Văn họcVăn học nước ngoài
Loạt bài: Kỉ niệm sinh nhật lần thứ
100 của Graham Greene
(02.10.1904-02.10.2004)
12.10.2004
Zadie Smith
Graham Greene còn toả bóng
Phạm Toàn dịch
Tháng tới đây sẽ là sinh nhật lần thứ
một trăm Graham
Greene. Ông là một nhà tiểu thuyết viết về đạo đức phức tạp nhiều hơn
ta tưởng,
đó là lập luận của Zadie Smith. Người Mỹ trầm lặng, câu chuyện tình
trong bối
cảnh Việt Nam
những năm 1950 cho thấy ông là nhà báo vĩ đại nhất hạng.
Graham
Greene nói
"Mình phải kiếm một tôn giáo thôi, để xem chất ma quỷ trong con người
mình
đến đâu". Điều này đặt Greene, "nhà tiểu thuyết Ki tô giáo"
(danh hiệu ông ghét bỏ) vào một phương đúng đắn: trước khi ông chọn
chúa Ki tô
làm giá trị cao nhất cho mình, thì ông là con người luôn luôn ám ảnh
chuyện đánh
giá mình cái đã. Không một nhà tiểu thuyết thế kỷ XX nào đầu óc lại
tinh tế hơn
ông khi làm công việc so sánh con người. Trong khi có nhiều nhà tiểu
thuyết cỡ
nhỏ hơn lại tung đòn mạnh hơn nhằm phân biệt kẻ tốt người xấu, thì
Greene vẫn
là bậc thầy của cách phân biệt đa chiều: những con đường mỏng manh ngăn
chia
cái độc địa với sự độc ác, với sự không tốt, với sự ngu xuẩn ác ý. Các
nhân vật
của ông tồn tại trong một hệ thống đạo đức cân bằng đến từng chi tiết.
Họ thất
bại theo nhiều tầng bậc khác nhau. Và vì vậy mà ở Greene không có con
đường đến
cái tốt thực sự, đơn giản chỉ là cả triệu cung cách để xấu hơn nữa hoặc
bớt xấu
đi mà thôi.
Cái cách hiện thực đạo đức một cách
chi tiết này ở Greene
thường bị người đời coi nhẹ để chỉ chú trọng vào những khía cạnh ba rốc
trong
tác phẩm của ông – cách nói toạc vào dục tính, cái máu lang thang, lối
viết
kiểu báo chí - những nét dường như bảo đảm cho Greene một vị trí giữa
những bạn
giang hồ: Erskine Childers, Len Deighton, Alec Waugh, John Le Carré.
Chắc chắn là
Greene luôn luôn là nhà văn thích gây hồi hộp – ngay từ khi còn là chú
thiếu
niên thì ông đã chơi roulette Nga, đánh bạc thật sự ấy, không chơi chơi
đâu.
Song cũng là điều tốt thôi nếu ta nhớ rằng trên giá sách của Greene có
sách của
nhà văn Mỹ Henry James. Bất kể thế nào thì Greene cũng là một anh hai
mang
trong văn chương, và đó đây ở chốn thẳm sâu tác phẩm của ông đều có
Henry James
ở trung tâm như ta vừa nhắc nhớ lại (nói cho đúng hơn đó là H. Rider
Haggard,
người hùng thời thơ trẻ của Greene). Trong các tiểu thuyết của Greene,
cũng như
của James, mọi thăng trầm của con người đều được đưa ra mổ xẻ.
Những chỗ phân biệt tính cách mà ta có
thể dễ dàng hình dung
cụ thể và qua đó ta lại thấy rõ được chính mình ("có điều là tôi thì
tốt
bụng, còn ông ta thì chỉ là người yếm thế thôi”) là những cái không phổ
biến
lắm nếu đem so với những điều trái ngược cùng cực của con người: chiến
tranh,
chết chóc, thất bại và yêu thương. "Bản chất con người không đen hoặc
trắng, mà là đen và xám". Greene chẳng phải là nhà tiểu thuyết đầu tiên
nói lên điều đó, có điều màu xám của ông đa dạng đến tuyệt vời.
