Lê Minh Hà
Gió
tự
thời khuất mặt
2
12.
Rất lạ lùng, đấy
lại là những ngày mà Vĩnh và
Ngân thân nhau hơn. Có lẽ giữa họ không hẳn là tình bạn nữa. Giữa bạn
bè, dù
thân thiết bao nhiêu cũng khó có niềm tin cậy ấy như niềm tin cậy mà
Vĩnh và
Ngân độ ấy cảm thấy ở nhau. Niềm tin cho phép người ta bộc lộ cõi sâu
kín, yếu
đuối nhất của mình mà không e ngại. Đấy là điều mà Ngân đã được nhận từ
Vĩnh
vào những ngày tháng đó. Nhưng đấy không phải là lý do để Ngân không ác
cảm với
ông bố của bạn. Điều ấy thật không bình thường. Nhưng đúng là như thế.
Ngân
không thấy căm giận ông ta. Khinh? Có lẽ! Nhưng mà không căm giận. Mặc
dù nỗi
cay cực của bố Ngân biết rõ và không bao giờ quên. Nhưng với Ngân, đó
là quá
khứ của ông. Một cách vô thức, Ngân đã chối từ nghĩa vụ gồng gánh dĩ
vãng, gồng
gánh tự hào và đau khổ của thế hệ đã sinh thành ra mình. Một cách vô
thức, Ngân
đã hiểu ra khả năng nhiễm độc trong hương vị dịu dàng đắng cay của quá
khứ. Và
bởi thế Ngân đã hành xử rất nhẹ nhàng với người cha của bạn. Nếu tự tin
hơn và
nhẹ dạ hơn, hay nếu căm giận, có lẽ Ngân đã không thể tự bảo vệ mình,
có lẽ đã
rơi vào cái bẫy của mình trong ý muốn trả thù cho cuộc đời bố mẹ, trả
thù cho
cuộc đời không được sống mà mình thực ra cũng không biết sẽ như thế nào.
Nhiều năm sau
này, không gặp lại Vĩnh nữa,
nhưng khi nhớ về người bạn cũ đã cho mình bao nhiêu tin cậy và âu yếm,
và có
lẽ, đã có thể cho mình cả yên ấm theo một nghĩa nào đó, Ngân lại nhớ
tới buổi
chiều ấy. Ông bố Vĩnh lại diễn đúng vở cũ, nửa thân tình nửa sàm sỡ,
Ngân xoay
người, lách ra khỏi vòng tay ông, nói rất nhẹ nhàng:
- Bác Mạc!
Hệt như
nghe ống nứa nổ trong rừng cháy,
người đàn ông ngả tấm thân bệ vệ về phía sau, môi giật giật:
- Sao...
sao Ngân biết cái tên đó? Cháu...
cháu là ai?
- Là bạn
Vĩnh con bác, bác biết rồi mà. Vĩnh
rủ cháu đi xem vở 'Tôi và Chúng ta'. Ồn ào ghê lắm, chắc bác cũng xem
rồi? Cháu
cứ khất Vĩnh mãi. Nhưng mà... Vĩnh về thì bác bảo Vĩnh cháu chờ Vĩnh
tối nay
lúc bảy giờ nhé.
'Bình
tĩnh! Bình tĩnh'. Ngân đi về phía cửa,
hít thật mạnh và giữ hơi lại trong khoang bụng, đầu âm âm lời tự nhắc
mình. Nếu
Ngân quay đầu, cô sẽ thấy người đàn ông béo tốt giờ bệch bạc ngồi chảy
ra trong
lòng ghế. Đã từ lâu lắm rồi, ở quanh ông không còn là những người anh
người em
thuở ấy. Đã từ lâu lắm rồi, ông không còn nghe ai gọi mình bằng cái tên
ấy. Cơn
gió nồm nam thốc vào phòng làm ông rợn cả người, như cái lúc nhớ lại
trận lũ
rừng trên đường công tác năm xưa, như cái lúc hồi tưởng giây phút quăng
mình
qua bờ đê tránh hỏa lực phục kích của địch một đêm đột nhập làng tề,
như cái
lúc từ trên ban công đang săm soi giàn hoa cẩm tú thì bất chợt thấy
người đàn
bà điên cùng phố... Cô gái này không điên.
Ông hoàn toàn
mất bình tĩnh. Bà vợ đi làm về
gặp cô gái ngoài cổng đã thấy chồng trong bộ dạng thảm não đó. Bà không
thể có
thêm một phỏng đoán nào ngoài phỏng đoán kinh khủng ấy, vì ông chồng
không thể
giải thích điều gì. Trong nỗi căm giận chính đáng nhiều năm của mình,
liệu bà
có thể hiểu được nỗi bất an cứ phình lên nóng rực ruột gan ông? Và ngay
cả có
biết rằng đêm ấy, khi thằng con trai ông đạp xe trên phố mưa, gọi tên
cô gái
trong mưa, cô gái sẽ nằm mở mắt, khóc, lặng lẽ, biết rằng mình sẽ không
bao giờ
còn tìm gặp lại Vĩnh, sẽ không bao giờ còn rong ruổi cùng người con
trai vô tư
và dễ mến những chiều chiều, chắc là ông cũng vẫn không thể yên tâm.
*.
- Giá có thể lại
trẻ bằng khi đó, Vĩnh sẽ xin
lỗi Ngân cách khác. Có thể Ngân vẫn không chịu, vẫn đi lấy chồng, nhưng
giữa
chúng mình sẽ không phải là mười mấy năm yên lặng như thế này.
- Nói thế
làm gì Vĩnh. Dù thế nào thì Vĩnh
cũng thừa biết bọn mình không thể lấy nhau cơ mà. Cái tính Ngân... là
bạn thì
có thể chứ làm vợ thì Vĩnh chắc chịu chả nổi ba bảy hăm mốt ngày đâu.
Vĩnh ân
hận ư? Bọn mình có thể xin lỗi thay cho các cụ được không? Ngày xưa,
Ngân cũng
choáng váng khi biết những điều không nên biết của các cụ. Nhưng bây
giờ, khi
đã là đàn bà, đã không thể nào ngờ nghệch lại, Ngân hiểu rằng mọi sự
đều có
thể, xấu hay tốt, ở bất kì ai, đều có thể.
*.
Dù người đàn bà
nói thế, người đàn ông vẫn
không thể nào quên được câu chuyện bà mẹ ép nghe vào buổi sáng chủ nhật
kinh
khủng ấy. Ông bố đã đi câu lạc bộ chơi tennis. Bà giúp việc nghỉ làm.
Ông anh
vào trường. Chỉ có hai mẹ con. Vĩnh ngồi bất động, chú mục vào giò
phong lan
treo ngoài gió sớm vừa nở lần đầu. Trời u ám và cái màu vàng cam ấy sao
mà lộng
lẫy. Vĩnh đã không thể nói gì, nhưng Vĩnh biết mình ước ao gì. Vĩnh
hoàn toàn
khác thường vào buổi tối khi đến trung tâm ngoại ngữ chờ Ngân. Và Vĩnh
đã xin
lỗi, đã ngỏ lời. Và lại thêm một lần choáng váng bởi câu chuyện về gia
đình
bạn. Không có hân hoan đêm mưa hôm nào. Điềm đạm và buồn bã. Cả hai
người đều
điềm đạm và buồn bã. Y như bây giờ. Hồi ức chung làm họ hiểu rằng ngay
từ khi
ấy mình sẽ chẳng còn bao giờ trẻ nữa...
- Ngân
biết không, hôm ba Vĩnh mất, Vĩnh có
thấy Ngân và... cả bác.
- Ngân đưa bố đến cùng chú Thái. Ngân cứ nghĩ
Ngân
không đi cùng lớp mình
thì Vĩnh chưa chắc nhớ. Hôm đó phòng tang lễ sao mà đông. Mà Ngân và cả
hai cụ
thì đều không ghi gì vào sổ tang.
- Vĩnh cứ
ngạc nhiên...
- Sao lại
ngạc nhiên? Sau nay bố Ngân và chú
Thái hay nhắc ba Vĩnh những ngày còn ở Việt Bắc. Các cụ bảo ba Vĩnh
ngày ấy
sống hay lắm. Vĩnh đừng nhớ những chuyện ấy làm gì nữa. Dù sao bác cũng
nằm
xuống rồi. Mà Ngân phải nói ngay với Vĩnh rằng chính ba Vĩnh đã dạy
Ngân nhiều
điều. Không biết bác, chưa chắc Ngân như ngày hôm nay để Vĩnh còn muốn
gặp lại.
Nhờ bác mà Ngân hiểu ra rằng sớm muộn gì thì người ta cũng phải một lần
đối
diện mình, nhận chịu trách nhiệm của mình. