Hôi
Chi
Một lần, cũng đã
lâu, Gấu đi giang hồ vặt, cùng vài bạn văn, tới thăm một ông chưa từng
quen
biết.
Chủ nhân, ông bạn chưa từng quen biết, là một tay sành rượu. Nhất là
rượu bồ
đào.
Ông khoe, rượu của ông là từ bên Pháp gửi qua, thứ quí, hiếm, lâu đời.
Trong
khi chén chủ chén khách, ông cho biết, có một ông bạn [Gấu đoán, chắc
là ông
ta], rất khoái những bài Tạp Ghi của Gấu, và chưa từng bỏ qua một bài
nào [thời
gian Gấu giữ mục Tạp Ghi cho báo Văn Học của NMG].
Được khen, khoái quá, mũi phổng quá, Gấu quên cảnh giác, tố thêm, Gấu
này
thường là đoán ra đoạn chót, không cần phải coi hết một cuốn phim, khi
được
biết chủ nhân là một tay mê phim, và mê làm phim.
Ông có vẻ bực, thằng khốn này huênh hoang quá, nhưng, nói đến phim nào
là nó
biết phim đó, hay là thử phim này...
Ông lôi ra một phim, dựa theo một câu chuyện Nhật.
Tuyệt, tuyệt. Gấu tỉnh cả rượu, và xin lỗi chủ nhân, Gấu này chịu thua,
không
thể nào đoán ra đoạn kết của phim.
*
Sau này, được coi nguyên tác, chuyện anh chàng hôi chi, Gấu mới càng
phục tay đạo diễn
phim.
Đoạn cuối của phim khác hẳn nguyên tác.
Thần kỳ hơn nhiều.

Chương chót của
phim chàng Hoichi cụt tai là một cú thần sầu của nhà đạo diễn
tài ba Masaki Kobayashi
Trong truyện Điện thoại của người chết, Call for the Dead có
hai
cú thần sầu, bạn không thể nào đoán ra được, và đều là những cú, không
có
chúng, là cuốn truyện kể như vứt đi.
*
Đây là câu chuyện một nhân viên ngoại giao tự tử, sau khi bị sở cho
người điều
tra, vì nghi là "thân cộng". Để lại thư tố cáo. Người lãnh đạn, là
Smiley, nhân viên được sở cử đi điều tra. "Anh điều cha điều bố thế nào
để
cho con người ta cảm thấy nhục nhã, mất danh dự đến nỗi phải tự tử để
minh
oan?"
Trước mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới gặp bà vợ, để thay
mặt sở
chia buồn. Đang nói chuyện, có điện thoại. Tưởng của Sếp, anh nhắc
nghe, nhưng
của nữ điện thoại viên bưu điện, do người đã chết tối hôm qua đã dặn,
"tám
giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"
Smiley tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giã cõi đời, lại nhờ người
đánh
thức?
Hoá ra là bà vợ mới là gián điệp nằm vùng. Bồ của bà, một điệp viên
Đông Đức.
Trong thời gian chiến tranh, anh này là nhân viên của Smiley. Một tay
cộng sản
thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa thiên hạ
tới
"thái bường"!
Smiley vẫn còn nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân viên dưới quyền. Anh thử
làm
theo, và thành công.
Anh cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân viên dưới quyền
xin lệnh
bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng cớ, bắt cũng phải thả ra thôi.
Nhưng anh ra
lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động. Hãy để cô cậu cuống cuồng, thất kinh…
quýnh
quá thể nào cũng làm một điều gì đó. (Let them bolt, panic, anything…
so long
as they do ‘something’). Bởi vì theo anh, Dieter, nhân viên cũ của anh,
khi gặp
cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ nghĩ rằng phản gián Anh đã biết tất cả.
Vấn đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?
The Last Act, màn chót của vở hát
và cũng là màn chót của
cuộc đấu trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời rạp hát
cùng với
khán thính giả.
Dieter và Smiley đụng độ tại một cây cầu, giữa sương mù dầy đặc, trên
sông Thames. Nhớ lại những năm tháng
cùng chống Quốc Xã,
Dieter tha chết cho tên bạn đế quốc, và chịu chết thay vì đầu hàng.
Những đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa Similey và Mendel, người
bạn làm nghề
cảnh sát… là những trang đẹp nhất trong truyện:
(Mendel hỏi Smiley):
-Bà ta có phải là cộng sản không?
-Tôi không tin bà ta thích những nhãn hiệu. Tôi tin rằng, bà muốn xây
dựng một
thế giới có thể sống mà không có tranh chấp… Hoà bình là một từ dơ dáy,
hiện
nay, có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn hoà bình.
(I don’t think she liked labels. I think she wanted to help build one
society
which could live without conflict. Peace is a dirty word now, isn’t it?
I think
she wanted peace.)
-Còn Dieter?
-Trời biết Dieter muốn gì. Thanh danh, tôi nghĩ vậy. Và một thế giới xã
hội chủ
nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ tưởng hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ
là
những tên sát nhân, những tên gián điệp."
-Trời đất!
Smiley im lặng một lát:
-Tôi không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy tận cùng của anh ta. Tôi
đã nhìn
thấy khởi đầu. Anh ta là một trong những người xây dựng thế giới. Những
người
tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy diệt.
Cái cú 'cứ để yên, sẽ có biến động' chẳng là thần sầu à? Đây là đòn
'hậu phát
chế nhân' của Kim Dung.
Còn một cú ,xẩy ra trước đó, anh chàng cù lần Smiley, bị vợ bỏ, buổi
chiều tan
sở, trước khi về nhà, ghé tiệm giặt ủi lấy mấy bộ đồ. Vừa về đến nhà,
thay
vì lấy chìa khoá mở cửa, bèn dơ tay gỏ thử vài tiếng, và thế là
cửa mở,
sát thủ xuất hiện, chủ nhà bèn lí nhí, thưa ông, tôi tới giao mấy bộ
đồ...
*
Gấu nghĩ, anh chàng nhà thơ BMQ cũng là một thứ Dieter mà thôi!
"Họ mơ tưởng hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ là những tên sát nhân,
những tên gián điệp."
Lẽ dĩ nhiên, có tí khác biệt. BMQ chưa xứng đáng để so với Dieter, mà
phải là
bạn cũ của Gấu, Cao Bồi.
Gọi
Người Đã
Chết
Đêm Thánh Vô
Cùng
Ẩn hả, Nhớ chứ!
Truyện chàng Hôichi cụt tai
Nguyên tác : Hirai
Teiichi dịch Lafcadio Hearn (từ Anh ra
Nhật)
Người dịch : Nguyễn
Nam Trân (từ tiếng Nhật)
Lời người dịch:
Gió luồn qua ngàn liễu bến
Matsue (Tùng Giang), thành phố nhỏ nhìn ra biển Nhật Bản bốn mùa phong
vũ. Đến
nay, liễu vẫn thắm xanh trên bến như cái thuở con người phiêu bạt
Lafcadio
Hearn (1850-1904) đến định cư để tìm hiểu một nền văn hóa xa lạ đối với
ông.
Hearn (người Nhật đọc là Haan hay Herun) sinh năm 1850 ở quần đảo
Ionia, Hy
Lạp. Cha Ái Nhĩ Lan, mẹ Hy Lạp. Từ khi cha mẹ ly hôn, ông rày đây mai
đó cho
đến năm 1890, ngày đặt chân lên đất Phù Tang. Lấy tên Koizumi Yakumo
(Tiểu
Tuyền Bát Vân), ông viết nhiều tùy bút, biên khảo về đất nước và con
người Nhật
Bản.
Hearn lớn lên ở Pháp, chu du
Mỹ, Canada,
Martiniques... trước khi sự tình cờ đưa ông cập bến Yokohama năm đã 40 tuổi. Yêu mến
phong cảnh
hữu tình đất Matsue, ông sống một chuỗi ngày thật hạnh phúc ở đây, sau
vì bệnh
hoạn phải xuống Kumamota rồi lên Tokyo dạy Anh ngữ ở những đại học nỗi
tiếng
như Waseda, Tokyo, trước khi qua đời năm 1904 vì nghẽn mạch tim.
Viết văn, ông chịu ảnh hưởng
Robert Stevenson, Gustave Flaubert, Guy de Maupassant, những nhà kể
truyện nổi
tiếng. Ông muốn từ bỏ thế giới Tây Phương để mạo hiểm đến những miền
đất lạ như
nhiều nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Paul Gauguin và Pierre Loti.
Hearn đặc biệt yêu thích
những truyện kinh dị không cứ gì của Nhật mà của quần đảo Antilles,
của cả Trung Quốc. Lúc mới đến Nhật, chưa rành mặt chữ, phu nhân
Setsuko đọc
truyện ma quái Nhật cho ông nghe. Ông soạn lại bằng tiếng Anh, sau mới
được
dịch ra Nhật ngữ. Người ta biết Hearn nhiều qua tập Kaidan (Quái Đàm)
mà
"Truyện Chàng Hôichi Cụt Tai" (Miminashi Hôichi no Hanashi) này là
một .... Nguyên tác (chỉ dài có một phần ba bản văn) vốn mang tên "Tì
Bà
Bí Khúc Khấp U Linh" lấy từ tác phẩm cổ điển "Ngọa Du Kỳ Đàm" do
một ẩn sĩ tên Nhất Tịch Tản Nhân soạn, bản cổ nhất còn lưu lại in năm
1782.
Tham khảo:
1) Hirakawa Sukehiro, Koizumi
Yakumo, Kaidan, Kidan, (Tiểu Tuyền Bát Vân, Truyện Kinh Dị) Kodansha,
1990.
2) Hirakawa Sukehiro, Koizumi
Yakumo, Kureơru Monogatari, (Tiểu Tuyền Bát Vân, Truyện cổ vùng đảo Antilles) Kodansha, 1991.
3) Lafcadio Hearn (Tashiro
Michitoshi dịch), Kaidan, Kidan (Truyện Kinh Dị), Kadogawa, 1956, ấn
bản năm
1995.
4) Lafcadio Hearn (Hirai
Teiichi dịch), Kaidan, Iwanami, 1940, ấn bản năm 2000.
Cách đây hơn bảy trăm năm,
vùng Dan no Ura ngang eo biển Shimonoseki
là nơi xảy ra trận quyết chiến giữa hai giòng họ Minamoto và Taira. Ở
Dan no
Ura, một nhà Taira từ đàn bà con nít đến cả vị ấu chúa mà ngày nay
người ta còn
nhớ đến qua cái tên Thiên Hoàng Antoku (An Đức) đều bị tuyệt diệt. Từ
đó đến
nay bao nhiêu nước đã chảy qua cầu mà một vùng biển Dan no Ura vẫn còn
xì xào
về những chuyện kinh dị về hồn ma vất vưởng của dòng họ Taira. Đừng nói
chi đến
những con cua Heike (một tên khác của Taira) trên lưng mang hình mặt
người như
muốn giữ lại dấu tích oán hờn của các chiến sĩ Taira, (lũ cua mà người
kể
truyện đã có lần nhắc đến trong một tác phẩm khác), trên một vùng biển
đó,
người ta đã nghe, đã thấy bao nhiêu là sự kiện kỳ quái. Ví dụ cái cảnh
hàng
nghìn ánh lửa ma trơi không biết đâu ra, lướt trên ngọn sóng trong
những đêm
tối đen. Dân chài thường gọi đó là "quỉ hỏa", loại ánh sáng xanh lè
lạnh lẽo. Nào đã thôi đâu, những ngày gió lớn, lúc đó từ ngoài khơi lại
vọng về
những tiếng thét gào cuồng nộ như âm thanh sát phạt trên bãi chiến
trường.
Xưa đã thế nhưng ngày nay
những con ma Taira còn lộng hành hơn trước nữa. Ma hiện ra trên thuyền
bè đi
lại ngoài khơi, tìm cách nhận đắm hoặc chờ những ai đang bơi lội giữa
giòng,
bất thần chụp lấy rồi kéo họ xuống đáy biển. Cái chùa A Di Đà lập lên ở
vùng
Akamagaseki (nay là Shimonoseki)
vốn nhằm mục đích cúng tế, an ủi vong linh những con ma Taira ấy. Phần
đất cuối
chùa nơi sát biển, nhà chùa có dành ra một khu chôn cất, dựng bia mộ
khắc tên
vị thiên hoàng chết đuối cùng như tên quần thần của người, mọi năm đến
ngày giỗ
chạp, đều lập đàn tràng giải oan. Từ khi A Di Đà Tự lập ra, rồi đến khi
bia đá
dựng lên thì quỉ quái họ Taira cũng bớt quấy người. Dù vậy, những
chuyện quái
dị không vì thế mà hoàn toàn chấm dứt, điều đó chứng tỏ vong linh kia
vẫn chưa
được phiêu diêu về cõi thọ.
Vài trăm năm trước ở vùng
Akamagaseki có một chàng mù tên gọi Hôichi (Phương Nhất). Hôichi nổi
danh về
tài đánh tì bà và hát theo điệu đàn. Cái tài đánh đàn kể truyện anh
chàng vốn
có từ ngày còn bé. Khi hãy còn là một gã thiếu niên, tài chàng đã vượt
cả thầy
học. Chả thế mà mấy chốc Hôichi đã trở thành nhạc sư tì bà, sở trường
về khúc
"Truyện hai nhà Minamoto-Taira tranh hùng (1). Người ta bảo khi Hôichi
chơi đến đoạn nói về cảnh thủy chiến ở Dan no Ura thì não nùng ai oán
đến
"quỉ thần cũng phải cảm thương nhỏ lệ".
Lúc Hôichi chưa có danh chi,
chàng ta rất nghèo. May nhờ có một người tri kỷ nâng đỡ anh. Người ấy
là hòa
thượng trụ trì chùa A Di Đà, một nhà tu hành tinh thông cả thi ca âm
luật, lâu
lâu vẫn gọi Hôichi đến chùa đánh tì bà cho cụ nghe. Hòa thượng thấy
chàng trẻ
tuổi tài cao, thường mến muốn giúp đỡ đến độ mời chàng đến trọ hẳn.
Hôichi cảm
lòng tốt của cụ, bèn nhận lời. Từ đó, Hôichi vào ở hẳn một gian hậu
liêu. Cảm
cái ơn cho nơi ăn chốn ở, hễ đêm nào không có khách mời chơi đàn,
Hôichi vác tì
bà đến đánh để hòa thượng giải sầu, và như thế thành lệ.
Chuyện xảy ra vào một buổi
chiều mùa hạ. Hôm đó, một đàn việt có tang ma, sư cụ phải đi đọc kinh
suốt đêm,
mấy chú tiểu chú điệu đều tháp tùng. Hôichi ở lại canh chùa một mình.
Trời nóng
hầm, Hôichi lò mò ra ngoài hàng hiên trước phòng ngủ để kiếm chút hơi
mát. Hàng
hiên này nhìn ra khu vườn nhỏ phía sau chùa. Hôichi ra ngồi đây với ý
định chờ
sư cụ về nhưng ngồi một mình mãi không làm gì cũng buồn, chàng mới bắt
đầu dạo
một khúc tì bà. Quá nửa đêm mà sư cụ vẫn chưa về. Hôichi dợm vào phòng
nằm duỗi
tay chân một chút thì thấy không khí trong phòng hãy còn nóng, chàng ta
mới ra
ngoài lại. Vừa trở ra, Hôichi bỗng nghe tiếng chân người từ cánh cổng
sau tiến
lại gần. Ai đó đi xuyên qua cảnh vườn con, tiến về phía hàng hiên. Đang
phỏng
đoán như thế thì chàng ta thấy bước chân kia đã tới sát trước mặt mình,
đứng
sựng lại. Nhưng người đó không phải là hòa thượng. Một giọng to, khỏe
cất lên
gọi tên chàng mù. Giọng trịch thượng, kẻ cả như giọng samurai gay gắt
gọi người
dưới:
- Hôichi!
Hôichi quá kinh hoàng đến độ
trong một chốc không cất thành tiếng. Giọng nói kia lại như ra lệnh:
- Hôichi!
- Thưa vâng!
Chàng mù lí nhí trả lời chả
bù với giọng nói nhanh như gió cuốn của người lạ. "Thưa tôi mù loà,
không
thấy đường. Vị nào đang gọi tôi đấy ạ..."
- Ngươi chớ sợ.
Giọng nói bỗng có phần dịu
lại, người lạ tiếp lời: "Ta nhân đóng quân ở gần vùng này, có việc mới
ghé
qua đây. Chủ quân của ta là bậc cao quí, xưa vẫn ra vào chỗ cung cấm.
Nay bề
trên và đoàn tuỳ tùng của ngài ghé trọ qua đêm ở vùng Akamagaseki này,
biết đến
trận quyết chiến ở Dan no Ura nên ghé vãng cảnh. Bề trên nghe đồn tài
kể chuyện
của ngươi rất cao diệu, ngài muốn nghe một khúc. Vậy ngươi hãy mau mau
lấy đàn
theo ta đến chỗ dừng chân của các bậc tôn quí. Các vị ấy đang chờ ngươi
đó!"
Thời ấy, samurai đã ra lệnh
thì mọi người phải răm rắp tuân theo. Hôichi vội vội vàng vàng xỏ dép,
vác đàn,
đi theo người lạ. Người vũ sĩ nắm tay Hôichi một cách gọn gàng, kéo
chàng ta đi
nhanh như tên bắn. Bàn tay người lạ rắn như thép nguội, mỗi bước đi,
bên sườn
có tiếng lách cách như thể đang mang giáp trụ. Có lẽ người lạ là vũ sĩ
cận vệ
của một nhà quyền thế nào đó. Cái sợ hãi buổi đầu đã bớt dần. Hôichi
điềm tĩnh
trở lại và trong lòng bắt đầu rộn lên một niềm hãnh diện. Bởi vì anh
chàng nhớ
ra lúc nãy người lạ có nhắc đến mấy chữ "một bậc cao quí ngày xưa vốn
ra
vào chỗ cung cấm", như vậy tài đàn của mình đã lọt đến tai một bực đệ
nhất
công hầu nào rồi. Vừa nghĩ đến đó thì người vũ sĩ bỗng dừng bước.
Hôichi lắng
tai nghe và có cảm tưởng hai người đang đứng trước một cánh cổng lớn. Ở
chốn xa
thành thị phố xá như thế này, ngoài chùa A Di Đà chắc không làm sao có
một cái
cổng lớn cỡ này. Hôichi đang nghi hoặc thì tùy giả đã cất tiếng dõng
dạc:
- Khai môn!
Không phải đợi lâu, có tiếng
song hồng mở nặng nề, hai người đã bước vào bên trong cửa. Đi qua khỏi
một khu
đình viên khá rộng, cả hai đến một cánh cửa khác. Dừng chân ở đó, tuỳ
giả lại
hô lớn:"Có ai trong đó không, xin được bẩm đã đem Hôichi về đến đây
rồi". Nói xong, có tiếng chân người từ bên trong đi ra, lại có tiếng
vách
giấy mở ra, tiếng rèm cửa cuốn lên, giọng đàn bà con gái xì xào. Nghe
họ trò
chuyện với nhau, Hôichi thầm nghĩ những người này phải là bọn thị tỳ
trong một
phủ đệ. Chàng mù đâm ra lo lắng không biết người ta sẽ dắt mình đi đâu.
Chưa
kịp nghĩ ngợi gì, có người đã đưa tay dắt chàng ta đi lên năm sáu bậc
thang.
Đến bậc cao nhất, có lệnh phải cởi dép. Bàn tay đàn bà lại tiếp tục dắt
Hôichi
đi qua những khu hành lang lát gỗ nhẵn thín và dài tưởng chừng bất tận.
Chàng
mù rẽ quặt không biết bao nhiêu lần ngõ ngách, cột trụ, xuyên qua mấy
gian
phòng trải chiếu rộng thênh thang trước khi được đưa vào trong một gian
đại
điện. Hôichi nghĩ ôi chao, đại điện này hẳn là nơi tụ tập các vị tôn
quí vì hắn
nghe tiếng vạt áo lụa chạm nhau sột soạt như tiếng lá trong rừng xao
động,
tiếng người đông đảo đang trò chuyện với nhau. Họ đang thì thầm những
gì,
Hôichi không hiểu rõ nhưng ngôn từ họ dùng là của nơi gác tía lầu son.
Hôichi được lệnh cứ tự nhiên.
Người ta bày trước mặt chàng một tấm nệm tròn, mềm mại và bảo ngồi lên.
Hôichi
đang nắn lại giây đàn thì một giọng đàn bà đã cất lên, dường như tiếng
của lão
chủ quản trong cung:
- Mi hãy so dây, bắt đầu dạo
khúc "Truyện Heike" cho bề trên thưởng thức đi. Nhưng nếu bà ta chỉ
nói chừng đó thì Hôichi không biết phải bắt đầu từ đâu. Truyện nhà
Taira dài
lắm, kể biết mấy đêm mới xong. Hôichi mới đánh bạo:
- Dám thưa Truyện Heike khá
dài, một buổi không sao kể hết. Chẳng hay bề trên muốn nghe đoạn nào?
Hỏi đến đây thì giọng lão bà
lại trả lời:
- Hãy kể cho ngài nghe đoạn
quyết chiến ở Dan no Ura. Trong cả một Truyện Heike, đoạn này nghe buồn
thấm
thía nhất đấy.
Hôichi bèn từ từ cất giọng,
kể lớp nói về trận thủy chiến khủng khiếp. Tiếng đàn khéo làm sống lại
nào là
tiếng mái chèo quạt nước, tiếng đoàn thuyền lao lên xung trận, tiếng
tên bay xé
gió, tiếng chân rầm rập xen với tiếng quân reo hò, tiếng đao kiếm giáp
trụ chạm
vào nhau soang soảng, tiếng người bị đâm ngã ùm xuống nước. Trong lúc
Hôichi
đang ra sức trình tấu, chung quanh người nghe đã bắt đầu xuýt xoa tán
thưởng.
"Làm sao lại có tay đàn tuyệt vời như thế nhỉ" , "Ngay ở kinh
đô, cũng chưa nghe ai đánh hay đến vậy", "Dưới gầm trời này, hỏi ai
hơn được Hôichi!", bao nhiêu lời khen tặng lọt vào lỗ tai chàng mù.
Trong
lòng Hôichi rộn một niềm tự hào, chàng lại ra sức đàn hát. Tán thưởng
tưởng còn
như không dứt thì chung quanh bỗng nhiên trở lại im lặng như tờ. Lúc
ấy, khúc
đàn đã tiến dần đến đoạn tả thảm cảnh nhà Taira, một đoàn người đẹp,
trẻ thơ, bỗng
nhiên gặp cảnh tuyệt mệnh, thương tâm, nhất là cảnh hai bà phi bồng ấu
chúa
trầm mình dưới giòng nước bạc. Người nghe ai nấy ngậm ngùi thở dài,
chợt nổi
lên đâu đây tiếng nấc tức tưởi nghẹn ngào rồi tiếng khóc oà vang. Tiếng
khóc vỡ
ra như không cầm lại được, chính Hôichi cũng phải ngạc nhiên không ngờ
mình đã
động mối thương tâm của người nghe đến thế. Tiếng khóc kéo dài một hồi
lâu rồi
như vơi đi, bốn bề bỗng yên tĩnh trở lại. Trong cái im lặng đó, giọng
bà lão
lại cất lên:
- Người đàn như thế thật trên
đời có một không hai. Đã đành từng nghe tiếng người đồn dãi nhưng hôm
nay xem
mi trổ tài mới biết lời đồn kia còn thua sự thật. Đức vương thượng rất
hài
lòng. Ngài còn giáng chỉ cho chúng ta bảo phải ban cho mi nhiều tặng
vật để
thưởng công. Vậy kể từ đêm nay, trong suốt sáu đêm, mỗi đêm ngươi phải
tới đây
đánh đàn tiếp cho chúng ta nghe. Nếu đức ngài không phải lên đường
thượng kinh
gấp, thì ngày mai, cũng vào giờ khắc này, sẽ có người gọi mi tới dinh
nầy. Kẻ
dẫn đường cho mi hôm nay ngày mai sẽ đến đón. Ta chỉ có một điều căn
dặn ngươi
là chuyện bề trên ngự đến vùng Akamagaseki này, ngươi không được hé môi
cho ai.
Đức Ngài vi hành tới vùng này nên không muốn trong hay ngoài biết. Hôm
nay như
thế là xong, ngươi có thể lui về chùa được rồi.
Hôichi rạp mình chào xong,
bàn tay thị nữ lại dắt chàng ta ra tận cửa, ở đó, người tùy giả lúc nãy
đã đợi
để đưa hắn về chùa. Vũ sĩ đưa Hôichi trở lại mái hiên chùa, rồi từ giã
quay về.
Lúc Hôichi trở lại chùa trời đã sáng bạch nhưng việc anh ta qua đêm ở
ngoài,
chẳng có ai để ý. Hòa thượng coi bộ đêm đó về khuya lắm, tưởng là chàng
mù đã
đi ngủ từ lâu nên chẳng bận tâm. Sáng hôm sau, Hôichi có nằm nướng một
chút lấy
sức nhưng cái chuyện kỳ lạ đêm qua, anh ta không để lọt ra ngoài một
tiếng. Nửa
đêm hôm đó, người vũ sĩ lại đến tìm Hôichi đi trình tấu ở chỗ các bậc
tôn quí
hội họp, và cũng như đêm trước, chàng thu lượm được muôn ngàn lời tán
tụng. Tuy
nhiên, trong lúc Hôichi đi đánh đàn, ở chùa người ta bỗng phát giác sự
vắng mặt
của chàng mù. Khi về chùa lúc hừng sáng, chàng ta được gọi đến trước
mặt sư cụ.
Sư cụ không bằng lòng chút nào, luôn miệng trách mắng:
- Hôichi, ta nói điều này chỉ
vì ta lo cho ngươi thôi. Đã mù lòa, một thân một mình mà bỏ chùa đi đâu
suốt
đêm đến sáng. Thật không có gì nguy hiểm hơn. Nếu có đi đâu sao không
bảo tụi
nhỏ đứa nào nó dắt đi mà tự ý đi một mình như vậy. Thế chớ đến nay,
người đã đi
những đâu?
- Bạch sư cụ thứ lỗi cho con.
Chỉ vì con có chút việc riêng mà ban ngày ban mặt không thu xếp xong
phải kéo
đến tối đấy ạ.
Hòa thượng coi mòi Hôichi
không chịu nói thực, cụ không bực mình mà chỉ ngạc nhiên. Đây là chuyện
không
bình thường chút nào, hẳn có lý do chi đây. Hoặc giả chàng mù này đang
gặp
chuyện gì chẳng lành, bị ai lừa lọc gì chăng. Lo thì lo nhưng hỏi thêm
không
tiện, hoà thượng chỉ còn biết ra lệnh cho mấy điệu phải trông chừng
nhất cử
nhất động của chàng mù. Hễ mà đến đêm Hôichi còn bỏ chùa đi đâu nữa thì
phải
tức tốc theo dõi.
Đêm ấy, khi Hôichi vừa ra
khỏi chùa thì đã có người biết. Mấy chú tiểu chú điệu liền xách lồng
đèn theo
dấu anh chàng. Thế nhưng trời đang mưa, đường tối mịt. Bọn nhà chùa vừa
ra tới
ngõ lớn thì đã hút mất bóng Hôichi. Làm như thể Hôichi có chuyện phải
nhanh
chân đi gấp. Không thấy đường mà đi được nhanh như thế thật có trời mới
hiểu,
nhất là đường sá gập ghềnh. Bọn nhà chùa bèn thử xuống dưới xóm, đến
những nhà
Hôichi quen biết xem hắn ta có ghé đó không. Họ điểm từng nhà hỏi thăm,
không
sót đâu cả thế mà chẳng ai rõ tung tích chàng mù. Lúc không còn biết đi
đâu mới
theo ven bãi lui gót trở lại chùa thì họ chợt hoảng kinh. Trong khu
nghĩa địa
chùa A Di Đà, bổng văng vẳng tiếng tì bà dồn dập. Phía khu mộ địa tối
om vẫn
chập chờn đôi ba ánh lửa ma trơi như mọi hôm. Theo ánh lửa đèn lồng,
bọn trai
trẻ nhà chùa rốt cục tìm ra Hôichi trong nghĩa địa. Giữa cơn mưa tầm
tã, Hôichi
đang ngồi thẳng lưng trước lăng Thiên Hoàng Antoku, tay đàn miệng hát,
dáng
điệu đau đớn thiết tha, kể sự tích cuộc tranh chiến ở Dan no Ura. Chung
quanh
Hôichi toàn là bia, là mộ, ngổn ngang gò đống, và trên đó, hàng hàng
lớp lớp
những ngọn lửa quỉ lạnh lẽo chập chờn. Từ trước đến giờ, chắc chắn chưa
có ai
thấy một nơi nào mà ma trơi tụ tập nhiều như ở đây.
- Chú Hôichi ơi, chú ơi!
Bọn trai trẻ gào lên.
"Chú Hôichi ơi, ma nó ám chú rồi!"
Chàng mù như không đếm xỉa gì
đến lời nói đó. Không những thế, chàng ta càng mạnh tay đàn, cao giọng
hát, dồn
hết tâm lực như kể truyện trận quyết chiến Dan no Ura. Bọn nhà chùa nắm
vai
Hoichi, lay lấy lay để và nói như thét vào tai :"Chú Hôichi, chú Hôichi
ơi, theo bọn tôi về chùa thôi!" Bỗng lúc đó, Hôichi quay lại chúng, nói
như mắng:
- Trước mặt bậc cao quí như
thế này mà chúng mày dám ồn ào. Coi chừng mất đầu đấy nhé!
Lời nói chẳng ăn nhập gì đâu
vào đâu làm bọn trai trẻ nhà chùa không khỏi phì cười. Đã đến mức này
thì họ
biết Hôichi gặp đúng của gì rồi. Họ bèn hè nhau dùng sức kéo Hôichi dậy
và bốc
hắn về chùa. Theo lời dạy của sư cụ, họ thay quần áo khô và cho hắn ăn
hắn
uống. Thế rồi hòa thượng giục Hôichi phải tường trình về hành vi lạ
lùng của
hắn.
Ban đầu, Hôichi còn trù trừ
không muốn nói nhưng cuối cùng, nghĩ đến sư cụ xưa nay vẫn chu đáo với
mình, mà
mình lại làm phiền, mới đem tình thực giãi bày. Từ chuyện người samurai
nửa đêm
đến tìm mình cho đến những chuyện gì đã xảy ra từ đó đến nay, đều thuật
lại cho
nhà sư.
Hòa thượng lúc đó mới
nói:"Hôichi, thật tội nghiệp cho ngươi. Ngươi đang gặp nạn lớn đấy. Khổ
nỗi là ngươi không chịu kể cho ta chuyện này sớm hơn. Trăm điều nguy
khốn xảy
đến cho ngươi cũng vì do cái tài đánh đàn tì bà. Tuy nhiên, lúc này
ngươi phải
tỉnh táo để tìm cách chấm dứt cơ sự này. Mấy đêm nay ngươi chẳng đi
đánh đàn ở
nhà ai cả, chỉ ra ngồi ở khu mả họ Taira trong nghĩa trang nhà chùa đó
thôi.
Thật ra, hồi hôm, bọn nhỏ nó tìm ra ngươi giữa đêm mưa trước lăng thiên
hoàng
Antoku đấy. Có thể là ma dẫn lối quỉ đưa đường cho ngươi nhưng những gì
ngươi
đã gặp đều là huyễn ảnh thôi. Một khi đã nghe lời ma quỉ thì chúng sẽ
trói buộc
ngươi mãi mãi. Nay đã đến tình cảnh này chỉ còn có cách không bao giờ
chịu nghe
theo chúng nữa, nếu không có ngày chúng phanh thây. Thật đấy, chẳng
chóng thì
chầy chúng sẽ giết ngươi thôi... Mà này, Hôichi, hôm nay lại có đàn
việt mời đi
cầu siêu suốt đêm, bắt buộc ta phải rời chùa, không thể ở bên ngươi
được. Dầu
sao, trước khi đi ta cũng sẽ viết kinh lên trên người để làm bùa hộ
mạng cho
ngươi.
Trước khi tắt nắng, hòa
thượng bảo Hôichi phơi trần ra rồi cùng tăng sĩ trông việc sổ sách kho
đụn, cả
hai lấy bút lông xúm lại viết kinh lên người chàng mù. Từ ngực đến
lưng, cả
trên đầu, trên mặt, tay chân, cùi chỏ... ngay cả gan bàn chân cũng được
chép
đầy Ban Nhược Tâm Kinh, coi như toàn thân không thiếu chỗ nào. Chép
kinh xong,
hòa thượng mới ôn tồn:
- Đêm nay, khi ta đi xong,
ngươi nhớ ra ngồi chỗ hàng hiên hậu liêu mà chờ. Tất nhiên ma kia sẽ
đến đón.
Thế nhưng dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa, nhất thiết ngươi không được
trả
lời, không được động đậy. Cứ câm như hến, ngồi đấy thiền định theo phép
Tam
Muội, chuyên tâm vô niệm cho ta. Hễ ngươi rục rịch hay mở mồm là ngươi
tới số
đó nhé. Nói vậy chứ ngươi đừng sợ hãi gì, có gì xảy ra cũng chớ mở
miệng kêu
cứu, kêu cứu chỉ tổ chết sớm. Cứ làm đúng từng li từng tí lời ta căn
dặn thì
ngươi sẽ thoát hiểm từ đây.
Tối đến, hòa thượng cùng tăng
sĩ thủ kho ra đi. Hôichi đúng lời sư cụ dặn, ra ngồi trước hàng hiên.
Chàng mù
đặt cây đàn tì bà trên sàn ván, ngồi nghiêm trang nhập định. Tâm thần
yên ắng,
không một tiếng ho khẽ, không một hơi thở mạnh. Cứ như thế, Hôichi ngồi
chờ từ
giờ này sang giờ khác. Dần dà, đã nghe tiếng chân bước từ chỗ phía
khách vãng
lai tiến về phía mình. Tiếng chân đi ngang cửa gỗ, thông qua khu vườn
đến bên
hàng hiên, dừng lại trước mặt Hôichi.
- Hôichi! Vẫn cái giọng khỏe,
oang oang, cất tiếng gọi. Thế nhưng lần nầy, chàng mù nén thở, im
tiếng, châu
thân bất động.
- Hôichi! Tiếng quát lần thứ
hai lanh lảnh rợn người. Lần thứ ba nó trở nên hằn học.
- Hôichi!
Hôichi vẫn ngồi im như tượng
đá. Giọng nói kia không giữ được sự bực bội:
- Không trả lời! Quái! Thằng
khốn nạn kia nó biến đi đâu nhỉ?
Tức khắc đã nghe tiếng chân
bước thô bạo lên hiên. Tiếng chân xáp gần Hôichi rồi bỗng nhiên khựng
lại.
Hôichi cảm thấy trống ngực đập thình thịch, người run lẩy bẩy. Bên
cạnh, vẫn
không có một tiếng động nào.
Thoạt nhiên , cái tiếng nói
thô bạo kia bỗng ghé sát bên tai chàng mù:
- Tì bà thì có mà nhạc sĩ tì
bà không thấy. Chỉ có hai cái lỗ tai treo ở đây! ... Có tai mà không
nghe để
trả lời. Chắc muốn trả lời mà không có miệng. Cả người chỉ còn lại cặp
tai! ...
Được rồi, đến thế này thì ta chỉ còn cách đem cặp tai này cho bề trên
để có
chứng cứ là ta đã làm đúng mệnh lệnh của ngài.
Chỉ trong một sát na, Hôichi
đã cảm thấy hai ngón tay cứng như thép nguội giật lấy tai hắn ta, rồi
xoẹt, hai
tai đã đứt lìa. Khỏi phải nói chàng mù đau nhói đến tâm can nhưng cắn
răng
không thốt nửa lời. Tiếng chân kia từ từ bước xuống khỏi hàng hiên, đi
qua khu
vườn, xa dần về phía cổng hậu rồi mất hút. Hôichi cảm thấy hai bên đầu
có cái
nước gì nóng nóng đang ròng ròng chảy xuống nhưng vẫn không dám đưa tay
lên sờ.
Tờ mờ đất, hòa thượng mới
khăn gói về chùa. Đến nơi, cụ đã tức tốc chạy xuống phía hiên hậu liêu.
Bỗng sư
cụ dẫm lên cái gì nhờm nhớp, trượt chân suýt ngã. Rồi cụ bỗng hoảng hốt
vì dưới
ánh sáng ngọn đèn lồng, đó là một vũng máu. Nhìn ra thì trên hàng hiên,
Hôichi
vẫn ngồi chính tọa trong tư thế nhập định, từ vết thương, máu nhỏ xuống
nhuộm
đỏ cả người.
- Hôichi đó hả ! Sư cụ ngạc
nhiên kêu "Trời Phật ơi, làm sao đến nỗi bị thương thế này ? "
Nghe tiếng hòa thượng, Hôichi
biết nguy hiểm đã qua, bật lên khóc rồi bù lu bù loa kể sự thể những gì
xảy ra
đêm qua.
- Tội nghiệp ơi là tội nghiệp
!
Hòa thượng không cầm được
tiếng than. "Trăm sự cũng tại ta bất cẩn. Viết kinh lên khắp người của
ngươi mà lại không viết lên tai. Thấy chỗ tai hẹp, khó viết ta mới cậy
thủ kho
viết giùm, mà chính ta cũng chẳng chịu kiểm xem hắn có viết cho chưa.
Để đến
nỗi này là do ta sơ ý... Nhưng có hối cũng đã muộn, điều gấp rút bây
giờ là trị
liệu cho ngươi chóng bình phục. Hôichi, chớ có buồn nữa, phải vui lên
vì kể từ
nay, tai qua nạn khỏi rồi. Chắc chắn ma quỉ chẳng còn đến đây hạch sách
quấy
nhiễu ngươi nữa đâu ."
Nhờ lương y tận tâm, chẳng
bao lâu, vết thương của Hôichi đã lành lặn. Câu chuyện kinh dị xảy đến
cho
chàng mù được đồn đãi nhanh chóng, danh tiếng chàng nổi lên như cồn.
Bao nhiêu
nhà giàu có cao quí đua nhau tới vùng Akamagaseki để thưởng thức ngón
đàn của
chàng, thi nhau cho vàng tặng lụa. Chẳng mấy lúc Hôichi trở thành giàu
có. Thế
nhưng vì câu chuyện quái dị kể trên mà Hôichi mang cái hỗn danh là
"chàng
Hôichi cụt tai".
Nguyên tác : Hirai Teiichi
dịch Lafcadio Hearn (từ Anh ra Nhật)
Người dịch : Nguyễn Nam Trân
(từ tiếng Nhật)
(đã đăng ở Hợp Lưu)
Chú thích
(1) Cuộc thư hùng giữa hai
giòng họ quyền thần Taira, (Bình, còn gọi là Heike (Bình gia)) và
Minamoto
(Nguyên, còn gọi là Nguyên thị (Genji)) thời trung cổ Nhật Bản, cũng
giống như
những cuộc tranh phong Trịnh Nguyễn, Lê Mạc của ta. Tháng 3 năm 1185,
danh
tướng Yoshitsune nhà Minamoto đánh tan đoàn chiến thuyền Taira ở Dan no
Ura và
mở màn cho chính trị mạc-phủ Kamakura.
Cả một nhà Taira bị diệt vong, thiên hoàng Antoku (cháu ngoại họ Taira,
tuổi
hãy còn thơ) cũng chết trong trận thủy chiến. Sinh hoạt của hai giòng
họ đã để
lại những cổ điển bất hủ như Genji monogatari (Nguyên thị vật ngữ), một
tác
phẩm phong lưu được coi như truyện Kiều của Nhật, hay anh hùng ca Heike
monogatari (Bình gia vật ngữ).
[Trích Chim Việt Cành Nam]
"The Story of
Mimi-nashi-Hôïchi"
by
Lafcadio Hearn
More than seven hundred years
ago, at Dan-no-ura, in the Straits of Shimonoséki, was fought the last
battle
of the long contest between the Heiké, or Taira clan, and the Genji, or
Minamoto clan. There the Heiké perished utterly, with their women and
children,
and their infant emperor likewise — now remembered as Antoku Tennô. And
that
sea and shore have been haunted for seven hundred years. . . .
Elsewhere I told
you about the strange crabs found there, called Heiké crabs, which have
human
faces on their backs, and are said to be the spirits of Heiké
warriors.1 But
there are many strange things to be seen and heard along that coast. On
dark
nights thousands of ghostly fires hover about the beach, or flit above
the
waves, — pale lights which the fishermen call Oni-bi, or demon-fires;
and,
whenever the winds are up, a sound of great shouting comes from that
sea, like
a clamor of battle.
In former years the Heiké
were much more restless than they now are. They would rise about ships
passing
in the night, and try to sink them; and at all times they would watch
for
swimmers, to pull them down. It was in order to appease those dead that
the
Buddhist temple, Amidaji, was built at Akamagaséki.2 A cemetery also
was made
close by, near the beach; and within it were set up monuments inscribed
with
the names of the drowned emperor and of his great vassals; and Buddhist
services were regularly performed there, on behalf of the spirits of
them.
After the temple had been built, and the tombs erected, the Heiké gave
less trouble
than before; but they continued to do queer things at intervals, —
proving that
they had not found the perfect peace.
Some centuries ago there
lived at Akamagaséki a blind man named Hôïchi, who was famed for his
skill in
recitation and in playing upon the biwa.3 From childhood he had been
trained to
recite and to play; and while yet a lad he had surpassed his teachers.
As a
professional biwa-hôshi he became famous chiefly by his recitations of
the
history of the Heiké and the Genji; and it is said that when he sang
the song
of the battle of Dan-no-ura "even the goblins [kijin] could not refrain
from tears."
At the outset of his career,
Hôïchi was very poor; but he found a good friend to help him. The
priest of the
Amidaji was fond of poetry and music; and he often invited Hôïchi to
the
temple, to play and recite. Afterwards, being much impressed by the
wonderful
skill of the lad, the priest proposed that Hôïchi should make the
temple his
home; and this offer was gratefully accepted. Hôïchi was given a room
in the
temple-building; and, in return for food and lodging, he was required
only to
gratify the priest with a musical performance on certain evenings, when
otherwise disengaged.
One summer night the priest
was called away, to perform a Buddhist service at the house of a dead
parishioner; and he went there with his acolyte, leaving Hôïchi alone
in the
temple. It was a hot night; and the blind man sought to cool himself on
the
verandah before his sleeping-room. The verandah overlooked a small
garden in
the rear of the Amidaji. There Hôïchi waited for the priest's return,
and tried
to relieve his solitude by practicing upon his biwa. Midnight passed;
and the
priest did not appear. But the atmosphere was still too warm for
comfort within
doors; and Hôïchi remained outside. At last he heard steps approaching
from the
back gate. Somebody crossed the garden, advanced to the verandah, and
halted
directly in front of him — but it was not the priest. A deep voice
called the
blind man's name — abruptly and unceremoniously, in the manner of a
samurai
summoning an inferior: —
"Hôïchi!"
Hôïchi was too much startled,
for the moment, to respond; and the voice called again, in a tone of
harsh
command, —
"Hôïchi!"
"Hai!" answered the
blind man, frightened by the menace in the voice, — "I am blind! — I
cannot know who calls!"