Chúng ta phải đặt
trong miền xám này
cái bộ ba u ám trong
cuốn Người Mỹ trầm lặng: tính cách dễ bị mua chuộc mà vẫn ngay thật của
Phượng,
tính cách đứng ngoài cuộc của Fowler, và sự vô tội của Pyle. Đó có phải
là một
cuốn tiểu thuyết được xây dựng một cách cực kỳ thông minh? Nó giống như
trò
chơi rút cọng rơm, khi chơi ta phải rút sao cho được một chiếc mà không
đụng
tới những chiếc khác. Mẹo đánh lừa như vậy là bậc thầy vì nó làm ba
nhân vật đó
cân bằng với nhau - bằng cách so sánh tính chất hoài nghi chán đời của
họ, những
niềm hy vọng cùng những thất bại cá nhân của họ - song vẫn duy trì được
tình
hình sao cho không khi nào chúng ta có thể đến được một phán xét cuối
cùng thỏa
mãn tất cả, như một tín hiệu cho biết bạn đọc đã đọc xong cuốn sách.
Greene
không thích cho phép bạn đọc của mình có được sự thỏa mãn như thế: "Khi
nào ta còn thấy cái gì chưa chắc chắn, vậy là ta còn đang sống."
Trong trường hợp
Người Mỹ trầm lặng,
tính chất nước đôi về
đạo đức được xây dựng thành nền tảng đích thực của cuốn tiểu thuyết.
Trên kia
tôi đã nói đến cái hệ thống đạo đức có mức độ và điều này khiến ta nhớ
lại cách
viết thận trọng và chừng mực, cái lối của James ở Châu Âu, nhưng đây là
cả một
sự khác biệt, thay vì đặt nhân vật của anh trên chiến trường thì lại
đặt vào
phòng khách! Trên chiến địa thì bạn chẳng thấy có gì là chắc chắn hết.
Greene
bị bắt buộc phải moi ra một số những xung đột xấu xa nhất của thế kỷ
ông từng
chứng kiến, những cuộc chiến tranh mọi người vẫn tiếp tục ngay cả khi
những
nguyên cớ chiến tranh đã ngày càng mờ tối đối với họ.
Các nhân vật của ông
tỏa ra tính cách
vô định và hoang mang
về đạo đức khi họ trải qua cuộc chiến tranh không biết khi nào kết
thúc. Song
mặc dù vậy, ở Việt Nam, Phượng và anh nhà báo ngoại quốc Fowler đã tìm
thấy
nhau và như thể là họ đã được ban phước, chí ít thì đó là đối với
Fowler, trong
chừng mực họ còn có chút hy vọng. Đối với họ, đó là một hòn đá ngầm con
con cho
họ đặt chân. "Tôi là người có niềm tin to lớn vào chốn luyện ngục",
Greene trả lời vậy trong một cuộc phỏng vấn, "với tôi, lò luyện ngục có
nghĩa... con người có khả năng thấy được cái gì chuyển động. Tôi không
tin vào
chốn thiên giới nơi chỉ có cảnh toàn phúc thụ động."
Pyle, người chỉ tin
vào thiên giới lại
đã bước vào lò luyện
ngục của Greene. Anh ta đến đó trang bị bằng vô vàn những câu chuyện về
Việt Nam
sai đúng
bất biết. Thế nhưng trong cuốn tiểu thuyết này không chỉ riêng anh bám
vào
những câu chuyện làm lạc lối tự mình đơm đặt lấy. Pyle có câu chuyện
anh biết
về Fowler, nhưng Fowler cũng có câu chuyện anh biết về Pyle (mạch kể
chuyện
chính thống trong cuốn sách này), câu chuyện khiến anh đóng nhầm vai
người Mỹ
trầm lặng nhiều hơn chính anh biến thành con người như thế. Cả hai
người đàn
ông đều có câu chuyện mình biết hoàn toàn méo mó, vô cùng thực dân về
cô gái
tên Phượng.
Chẳng có câu chuyện
nào trong số đó là
đáng tin hết; từng
người có nhu cầu gì thì tin vào chuyện ấy. Greene hiểu rõ những mạch
chảy vị kỷ
trong động cơ con người chúng ta (khi còn là chú nhỏ, ông từng được một
bác sĩ
tâm lý theo trường phái Jung nhiều lần tiến hành phân tích tâm lý cho)
và ông
là người duy nhất vạch ra được sự tiến triển của những ước vọng đó
trong các
thế giới vi mô thân tình được ông tạo dựng (hai con người yêu nhau) cho
tới
những hệ quả vĩ mô mang những quan hệ địa lý và chính trị. Ông biết
rằng một
quốc gia này có thể đem lòng yêu thương một quốc gia kia, tham gia dính
líu
vào, rồi phát chán và thất vọng. Trong Người Mỹ trầm lặng những động cơ
cá nhân
được nối với những tấm gương soi chính trị hai mặt của họ. Ta hãy nghe
Fowler bình
luận về bức thư của người vợ trước. Bất kỳ khi nào mà có nói đến một ai
thì hãy
nghĩ đến một quốc gia:
Nào ai có thể trách
cứ nàng khi nàng
tìm ở tôi những vết
sẹo? Khi chúng ta không hạnh phúc, chúng ta xúc phạm nhau. Xúc phạm là
một hành
vi chiếm đoạt: phần hồn và phần xác của ta quá nhỏ nhoi để có thể chiếm
đoạt
nhau mà không cần hãnh diện hoặc bị chiếm đoạt mà chẳng thấy bị làm
nhục. Điều
không may là kẻ vô tội thường lại hay bị dính líu vào các cuộc xung
đột. Khắp
nơi nơi luôn luôn có tiếng khóc thương từ một tòa tháp nào đó. Tôi
nghĩ,
"Anh thấy kiêu hãnh đến đâu khi thấy mình thoát được sự trói buộc, cái
anh
phóng viên ấy, chứ không phải anh nhà văn-lãnh tụ, và anh đã để lại sau
vũ đài
biết bao điều lộn xộn bẩn thỉu. Còn có một kiểu chiến tranh khác nữa vô
tội hơn
thế nhiều. Dùng súng cối con người gây ít thiệt hại hơn thế."
Bề dày chính trị cá
nhân của Greene
tác động không theo cách
san bằng tính phức tạp của các mối quan hệ mà bằng cách khéo léo thừa
nhận
những mối liên quan và moi chúng ra. Tình yêu một quốc gia và tình yêu
một
người đàn bà nước ấy được diễn đạt một cách chân thực như là những hiện
tượng
liên quan đến nhau (khi hỏi Greene vì sao ông sang Việt Nam,
ông đáp
rằng "Có phần nào là do đàn bà ở đây đẹp - đẹp đến lạ lùng.") Cùng
lúc cũng có cái ước vọng bắt ta chiếm được cả hai, cả sự tự do của
những người
ta yêu và cả sự khuất phục của họ theo những gì ta thích, điều này được
thấy cả
trong trường hợp mối quan hệ mâu thuẫn của Pyle với Phượng và với cái
đất nước
nơi cô sinh ra. Ta thấy những điều đó diễn ra như trong tấm gương khi
Greene tỏ
ra không chỉ như một người khéo dùng dao để chặt mà còn tỏ ra tài khéo
hơn vô
khối nhà tiểu thuyết người Anh.
Trong cuộc tình tay
ba mang tính biểu
trưng này, đương nhiên
là trong chừng mực nào đó Phượng đại diện cho Việt Nam,
nhưng con người cô cũng hiện
diện theo cung cách rất riêng. Phượng là cô gái mặc đồ trắng nhảy đẹp
hơn Pyle,
cô nằm cuộn tròn trên giường đọc sách về công nương Anne. Cô cho anh
những lời
khuyên. Ta có cảm giác rằng khi nào Greene không hiểu hết về cuộc đời
Phượng
hoặc không thể tưởng tượng ra gì nữa thì ông đành không miêu tả gì hết.
Kết quả
là Phượng tự do bồng bềnh thoát xác; cô có cuộc đời riêng không gì chạm
đến
được ở phố Catinat - mua khăn lụa, uống kem sữa - Phượng nằm ngoài tầm
con mắt
Fowler muốn mô tả nàng, và thế là nàng cũng khước từ nốt cái yêu cầu
thấp kém
và tự nhiên của người đọc muốn cô tiêu biểu cho cả đất nước mình.
Chúng ta cảm nhận
được một người đàn
bà có thực đang thở,
chứ không phải một ý niệm về người đàn bà Pyle định bụng cướp mất khỏi
tay
Fowler. Một phần cuộc chiến của Fowler là để bảo vệ cái chất em Phượng
kia cho
khỏi thành cô Phượng cứng quèo vì những lời hoa mỹ của Pyle. Phần nào
thì
Fowler thành công trong việc đó. Có những lúc Fowler có đủ ý thức để
chợt thấy
rằng việc anh bênh vực Phượng chống lại những điều Pyle nghĩ về nàng
khiến anh
thấy chính mình lố bịch. Thực ra thì những lời anh tự bình luận theo
ngôi thứ
nhất thường khi giúp anh tránh được nguy cơ thực dân lố bịch hơn là
những lời
bình của chính Greene khi cuốn tiểu thuyết dường như tụt xuống cách kể
chung
chung hơn bằng ngôi thứ ba: "Vì tiếng nói cũng có sắc màu đấy, tiếng
nói
màu vàng cất tiếng hát, còn tiếng nói màu đen òng ọc súc miệng trong
khi tiếng
nói màu trắng thì chỉ biết nói thôi."
Cần lưu ý rằng những
chấm đen ý thức
hệ kiểu đó trước hết là
những thất bại trong sáng tạo nghệ thuật. Hẳn là ta cần một bước nhảy
tưởng
tượng xa hơn và đầy đủ hơn về phía Greene để nhận rõ Fowler giống
Phượng ra
sao. Song những sai sót như vậy không nhiều. Bất kể Fowler ra sao, đây
vẫn là
một tác phẩm dấn thân cao độ về chính trị. Sự mổ xẻ tính chất ngây thơ
chính
trị trong con người Pyle dường như mỗi năm qua đi kể từ khi sách xuất
bản lại
có tiếng vang mạnh hơn:
Ơn Chúa, tôi hy vọng
rằng anh biết rõ
anh đang làm gì ở đây.
Chao ôi, tôi biết động cơ của anh là tốt, bao giờ cũng ... Đôi lúc tôi
mong sao
anh có đôi chút động cơ xấu, khi ấy anh có thể sẽ hiểu thêm chút gì về
con
người. Và điều đó cũng áp dụng cho cả cái đất nước nhà anh nữa đấy Pyle
ạ.
Nhưng người Mỹ trầm
lặng chẳng học
được gì. Đến kỳ cùng thì
anh vẫn cả quyết rằng niềm tin quan trọng hơn hòa bình, ý tưởng có sức
sống
mạnh mẽ hơn con người. Sự ngây thơ của anh ta đối với cái thế giới này
là một
kiểu cực đoan tín ngưỡng: anh ta tin tưởng rằng thế nào cũng phải có
niềm tin.
Bất biết niềm tin gì. Bất biết đúng sai.
Đọc lại cuốn tiểu
thuyết càng củng cố
cho nỗi lo của tôi đối
với những kiểu người như Pyle trên thế giới. Bọn họ không định hại
chúng ta,
nhưng họ đã làm. Bằng cách nhấn mạnh vào tính chất chân xác của những
cái chết
được Pyle coi như thuần túy mang tính tượng trưng, Greene đã cho phép
một con
người yếm thế kiểu như Fowler trở thành kẻ vô địch tuyên ngôn ý nghĩa
sự sống,
và đó là thành tựu lớn của tác giả. Chí ít thì Fowler cũng đủ lý tưởng
để tin
rằng trên trái đất này chẳng có một ý tưởng nào đáng để anh chết vì nó.
Khi
Pyle tra hỏi Fowler rằng anh có niềm tin không và anh tin vào cái gì,
thì anh
ta nói "Ôi, tôi đâu có là người (duy tâm chủ quan - ND) như Berkeley.
Tôi
tin rằng tôi đang tựa lưng vào bức tường này. Tôi tin rằng có khẩu tiểu
liên
nhăm nhăm đâu đó." Pyle nói lại, "Tôi không định hỏi điều đó."
Đó chính là tinh thần
Graham Greene
trong Người Mỹ trầm
lặng. Cái niềm hy vọng ông đem lại cho ta là kiểu hy vọng mà chỉ những
ai quan
sát cận cảnh mới có. Ông bảo vệ chúng ta bằng những chi tiết, và các
chi tiết
tiến hành cuộc chiến tử tế chống lại những ý tưởng to tát, mơ hồ, vô
nhân tựa
như những ý tưởng của Pyle. Đã có quá nhiều thời gian trôi qua để bảo
vệ Greene
khỏi cái vị báo chí trong tác phẩm của ông, chúng ta nên nghĩ về ông
rằng ông
chính là nhà báo vĩ đại nhất ta chưa từng gặp. Nếu như có nhiều hơn nữa
các nhà
báo có tài kể chuyện như Greene đem được lại cho chúng ta những vụ nổ
ngoài
quảng trường, thì liệu chúng ta còn có thể tha thứ bao lâu nữa những
cuộc chiến
tranh chúng ta đang tiến hành?
Với Greene, cái Ác
nằm trong những chi
tiết, nhưng sự cứu
rỗi cũng ở đó. Sự bồi đắp dần cái chi tiết thường nhật được diễn đạt
hết sức
khéo léo khiến cho chúng ta cảm thấy mình người hơn, đẩy lùi những chất
thống
kê đi, rung chuông kéo chúng ta về với chính mình. Có bao nhiêu nhà báo
đủ sức
viết phóng sự - hoặc cái gì khác nữa - như vậy?
... anh ta mỉm cười
rạng rỡ, dễ
thương, nụ cười đầy hiệu
quả, một nụ cười mỉm ngắn gọn nhà binh ... tiếng súng vang vọng đi như
kim đồng
hồ chạy quanh phía chân trời. "Anh dùng một chén trà nhé?". "Cám
ơn, tôi đã uống ba chén rồi." Tưởng chừng như thể câu hỏi và câu đáp
trong
một cuốn sách dạy nói thành câu. Tôi thường được đọc về những ý nghĩ
của con
người khi họ sợ hãi: nghĩ về Chúa, về gia đình hoặc về một người đàn
bà. Tôi
cảm phục sự điềm tĩnh của họ. Còn tôi thì chẳng nghĩ ngợi gì, ngay cả
cái cửa
sập trên đầu mình, trong mấy giây đó, tôi ngừng tồn tại, một nỗi sợ
hoàn toàn.
Lên đến đầu bậc thang tôi bị cộc đầu, vì sợ nên không đếm được các
bước, không
nghe thấy gì, hoặc không nhìn thấy gì. Sau đó đầu tôi nhô lên khỏi mặt
đất và
chẳng một ai bắn vào tôi hết, và nỗi sợ tan biến dần.
Khi Greene mất vào
năm 1991, Kingsley
Amis - một con người
không sinh ra để có những đánh giá rộng bụng đối với các bạn cùng trang
lứa - đã
viết cho nhà tiểu thuyết mấy lời cáo phó ngắn gọn, vừa đủ: "Ông sẽ được
toàn cầu tưởng nhớ. Cho đến tận hôm nay, ông vẫn là nhà tiểu thuyết vĩ
đại nhất
của chúng ta." Cách nhìn của Amis và của Greene về một nhà tiểu thuyết
vĩ
đại khác nhau theo quan niệm này: đó là công việc của một con người với
cây
bút. Một con người không kiêu căng sống trên đời này và thuộc về cuộc
đời này,
người đó viết cho bạn đọc chứ không viết cho các nhà phê bình và mỗi
ngày viết
ra vô vàn từ hệt như một nhà báo vậy. Các nhà văn Anh ngày nay lao động
theo
những cơn co giật cả về lượng lẫn về chất, và họ mải mê phân biệt "viết
mua vui" với "viết văn chương" đến mức là cuối cùng thì họ chẳng
viết gì nữa. Đây là một trong vài ba cách phân biệt Greene không bó
mình vào.
Phóng sự biến thành tiểu thuyết biến thành phim; từ các tư liệu riêng
như cuốn
nhật ký mộng mơ, ông có được vô vàn truyện ngắn. Đôi khi thậm chí ông
còn mơ
tưởng đến trật tự này: bữa kia giữa chừng một tiểu thuyết thì ông bí,
ông đi
nằm và ngủ mơ đến chuyện kia, rồi sáng hôm sau ông thức dậy với đầy đủ
mọi điều
cho công việc trôi chảy. "Cuốn sách ngập ngừng không chịu ra... giấc mơ
đến và hình như vừa khớp."
