời gian này không hề có
trong
cuộc đời ông.
Một sự im lặng khủng khiếp không chỉ
đè nặng lên riêng đời
ông mà còn trói tay những người cầm bút và choàng phủ lên cả đời sống
dân tộc.
Đó là sức mạnh, sức nặng ghê gớm của bạo lực và cường quyền, của nỗi sợ
hãi và
lòng hèn nhát, là bi kịch của một đất nước tự cho và cũng được phong
tặng là
đất nước anh hùng.
Nhà thơ Hữu Loan và Tác giả - tháng 3,
2005
Trong hoàn cảnh đó, Hữu Loan đã chọn
riêng cho mình một lối
sống, dù nghiệt ngã nhưng đầy bi tráng. Như ông viết trong “ Chuyện tôi
về”:
“Tôi không làm nhà vì mắc làm người”, “Đi ăn cắp và làm cán bộ là tôi
không
đi…”. Ông thà đi cuốc đất, đập đá và đẩy xe thồ suốt 30 năm để làm “Cây
gỗ
vuông chành chạnh” không cho ai lăn long lóc, trong khi bao nhiêu văn
nghệ sĩ
đồng thời với ông đã tha hồ để cho “tùy tiện bị lăn long lóc thế nào
thì long
lóc” ngoài đời cũng như trong văn học nghệ thuật.
Kể từ lần gặp gỡ đầu tiên, tôi thực
lòng ngưỡng mộ “cây gỗ
vuông chành chạnh” Hữu Loan nên trong 17 năm qua, dù trải bao nhiêu khó
khăn
vây khổn, trong tôi vẫn thôi thúc ý muốn gặp ông lần nữa. Tôi vẫn sợ
rằng nếu
không còn dịp nào gặp lại ông, đối với tôi đó sẽ là niềm ân hận lớn
trong đời.
Trong chuyến đi xuyên Việt lần thứ hai
bằng xe gắn máy năm
2003, tôi đã định đến thăm ông, nhưng rủi thay, khi đến địa đầu tỉnh
Thanh Hóa,
chỉ còn cách nơi ông ở vài mươi cây số, tôi bị tai nạn phải lên xe đò
đi thẳng
ra Hà nội, tôi đành để lỡ dịp trong hối tiếc.
Đầu năm 2005 này, trong chuyến đi
xuyên Việt từ Nam ra Bắc
lần thứ 3 bằng nhiều loại phương tiện, tôi nhất quyết đến thăm ông và
tôi đã
thực hiện được.
Trên đường trở về bằng chuyến xe du
lịch open tour Hà Nội -
Sàigòn, tôi xuống xe ở Ninh Bình, một điểm dừng của open tour này, để
tìm gặp
lại Hữu Loan. Ninh Bình là tỉnh giáp giới phía Bắc của Thanh Hóa. Tôi
hỏi thăm
biết huyện Kim Sơn của Ninh Bình, nơi có nhà thờ đá Phát Diệm nổi
tiếng, cách
thị xã Ninh Bình 30 cây số nằm tiếp giáp với huyện Nga Sơn, Thanh Hóa,
nơi Hữu
Loan đang ở. Tôi thuê một xe gắn máy và tự mình tìm đường đi sau khi
nghiên cứu
bản đồ. 17 năm trước tôi đến nhà ông theo đường quốc lộ 1 từ thị xã
Thanh Hóa
ra, lần này đi ngược lại từ phía bắc vào, theo một con đường khác.
Sau khi đến nhà thờ Phát Diệm, nhà thờ
đá xưa nhất và lớn
nhất Việt Nam, nơi hết địa phận huyện Kim Sơn, người ta bảo phải đi
khoảng 20
cây số nữa mới đến trung tâm huyện Nga Sơn. Tôi chạy theo con đường
liên tỉnh
lộ nhỏ hẹp, phía Nga Sơn xem ra không trù phú bằng bên Kim Sơn, nơi có
những
cánh đồng lúa cò bay thẳng cánh, với những đàn vịt trắng xóa bờ kênh và
rất
nhiều nhà thờ hai bên đường. Tôi vừa đi vừa hỏi thăm đến thôn Vân Hoàn,
xã Nga
Lĩnh. Giờ này đã gần trưa, con đường trải nhựa liên xã vắng vẻ. Đến
nơi, tôi
hỏi thăm mấy em nhỏ học sinh đang chơi la cà trên đường. Các em chỉ cho
tôi con
đường chạy thẳng đến chân núi, gần đó có chỗ rẽ vào một lối nhỏ đúc bê
tông.
Tôi thầm nghĩ không lẽ người ta đã thay đổi tư duy, trọng thị nhà thơ
nên đã
cho làm con đường bê tông ở xóm nhỏ heo hút này. Vào đó hỏi tiếp, mấy
người lại
nói cho tôi biết nhà ông Hữu Loan ở chỗ nhà lầu hai tầng đang xây bên
phải. Hai
người nói như thế, làm tôi càng ngạc nhiên vì cách họ nói mấy từ “nhà
lầu hai
tầng” nghe có vẻ khác lạ, bao hàm sự thán phục như nói về một cái gì
phi thường
ở thôn xóm không có mấy nhà khang trang này. Tôi lại nghĩ không lẽ Hữu
Loan đã
được “đổi đời” rồi vì lần trước đến, căn nhà do chính tay ông dựng nên
từ xưa
vừa bị sập và mấy năm sau đó tôi nghe tin loáng thoáng ông được xây
“nhà tình
nghĩa” và tài trợ xuất bản tập thơ. Dù sao nếu đươc như thế tôi cũng
mừng cho
ông.
Tôi đã mừng hụt. Nhà Hữu Loan chỉ là
căn nhà cũ kỹ phía sau
“nhà lầu hai tầng đang xây” mà thôi. Đằng sau cánh cổng sắt hơi tối
dưới bóng
cây âm u, một phụ nữ đang nằm trên chiếc võng treo ngang qua cổng và
hai con
chó đen dưới chân nhâu nhâu lên sủa. Chị đứng dậy suỵt chó im và khi
tôi hỏi
Hữu Loan, chị bảo “ông cháu có nhà”. Chị tự giới thiệu là con dâu của
ông. Chị
mở cổng đưa chúng tôi vào nhà mời ngồi ở chiếc ghế gỗ vừa vội vàng dọn
dẹp căn
phòng ngổn ngang bề bộn mọi thứ linh tinh. Chị loay hoay pha trà mời
chúng tôi
với bộ ấm chén xỉn màu và cho biết Hữu Loan đang ốm. Chị nói thêm bình
thường
chỉ có hai ông bà ở nhà, mấy hôm nay ông ốm nên chị đến chăm sóc.
Trong khi nói chuyện với chị, chúng
tôi quan sát căn phòng
và nghe tiếng ho sù sụ ở phòng kế bên, sau khung cửa không có cánh tối
om, được
che bằng tấm màn vải cũ kỹ.
Căn phòng không có trần, đồ đạc không
có gì giá trị. Trên
tường có treo mấy tấm hình. Một tấm chụp Hữu Loan đứng bên cạnh bức
tượng của
mình, tác phẩm điêu khắc của Phạm Văn Hạng năm 1990 theo như ghi chú
bên dưới.
Một tấm chụp lại phác thảo chân dung bà Phạm thị Nhu ( tức bà Hữu Loan)
do một
họa sĩ nào đó ký tên không rõ vẽ tặng ông. Đặc biệt chiếc bàn thờ đơn
sơ, chỉ
là một mảnh ván đóng lên tường với mấy bình nhang cắm hoa giấy và vỏ
một hộp
bánh bằng các tông, phía trên chỉ treo một bức thư pháp viết chữ Tâm
bằng Hán
tự, nét chữ sắc sảo và cứng cỏi, bên ngoài có nhện giăng và bụi bám.
Nói chuyện một lúc, tôi ngỏ ý với chị
con dâu muốn vào tận
giường thăm Hữu Loan nếu ông ốm nặng thì nghe tiếng dép lệt sệt bước
ra. Trước
mắt tôi, Hữu Loan không còn phong độ như năm nào. Ông đội chiếc mũ len,
quấn
khăn quàng, mặc áo khoác bên ngoài áo len trong khi vào nhà nóng, tôi
phải cởi
áo khoác. Khuôn mặt ông có sắc hồng nhưng không phải nét hồng hào khỏe
mạnh.
Đôi mắt nhỏ sáng quắc năm xưa đã phần nào mờ mịt. Tôi đứng lên chào và
hỏi ông
còn nhớ tôi không, ông nhìn tôi ngẫm nghĩ rất lâu không nói gì. Khi tôi
nói tên
và nhắc lại chuyến đi xuyên Việt năm xưa, ông ôm lấy tôi và nói “ Còn
sống để
gặp lại nhau là mừng lắm rồi”.
Ông mời tôi ngồi xuống ghế. Tôi nói
tìm đường vào nhà ông
cũng khá vất vả. Ông bảo ai muốn tìm đừng hỏi ngay đến nhà ông vì hỏi
như thế
chúng nó không chỉ đâu. Chúng nó được lệnh rồi. Tôi ôn lại chuyện xưa
nhưng
kinh ngạc thấy ông còn nhớ rất ít. Ngay cả bài thơ “Chuyện tôi về” ông
tâm đắc
ngày ấy và đã đọc hàng chục lần trước công chúng ông cũng quên. Ông bảo
tôi đọc
cho ông nghe nhưng tôi chỉ thuộc vài câu. Tôi hỏi bản thảo có còn
không, ông
bảo đã mất hay để đâu ông không nhớ. Bây giờ mắt ông không đọc được chữ
nữa,
khi cần phải nhờ con cháu đọc.
Tuy nhiên những chuyện và những bài
thơ xưa hơn ông lại nhớ
rất rõ. Ông kể đi kể lại việc một người được giao nhiệm vụ giết ông
nhưng mỗi
lần sắp ra tay lại không nỡ vì nhớ đến bài thơ ông viết về quê hương
anh ta.
Chính anh ta đã nói lại với ông chuyện đó và ông đọc bài thơ cho tôi
nghe.
Ngồi nói chuyện khá lâu, và vì lúc
chạy xe trên đường hơi bị
lạnh, cảm thấy thèm thuốc lá, tôi rút bao thuốc xin phép ông hút nhưng
ông
nghiêm mặt chỉ tay vào tôi nói: "Tôi cấm anh”. Tôi gượng cười cất bao
thuốc và nói hiện nay tôi còn nghiện một thứ chưa bỏ được là thuốc lá.
Ông nói
ngay: “ Cái gì có hại phải bỏ. Có gì mà không bỏ được. Ngay cộng sản là
thứ ghê
gớm mà tôi còn bỏ được huống gì thuốc lá.”
Lát sau, ông bắt đầu ho nhiều hơn và
khạc nhổ đờm xuống đất,
tôi tỏ ra quan ngại về sức khỏe của ông nhưng ông bảo ông chỉ bị cảm
mấy ngày
nay thôi. Ngày thường ông vẫn ra ngoài được và thường xuyên tập khí
công. Tôi
hỏi ông tập theo phương pháp nào và vào lúc nào. Ông bảo ông tập bất cứ
lúc
nào, kể cả khi ngồi, nằm, đi lại.
Hỏi thăm về gia đình, ông cho biết ông
có 10 người con, 30
cháu và tỏ ra không vui vì hoàn cảnh con cháu. Người con đầu thông
minh, thuộc
loại học giỏi nhất tỉnh nhưng thời đó vì chuyện của ông, anh không được
vào đại
học. Đến nay chỉ có người con trai út tốt nghiệp kiến trúc sư đang làm
việc ở
Hà Nội, còn những người khác đều lập gia đình, làm ruộng, làm nghề và ở
quanh
quẩn gần đó.
Về nguồn sống của ông bà, ông bảo thu
nhập chính của ông là
tiền bán củi. Củi ở đây là cọng và lá dừa khô của hơn chục cây dừa rất
cao do
chính ông trồng từ xưa. Vùng này người ta chuộng thứ củi dừa vì có sẵn
trong
vườn và cháy tốt.