"There is nothing to
fear," the stranger exclaimed, speaking more gently. "I am stopping
near this temple, and have been sent to you with a message. My present
lord, a
person of exceedingly high rank, is now staying in Akamagaséki, with
many noble
attendants. He wished to view the scene of the battle of Dan-no-ura;
and to-day
he visited that place. Having heard of your skill in reciting the story
of the
battle, he now desires to hear your performance: so you will take your
biwa and
come with me at once to the house where the august assembly is waiting."
In those times, the order of
a samurai was not to be lightly disobeyed. Hôïchi donned his sandals,
took his
biwa, and went away with the stranger, who guided him deftly, but
obliged him
to walk very fast. The hand that guided was iron; and the clank of the
warrior's stride proved him fully armed, — probably some palace-guard
on duty.
Hôïchi's first alarm was over: he began to imagine himself in good
luck; — for,
remembering the retainer's assurance about a "person of exceedingly
high
rank," he thought that the lord who wished to hear the recitation could
not be less than a daimyô of the first class. Presently the samurai
halted; and
Hôïchi became aware that they had arrived at a large gateway; — and he
wondered,
for he could not remember any large gate in that part of the town,
except the
main gate of the Amidaji. "Kaimon!"4 the samurai called, — and there
was a sound of unbarring; and the twain passed on. They traversed a
space of
garden, and halted again before some entrance; and the retainer cried
in a loud
voice, "Within there! I have brought Hôïchi." Then came sounds of
feet hurrying, and screens sliding, and rain-doors opening, and voices
of women
in converse. By the language of the women Hôïchi knew them to be
domestics in
some noble household; but he could not imagine to what place he had
been
conducted. Little time was allowed him for conjecture. After he had
been helped
to mount several stone steps, upon the last of which he was told to
leave his
sandals, a woman's hand guided him along interminable reaches of
polished
planking, and round pillared angles too many to remember, and over
widths
amazing of matted floor, — into the middle of some vast apartment.
There he
thought that many great people were assembled: the sound of the
rustling of
silk was like the sound of leaves in a forest. He heard also a great
humming of
voices, — talking in undertones; and the speech was the speech of
courts.
Hôïchi was told to put
himself at ease, and he found a kneeling-cushion ready for him. After
having
taken his place upon it, and tuned his instrument, the voice of a woman
— whom
he divined to be the Rôjo, or matron in charge of the female service —
addressed him, saying, —
"It is now required that
the history of the Heiké be recited, to the accompaniment of the biwa."
Now the entire recital would
have required a time of many nights: therefore Hôïchi ventured a
question: —
"As the whole of the
story is not soon told, what portion is it augustly desired that I now
recite?"
The woman's voice made
answer: —
"Recite the story of the
battle at Dan-no-ura, — for the pity of it is the most deep."5
Then Hôïchi lifted up his
voice, and chanted the chant of the fight on the bitter sea, —
wonderfully
making his biwa to sound like the straining of oars and the rushing of
ships,
the whirr and the hissing of arrows, the shouting and trampling of men,
the
crashing of steel upon helmets, the plunging of slain in the flood. And
to left
and right of him, in the pauses of his playing, he could hear voices
murmuring
praise: "How marvelous an artist!" — "Never in our own province
was playing heard like this!" — "Not in all the empire is there
another singer like Hôïchi!" Then fresh courage came to him, and he
played
and sang yet better than before; and a hush of wonder deepened about
him. But
when at last he came to tell the fate of the fair and helpless, — the
piteous
perishing of the women and children, — and the death-leap of
Nii-no-Ama, with
the imperial infant in her arms, — then all the listeners uttered
together one
long, long shuddering cry of anguish; and thereafter they wept and
wailed so
loudly and so wildly that the blind man was frightened by the violence
of the
grief that he had made. For much time the sobbing and the wailing
continued.
But gradually the sounds of lamentation died away; and again, in the
great
stillness that followed, Hôïchi heard the voice of the woman whom he
supposed
to be the Rojô.
She said: —
"Although we had been
assured that you were a very skillful player upon the biwa, and without
an
equal in recitative, we did not know that any one could be so skillful
as you
have proved yourself to-night. Our lord has been pleased to say that he
intends
to bestow upon you a fitting reward. But he desires that you shall
perform
before him once every night for the next six nights — after which time
he will
probably make his august return-journey. To-morrow night, therefore,
you are to
come here at the same hour. The retainer who to-night conducted you
will be
sent for you. . . . There is another matter about which I have been
ordered to
inform you. It is required that you shall speak to no one of your
visits here,
during the time of our lord's august sojourn at Akamagaséki. As he is
traveling
incognito,6 he commands that no mention of these things be made. . . .
You are
now free to go back to your temple."
After Hôïchi had duty
expressed his thanks, a woman's hand conducted him to the entrance of
the
house, where the same retainer, who had before guided him, was waiting
to take
him home. The retainer led him to the verandah at the rear of the
temple, and
there bade him farewell.
It was almost dawn when
Hôïchi returned; but his absence from the temple had not been observed,
— as
the priest, coming back at a very late hour, had supposed him asleep.
During
the day Hôïchi was able to take some rest; and he said nothing about
his
strange adventure. In the middle of the following night the samurai
again came
for him, and led him to the august assembly, where he gave another
recitation
with the same success that had attended his previous performance. But
during
this second visit his absence from the temple was accidentally
discovered; and
after his return in the morning he was summoned to the presence of the
priest,
who said to him, in a tone of kindly reproach: —
"We have been very
anxious about you , friend Hôïchi. To go out, blind and alone, at so
late an
hour, is dangerous. Why did you go without telling us? I could have
ordered a
servant to accompany you. And where have you been?"
Hôïchi answered, evasively, —
"Pardon me, kind friend!
I had to attend to some private business; and I could not arrange the
matter at
any other hour."
The priest was surprised,
rather than pained, by Hôïchi's reticence: he felt it to be unnatural,
and suspected
something wrong. He feared that the blind lad had been bewitched or
deluded by
some evil spirits. He did not ask any more questions; but he privately
instructed the men-servants of the temple to keep watch upon Hôïchi's
movements, and to follow him in case that he should again leave the
temple
after dark.
On the very next night,
Hôïchi was seen to leave the temple; and the servants immediately
lighted their
lanterns, and followed after him. But it was a rainy night, and very
dark; and
before the temple-folks could get to the roadway, Hôïchi had
disappeared.
Evidently he had walked very fast, — a strange thing, considering his
blindness; for the road was in a bad condition. The men hurried through
the
streets, making inquiries at every house which Hôïchi was accustomed to
visit;
but nobody could give them any news of him. At last, as they were
returning to
the temple by way of the shore, they were startled by the sound of a
biwa,
furiously played, in the cemetery of the Amidaji. Except for some
ghostly fires
— such as usually flitted there on dark nights — all was blackness in
that
direction. But the men at once hastened to the cemetery; and there, by
the help
of their lanterns, they discovered Hôïchi, — sitting alone in the rain
before
the memorial tomb of Antoku Tennô, making his biwa resound, any loudly
chanting
the chant of the battle of Dan-no-ura. And behind him, and about him,
and
everywhere above the tombs, the fires of the dead were burning, like
candles.
Never before had so great a host of Oni-bi appeared in the sight of
mortal man.
. . .
"Hôïchi San! — Hôïchi
San!" the servants cried, — "you are bewitched! . . . Hôïchi
San!"
But the blind man did not
seem to hear. Strenuously he made his biwa to rattle and ring and
clang; — more
and more wildly he chanted the chant of the battle of Dan-no-ura. They
caught
hold of him; — they shouted into his ear, —
"Hôïchi San! — Hôïchi
San! — come home with us at once!"