Nhà văn nào thì cũng
mong tưởng tượng
ra một lực hút đẩy
không cưỡng nổi - Greene thì không khi nào để tuột một câu chuyện, ông
bị chết
đuối trong mớ chuyện ấy. Ông đã nói câu nổi tiếng rằng thời thơ ấu là
lúc cân
bằng thu chi cho nhà tiểu thuyết, và thời thơ ấu của Greene - cảnh khốn
cùng
của trường công lập, những cuộc tranh giành quyền lực với người cha làm
hiệu
trưởng, sự cám dỗ thời thiếu niên của bà vợ chính ông thầy thuốc tâm
thần của
mình, những lần ve vãn với chứng điên và với Chúa - song ông không khi
nào,
không bao giờ mang công mắc nợ. Có vô số người kể chuyện trong nền văn
học Anh,
nhưng điều hiếm có ở Greene ấy là cách ông dùng một cách kiềm chế vô
vàn tài
liệu phong phú trong tay. Chắc chắn ta có thể hình dung rằng không một
ai đủ
sức dệt những sợi rắc rối của xứ Đông Dương bị chiến tranh tàn phá
thành một
cuốn tiểu thuyết đọc một mạch, thành một khối có chủ đề rõ rệt và thú
vị hấp
dẫn như cuốn Người Mỹ trầm lặng.
Tiểu luận này của
Zadie Smith được bà
dùng làm lời giới
thiệu tiểu thuyết Người Mỹ trầm lặng xuất bản nhân dịp một trăm năm
sinh Graham
Greene, sẽ do nhà Vintage cho ra mắt ngày 7 tháng Mười.
© 2004 talawas
Nguồn: Báo The
Guardian, thứ bảy 18
tháng Chín 2004,
http://books.guardian.co.uk/review/story/0,12084,1306236,00.html
Shades of Greene
Graham Greene, whose centenary is next
month, was a more
ethically complex novelist than is usually remembered, argues Zadie
Smith. The
Quiet American, his love story set in the chaos of 1950s Vietnam,
shows
him to be the greatest journalist there ever was
Saturday September 18, 2004
The Guardian
"I had to find a
religion," said Graham Greene,
"to measure my evil against." This puts Greene the "Catholic
novelist" (a description he detested) into correct perspective: before
he
chose Christ as his highest value, he was first a man obsessed with
scale
itself. No 20th-century writer had a subtler mind for human comparison.
Where
lesser novelists deploy broad strokes to separate good guy from bad,
Greene was
the master of the multiple distinction: the thin lines that separate
evil from
cruelty from unkindness from malevolent stupidity. His people exist
within a
meticulously calibrated moral system. They fail by degrees. And so
there is no
real way to be good in Greene, there are simply a million ways to be
more or
less bad.
This detailed ethical
realism is an aspect of Greene often
neglected in favour of the more baroque aspects of his oeuvre - the
forthright
sexuality, the wanderlust, the journalistic reportage - traits which
seem to
place him securely amongst the company of his fellow adventurers:
Erskine
Childers, Len Deighton, Alec Waugh, John Le Carré. Certainly Greene was
always
a writer interested in thrill - as a teenager he played Russian
roulette of the
deadly, non-metaphorical kind. Still, it's sometimes good to remind
oneself of
the fact that upon Greene's own book shelves Henry James reigned.
Whatever else
he was, Greene was a literary double agent, and some of the depth of
his work
is revealed when we reinscribe Henry James (rather than, say, his
childhood
hero H Rider Haggard) as his central antecedent. In Greene's novels, as
with
James's, all the vicissitudes of human personality are brought to the
table for
dissection.
Distinctions of character that we
fondly imagine concrete,
upon which we define ourselves ("But I am kind, where he is only
cynical"), are revealed to hold little currency in the face of the
human
extremities: war, death, loss and love. "Human nature is not black and
white but black and grey." Greene is not the first novelist to note it,
but his grey was marvellously various.
Into this grey area
we must place the shady triad of The
Quiet American: the honest venality of Phuong, the disengagement of
Fowler, and
the innocence of Pyle. Isn't it a brilliantly constructed novel? It
reminds one
of the game jack straws, in which the aim is to take each stick in turn
without
disturbing the others. It is a masterful trick to balance these three
people
against each other - comparing and contrasting their cynicisms, their
hopes,
their personal failures - and yet weighting the situation in such a way
as to
never allow us to make that final, satisfying judgement upon their
characters
which would signal that the reader's work is done. Greene did not like
to
permit his readers this satisfaction: "When we are not sure, we are
alive."