Bà Hữu Loan đi đâu về, nghe cô con dâu
báo, vội lên chào
khách. Gặp tôi bà nhớ ra ngay. Có lẽ tôi gây ấn tượng cho bà vì lần
trước chúng
tôi đã giúp đưa ông về sau khi ông “bỏ nhà ra đi” cả năm trời. Lần đó
tôi đã
khen bà mặc áo tím đẹp khi Hữu Loan giới thiệu bà với chúng tôi lúc gặp
bà ngồi
bán hàng trên đầu cầu. Tôi cũng đã hỏi bà có phải vì Hữu Loan thích mầu
tím nên
bà mặc áo tím không. ( Dĩ nhiên bà là vợ sau của Hữu Loan vì người vợ
đầu của
ông, mới “cưới nhau xong là đi”, “nhưng không chết người trai khói lửa
/ Mà
chết người em gái nhỏ hậu phương” đã gây xúc động cho Hữu Loan viết nên
bài thơ
“ Mầu tím hoa sim” bất hủ).
Bà Hữu Loan bây giờ đã hơn 70 tuổi
nhưng bề ngoài trông có
vẻ còn khỏe mạnh dù bà bảo cũng đang bị nhiều bệnh mãn tính. Bà mời tôi
ở lại
dùng cơm. Lúc đó đã quá trưa, gần xế chiều, tôi hơi ái ngại và cũng sợ
về muộn
vì còn phải đi đường xa nên xin cáo từ. Bà bảo không lẽ khách từ trong
nam ra
thăm mà không mời được bữa cơm, hơn nữa nhà cũng chưa ăn trưa, thức ăn
có sẵn,
chỉ nấu quàng nồi cơm là xong. Tôi đành nán lại.
Bữa ăn bà đãi chúng tôi quả có nhiều
món có sẵn mà bà dự trữ
để ăn dần. Cá kho, canh rau nấu với thịt heo, tép kho ăn ghém với khế
chua hái
trong vườn, lại thêm món trứng tráng. Hình như tất cả các thứ dự trữ bà
đều
mang ra mời khách. Chúng tôi vừa ăn vừa phải luôn tay xua đàn ruồi bay
vù vù
chung quanh. Hữu Loan chỉ ăn được lưng hai bát cơm.
Trong khi ăn bà nói chuyện vui. Bà kể
dạo ông đi nam, ông
viết thư về bảo có mấy cô còn trẻ mê ông muốn lấy ông, làm vợ bé, ông
còn dám
bảo “có lẽ cũng phải lấy thôi.” Nghe nhắc đến chuyện đó mắt Hữu Loan
ánh lên
nét tinh quái và ông mỉm cười nói: “Vì thế tôi mới gọi bà là Thiến Thư.
Thiến
Thư chứ không phải Hoạn Thư”. Chúng tôi đều cười xòa.
Dạo đó hình như bà cũng có ghen thật.
Tôi nghe nói bà đã xé
mấy bức ảnh ông chụp chung với mấy cô gái trẻ. Bây giờ ông đã 90 tuổi,
bà hơn
70, nhưng nhắc đến chuyện tình yêu, ghen tuông, hai ông bà vẫn còn xúc
cảm, tuy
trong một trạng thái khác. Đúng là chuyện không tuổi và của muôn đời.
Câu chuyện vui không làm tôi bớt cảm
giác phiền muộn trong
lòng khi nghĩ về hoàn cảnh Hữu Loan hiện nay. Dĩ nhiên sinh - lão -
bệnh - tử
là chuyện tất yếu của đời người. Nhưng hình ảnh một ông gìa ốm yếu ho
hen, lẩn
quẩn trong căn nhà cũ kỹ với người vợ tuổi đã cao, cũng nhiều bệnh tật,
có cái
gì làm tôi cám cảnh. Hơn nữa, người đó lại là Hữu Loan.
Lẽ ra ông đã có một cuộc sống khác.
Một nhà thơ tài hoa, một
trí thức, một chiến sĩ cách mạng dày dạn, từ thời khởi nghĩa chống Pháp
giành
chính quyền mới hơn 20 tuổi đã phụ trách 4 ty của tỉnh, một cán bộ
tuyên huấn
sư đoàn xuất sắc… đúng ra phải có vị trí xứng đáng và cuộc sống tốt hơn
so với
bao nhiêu người bất tài đang nắm giữ chức quyền và sống xa hoa phung
phí hiện
nay.