Reprovingly he spoke to them:
—
"To interrupt me in such
a manner, before this august assembly, will not be tolerated."
Whereat, in spite of the
weirdness of the thing, the servants could not help laughing. Sure that
he had
been bewitched, they now seized him, and pulled him up on his feet, and
by main
force hurried him back to the temple, — where he was immediately
relieved of
his wet clothes, by order of the priest, and reclad, and made to eat
and drink.
Then the priest insisted upon a full explanation of his friend's
astonishing
behavior.
Hôïchi long hesitated to
speak. But at last, finding that his conduct had really alarmed and
angered the
good priest, he decided to abandon his reserve; and he related
everything that
had happened from the time of the first visit of the samurai.
The priest said: —
"Hôïchi, my poor friend,
you are now in great danger! How unfortunate that you did not tell me
all this
before! Your wonderful skill in music has indeed brought you into
strange
trouble. By this time you must be aware that you have not been visiting
any house
whatever, but have been passing your nights in the cemetery, among the
tombs of
the Heiké; — and it was before the memorial-tomb of Antoku Tennô that
our
people to-night found you, sitting in the rain. All that you have been
imagining was illusion — except the calling of the dead. By once
obeying them,
you have put yourself in their power. If you obey them again, after
what has
already occurred, they will tear you in pieces. But they would have
destroyed
you, sooner or later, in any event. . . . Now I shall not be able to
remain
with you to-night: I am called away to perform another service. But,
before I
go, it will be necessary to protect your body by writing holy texts
upon
it."
Before sundown the priest and
his acolyte stripped Hôïchi: then, with their writing-brushes, they
traced upon
his breast and back, head and face and neck, limbs and hands and feet,
— even
upon the soles of his feet, and upon all parts of his body, — the text
of the
holy sûtra called Hannya-Shin-Kyo.7 When this had been done, the priest
instructed Hôïchi, saying: —
"To-night, as soon as I
go away, you must seat yourself on the verandah, and wait. You will be
called.
But, whatever may happen, do not answer, and do not move. Say nothing,
and sit
still — as if meditating. If you stir, or make any noise, you will be
torn
asunder. Do not get frightened; and do not think of calling for help —
because
no help could save you. If you do exactly as I tell you, the danger
will pass,
and you will have nothing more to fear."
After dark the priest and the
acolyte went away; and Hôïchi seated himself on the verandah, according
to the
instructions given him. He laid his biwa on the planking beside him,
and,
assuming the attitude of meditation, remained quite still, — taking
care not to
cough, or to breathe audibly. For hours he stayed thus.
Then, from the roadway, he
heard the steps coming. They passed the gate, crossed the garden,
approached
the verandah, stopped — directly in front of him.
"Hôïchi!" the deep
voice called. But the blind man held his breath, and sat motionless.
"Hôïchi!" grimly
called the voice a second time. Then a third time — savagely: —
"Hôïchi!"
Hôïchi remained as still as a
stone, — and the voice grumbled: —
"No answer! — that won't
do! . . . Must see where the fellow is." . . .
There was a noise of heavy
feet mounting upon the verandah. The feet approached deliberately, —
halted
beside him. Then, for long minutes, — during which Hôïchi felt his
whole body
shake to the beating of his heart, — there was dead silence.
At last the gruff voice
muttered close to him: —
"Here is the biwa; but
of the biwa-player I see — only two ears! . . . So that explains why he
did not
answer: he had no mouth to answer with — there is nothing left of him
but his
ears. . . . Now to my lord those ears I will take — in proof that the
august
commands have been obeyed, so far as was possible." . . .
At that instant Hôïchi felt
his ears gripped by fingers of iron, and torn off! Great as the pain
was, he
gave no cry. The heavy footfalls receded along the verandah, —
descended into
the garden, — passed out to the roadway, — ceased. From either side of
his
head, the blind man felt a thick warm trickling; but he dared not lift
his
hands. . . .
Before sunrise the priest
came back. He hastened at once to the verandah in the rear, stepped and
slipped
upon something clammy, and uttered a cry of horror; — for he saw, by
the light
of his lantern, that the clamminess was blood. But he perceived Hôïchi
sitting
there, in the attitude of meditation — with the blood still oozing from
his
wounds.
"My poor Hôïchi!"
cried the startled priest, — "what is this? . . . You have been
hurt?" . . .
At the sound of his friend's
voice, the blind man felt safe. He burst out sobbing, and tearfully
told his
adventure of the night.
"Poor, poor
Hôïchi!" the priest exclaimed, — "all my fault! — my very grievous
fault! . . . Everywhere upon your body the holy texts had been written
— except
upon your ears! I trusted my acolyte to do that part of the work; and
it was
very, very wrong of me not to have made sure that he had done it! . . .
Well,
the matter cannot now be helped; — we can only try to heal your hurts
as soon
as possible. . . . Cheer up, friend! — the danger is now well over. You
will
never again be troubled by those visitors."
With the aid of a good
doctor, Hôïchi soon recovered from his injuries. The story of his
strange
adventure spread far and wide, and soon made him famous. Many noble
persons
went to Akamagaséki to hear him recite; — so that he became a wealthy
man. . .
. But from the time of his adventure, he was known only by the
appellation of
Mimi-nashi-Hôïchi: "Hôïchi-the-Earless."
--------------------------------------------------------------------------------
1 See my Kottô, for a
description of these curious crabs.
2 Or, Shimonoséki. The town
is also known by the name of Bakkan.
3 The biwa, a kind of
four-stringed lute, is chiefly used in musical recitative. Formerly the
professional minstrels who recited the Heiké-Monogatari, and other
tragical
histories, were called biwa-hôshi, or "lute-priests." The origin of
this appellation is not clear; but it is possible that it may have been
suggested by the fact that "lute-priests," as well as blind
shampooers, had their heads shaven, like Buddhist priests. The biwa is
played
with a kind of plectrum, called bachi, usually made of horn.
4 A respectful term,
signifying the opening of a gate. It was used by samurai when calling
to the
guards on duty at a lord's gate for admission.
5 Or the phrase might be
rendered, "for the pity of that part is the deepest." The Japanese
word for pity in the original text is awaré.
6 "Traveling
incognito" is at least the meaning of the original phrase, — "making
a disguised august-journey" (shinobi no go-ryokô).
7 The Smaller
Pragña-Pâramitâ-Hridaya-Sûtra is thus called in Japanese. Both the
smaller and
larger sûtras called Pragña-Pâramitâ ("Transcendent Wisdom") have
been translated by the late Professor Max Müller, and can be found in
volume
xlix. of the Sacred Books of the East ("Buddhist Mahâyâna Sûtras"). —
Apropos of the magical use of the text, as described in this story, it
is worth
remarking that the subject of the sûtra is the Doctrine of the
Emptiness of
Forms, — that is to say, of the unreal character of all phenomena or
noumena. .
. . "Form is emptiness; and emptiness is form. Emptiness is not
different
from form; form is not different from emptiness. What is form — that is
emptiness. What is emptiness — that is form. . . . Perception, name,
concept,
and knowledge, are also emptiness. . . . There is no eye, ear, nose,
tongue,
body, and mind. . . . But when the envelopment of consciousness has
been
annihilated, then he [the seeker] becomes free from all fear, and
beyond the
reach of change, enjoying final Nirvâna."
K.Inadomi's Private Library
http://www5.ocn.ne.jp/~kilib/index.html
Source