In the case of The
Quiet American ethical ambivalence is
built into the very foundation of the novel. I spoke earlier of a
calibrated
moral system, and this reminds us of the careful, judicious James of
The
Europeans, but what a different job it is to place your people in a
battlefield
instead of a drawing room! You cannot be sure about anything on a
battlefield.
Greene was compulsively drawn to some of the messiest conflicts his
century had
seen, wars that people continued to fight long after the reasons to
fight them
had grown obscure.
His characters
radiate the ethical uncertainty and confusion
that comes from living a war-without-end. But despite this, in Vietnam
Phuong
and the foreign correspondent Fowler have found each other, a blessing
which
seems, to Fowler at least, as much as can be hoped for. Theirs is a
small ledge
between a rock and a hard place. "I'm a great believer in purgatory,"
said Greene in an interview, "Purgatory, to me, makes sense ... one
would
have a sense of movement. I can't believe in a heaven which is just
passive
bliss."
Into Fowler's
purgatory comes Pyle, who believes in Heaven.
He arrives armed with his grand narrative about Vietnam,
which he will force Vietnam
to fit, by hook or by crook. But he is not alone in clinging to
misleading,
self-serving stories in this novel. Pyle has his story about Fowler,
but Fowler
also has his own about Pyle (the dominant narrative of the book), a
story that
mistakenly casts him as more of a quiet American than he turns out to
be. Both
men have their equally distorting, unavoidably colonial, story about
Phuong.
None of these tales
is to be trusted; they are shot through
with personal need. Greene understood the selfish currents that run
through our
deepest motivations (he had been extensively psychoanalysed by a
Jungian when
he was still a young teenager) and he was unique in tracing the
progress of
these desires from their intimate microcosm (two people in love) to
their
geopolitical macrocosmic consequences. He knew one country could fall
for
another, get involved with it, grow tired of it and break its heart. In
The
Quiet American personal motivations are linked with their political
mirror
twins. Listen to Fowler's running commentary on his ex-wife's letter.
Wherever
there is a person mentioned, think of a country:
Who could blame her
for seeking my own scars in return? When
we are unhappy we hurt.The hurt is in the act of possession: we are too
small
in mind and body to possess another person without pride or to be
possessed
without humiliation. Unfortunately the innocent are always involved in
any
conflict. Always, everywhere, there is some voice crying from a tower.
I
thought, "How much you pride yourself on being dégagé, the reporter,
not
the leader-writer, and what a mess you make behind the scenes. The
other kind
of war is more innocent than this. One does less damage with a mortar."
Greene's
personal-political layers work not by flattening
the complexity of the relationships but by artfully recognising the
connections
and drawing them out. Love of a foreign country and love of its women
are
honestly expressed as related phenomena (when Greene was asked why he
came to Vietnam
he
answered "It was partly the beauty of the women - it was
extraordinary.") The simultaneous desire we all possess for both the
liberty of our lovers, and their submission to our will, applies
equally to
Pyle's contradictory relationship with Phuong and the country she was
born in.
These mirrored applications are where Greene showed himself not only
more than
a hack but also more skilled than many English novelists.
In this emblematic
love triangle Phuong is of course
representing Vietnam
to some extent, but she is still everywhere her idiosyncratic self. She
is the
girl in white dancing better than Pyle, she is curled up in bed reading
about
Princess Anne. She keeps her counsel. One feels that where Greene did
not know
enough of her life, or could not imagine, he resolved not to describe.
As a
result Phuong floats free of her symbolic weights; she has her own
inviolate
life in the rue Catinat - buying silk scarves, drinking milkshakes -
outside
the reach of Fowler's narrative eye, and thus denying the reader's base
and
natural request that she embody her entire country.
We sense a real,
breathing woman, not just the idea of a
woman that Pyle is trying to steal from Fowler. Part of Fowler's battle
is to
defend her essential Phuong-ness from Pyle's ossifying rhetoric. He is
only
partially successful at this. There are moments in which Fowler is
self-conscious enough to glimpse the fact that his protection of Phuong
against
Pyle's idea of her leads him into new caricatures of his own. In fact,
his
first-person commentary is often more alert to the dangers of colonial
caricature than Greene's own when the novel seems to fall into a more
generalised third person: '"For voices have a colour too, yellow voices
sing and black voices gargle, while ours just speak."