Tôi nghĩ thực ra chính ông đã chọn
cuộc sống này từ khi làm
bài thơ “ Mầu tím hoa sim” và tham gia “ Nhân văn- Giai phẩm”, sau đó
tự ý bỏ
về quê nhà. Trong khi người ta lên án tư tưởng tiểu tư sản ủy mị thì
ông làm
bài thơ khóc người vợ trẻ lúc từ chiến trường trở về phải ngồi bên
"ngôi
mộ đầy bóng tối với chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh
vây
quanh" của người con gái vắn số không kịp chờ ông. Ông không thể “giữ
lập
trường”, nén đau thương, xúc cảm của mình theo chỉ thị của lãnh đạo.
Con người
không phải là gỗ đá, không phải là súc vật phản xạ có điều kiện. Nhà
thơ chân
chính càng không thể chỉ nặn ra những tác phẩm theo đơn đặt hàng hay
những bài
tuyên truyền sáo rỗng dối trá dù là theo “yêu cầu của cách mạng” đi
chăng nữa.
Chính vì thế sau khi viết “Mầu tím hoa sim”, ông bị kiểm điểm, bài thơ
bị cấm
phổ biến công khai nhưng lại được chính các chiến sĩ chép tay lén lút,
đọc thầm
cho nhau nghe, và sau đó vượt không gian, thời gian đi vào lòng người
để trở
thành một trong những bài thơ tình bất hủ của thi ca Việt Nam.
Cùng với các văn nghệ sĩ trong nhóm “
Nhân văn – Giai phẩm”,
Hữu Loan đã dùng ngòi bút để lột trần, lên án cái ác núp dưới bất cứ
thứ nhân
danh, chiêu bài nào. "Nhân văn- Giai phẩm” là sự lựa chọn quyết liệt
của
những người làm văn học nghệ thuật chân chính với tinh thần “ Lời mẹ
dặn” của
Phùng Quán “Yêu ai cứ bảo là yêu / Ghét ai cứ bảo là ghét”. Đó là đỉnh
cao của
văn học nghệ thuật, cũng là đỉnh cao của trí tuệ và nhân cách. Đỉnh cao
đó tất
yếu bị phá đổ, vùi dập khi quyền bính được xây dựng bằng bạo lực và dối
trá. Sự
lựa chọn đó là một lựa chọn sinh tử và đã phải trả gía đắt, đắt bằng sự
khốn
cùng của đời người, bằng một vết nhơ lớn trong lịch sử dân tộc.
Khi tôi hỏi về chữ Tâm treo trên bàn
thờ, Hữu Loan bảo chính
tay ông viết và suốt đời ông chỉ thờ một chữ Tâm.
Tôi chợt nhớ đến những điều ông nói
trong chuyến đi xuyên
Việt năm xưa mà tôi đã ghi lại trong bút ký “ Hành trình cuối đông”[*]
“Cái tâm mới là điều quan trọng trong
văn học. “ Chữ tâm kia
mới bằng ba chữ tài”. Sai lầm của chế độ là đã đề cao giai cấp tính,
đến chỉ
còn đẳng cấp thống trị. Giai cấp tính không bằng nhân đạo tính".
Với cái tâm trong sáng của mình, Hữu
Loan đã thấu suốt tình
hình đất nước và có những nhận định sắc bén:
“ Đất nước ta là nơi nói giỏi nhất
nhưng làm sai nhiều nhất,
người sai lầm ít thì bị tội nặng, không được sửa sai, như bác sĩ làm
chết
người, lái xe gây tai nạn bị lấy bằng, đi tù, còn những người làm sai
nhiều,
giết nhiều người, làm hại làm khổ hàng triệu người thì lại được sửa
sai, nói dễ
dàng “sai thì sửa”.
“Người nói thật cũng bị trừng trị. Tôi
cũng bị trừng trị vì
tôi viết văn là nói thật. Có người hỏi động cơ viết văn của tôi là gì,
tôi trả
lời động cơ viết văn của tôi là thích chửi vua. Ít ai dám chửi vua
nhưng vua
sai thì nhà văn có quyền chửi.”
Vào thời điểm đó, Hữu Loan nhấn mạnh
về sứ mạng của nhà văn:
“ Bây giờ nhà văn chỉ cần làm thư ký
của thời đại là đã lớn
lắm rồi. Hiện thực nỗi đau của nhân dân rất vĩ đại. Vấn đề không phải
có lớn
không mà là có dám lớn không.”
Dám nói thật và động cơ viết văn
“thích chửi vua” chính là
sứ mạng, nhân cách và bản lĩnh của người cầm bút trong những thể chế
hay giai
đọan lịch sử mà sự sai lầm và độc đóan lên ngôi thống trị. Đó cũng là
“định
mệnh” của nhà văn chân chính. Định mệnh của những người đã lựa chọn
cuộc chiến
đấu không cân sức:
“Chuyện Hữu Loan là chuyện
Một vạn chín trăm năm mươi ngày gấp hơn
mười lần chuyện Ba Tư
vô cùng căng thẳng
Giữa hai bên
một bên là chính quyền có
đủ thứ nhân dân
quân đội nhân dân
tòa án nhân dân
nhà tù nhân dân
và nhất là
cuồng tín nhân dân
thứ bản năng ăn sống
nuốt tươi
ăn lông ở lỗ nguyên thủy
được huy động đến
tột cùng
sẳn sàng hủy
cũng như tự hủy
một bên nữa là
một người tay không
với nguyện vọng
vô cùng thiết tha
được làm người lương thiện
nói thẳng
nói thật
bọn ác
bọn bịp
thì chỉ tên vạch mặt
người nhân thì
xin thờ
như Thuấn Nghiêu”
( Chuyện tôi về )
Cuộc sống của Hữu Loan thời kỳ đêm dài
30 năm đúng là “vô
cùng căng thẳng”, đặc biệt khi “cuồng tín nhân dân” còn bị nhồi sọ và
kích động
bởi bộ máy tuyên truyền hùng hậu.
Thời kỳ đó đã qua và hiện nay những
nhà văn chân chính như
Hữu Loan không cô độc nữa, dù cũng còn phải chịu đựng không ít khó khăn
trù
dập. Trung thực và dũng cảm vẫn là điều không thể thiếu khi nhà văn
muốn nói
lên sự thật.
Riêng Hữu Loan, ông đã giữ vững sự lựa
chọn đó đến cuối đời.
Theo tôi biết, nếu không lầm, sau thời kỳ đổi mới, Hữu Loan là người
duy nhất
không làm đơn xin khôi phục hội tịch Hội Nhà văn Việt Nam.[*] Cuộc sống
của ông
cho đến tận hôm nay, dù trải qua bao nhiêu gian nan khốn cùng, đó vẫn
là một
cuộc sống làm người tử tế đúng nghĩa. Hơn nữa đó còn là một cuộc đời bi
tráng
rực rỡ, lấp lánh niềm đau và khí phách như những bài thơ của chính ông.
Hôm trước ở Hà Nội, tôi nghe nói con
trai út của ông định
sắp tới sẽ tổ chức thượng thọ 90 tuổi cho ông với mục đích để bạn bè
trong nam
ngoài bắc có dịp gặp ông một lần trước khi ông quá gìa yếu. Tôi may mắn
đã được
gặp lại ông trước dịp này.
Cuộc đời Hữu Loan chính là một tượng
đài của nhân cách, lòng
trung thực và khí phách anh hùng. Tượng đài đó có thể biểu trưng bằng
“cây gỗ
vuông chành chạnh” và một chữ Tâm. Người xưa nói “ Dụng nhân như dụng
mộc”. Cây
gỗ vuông này thời đại của ông không dùng nhưng lịch sử sẽ dựng lên
thành một
tượng đài, cũng là một loại bút “ tả thanh thiên” lồng lộng giữa đất
trời.
Tháng 6 năm 2005
TDBC
[*] Ghi chú: Xem them Hành trình cuối
đông, bút ký Tiêu Dao
Bảo Cự, Nhà xuất bản Văn nghệ, 1998. Phần Phụ lục của bút ký này có
đăng tòan
văn bài thơ "Chuyện tôi về" của Hữu Loan.
[Trích Đàn Chim Việt]
|