It is to be noted
that ideological blind spots like these
are first creative failures. It would have taken a further, fulfilling,
imaginative leap on Greene's part to conceive of what Fowler sounds
like to
Phuong. Such lapses are unusual, however. Despite Fowler, this is a
fiercely
politically engaged work. The dissection of political naiveté in the
person of
Pyle seems to gain in resonance with each year that has passed since
publication:
I hope to God you
know what you are doing here. Oh I know
your motives are good, they always are ... I wish sometimes you had a
few bad
motives, you might understand a little more about human beings. And
that
applies to your country too, Pyle.
But the quiet
American does not learn. To the end he remains
determined that belief is more important than peace, ideas more vital
than
people. His worldly innocence is a kind of fundamentalism: he believes
that
there must be belief. By hook. By crook.
Reading the novel
again reinforced my fear of all the Pyles
around the world. They do not mean to hurt us, but they do. Greene's
great
achievement is to allow a cynic like Fowler to champion the cause of
life by
insisting on the authenticity of those deaths Pyle considers to be
merely
symbolic. Fowler is at least idealistic enough to believe that there is
not an
idea on this earth worth killing for. When Pyle interrogates Fowler as
to what,
if anything he believes, he says "Oh, I'm not a Berkeleian. I believe
my
back's against this wall. I believe there's a Sten gun over there."
Pyle
replies, "I didn't mean that."
Greene's work does
mean exactly that. The hope he offers us
is of the kind that only close observers can give. He defends us with
details,
and the details fight the good fight against big, featureless,
impersonal ideas
like Pyle's. Too much time has been spent defending Greene against the
taint of
journalism; we should think of him instead as the greatest journalist
there
ever was. If more journalists could report as well as Greene bringing
us the
explosion in the square, how long could we retain the stomach to fight
the wars
we do?
The devil is in the
details for Greene, but redemption is
also there. The accretion of perfectly rendered, everyday detail makes
us feel
human, beats away the statisticians, tolls us back to ourselves. How
many
journalists can write reportage - or anything else - like this?
... he smiled
brightly, neatly, efficiently, a military
abbreviation of a smile ... the gunfire travelling like a clock-hand
around the
horizon. "Will you have a cup of tea?" "Thank you, I have had
three cups already." It sounded like a question and answer in a phrase
book. I have read so often of people's thoughts in the moment of fear:
of God,
or family, or a woman. I admire their control. I thought of nothing,
not even
of the trap-door above me: I ceased, for those seconds, to exist: I was
fear
taken neat. At the top of the ladder I banged my head because fear
couldn't
count steps, hear, or see. Then my head came over the earth floor and
nobody
shot at me and fear seeped away.
When Greene died in
1991, Kingsley Amis - a man not given to
generous estimations of his peers - gave him a neat, fitting obituary:
"He
will be missed all over the world. Until today, he was our greatest
living
novelist." Amis's and Greene's vision of a great novelist was different
from the present conception: it was of a working man with a pen. An
unpretentious man, in and of the world, who wrote for readers and not
critics,
and produced as many words per day as a journalist. English writers
these days
work in spasms, both in quantity and quality, and so keen are they to
separate
"entertainments" from "literature" that they end up writing
neither. This was one of the few distinctions Greene did not concern
himself
with. Reportage turned to novel turned to film; he got several short
stories
from the material he found in his own dream diary. He even occasionally
dreamt
to order: finding himself stuck in the middle of a novel one day, he
went to
bed and slept on the problem, waking up in the morning fully furnished
with the
solution. "The book was hesitating ... the dream came and seemed to
fit."
Any writer would envy
an imagination of such irresistible
contrapuntal thrust - he never lacked a story, he was drowning in them.
He
famously said that childhood is the credit balance of the novelist, and
Greene's childhood - the misery of his public school, the power
struggles with
his headmaster father, the teenage seduction of his own psychiatrist's
wife,
the flirtations with madness and God - well, he was never, ever going
to be in
the red. There are many natural storytellers in English literature, but
what
was rare about Greene was the control he wielded over his abundant
material.
Certainly one can imagine nobody who could better weave the complicated
threads
of war-torn Indochina into a novel as
linear,
as thematically compact and as enjoyable as The Quiet American.
© Zadie Smith, 2004
· This essay by Zadie
Smith is her introduction to a new
centenary edition of The Quiet American by Graham Greene which will be
published by Vintage on October 7. To order a copy for £6.99 with free
p&p
call Guardian book service on 0870 836 0875.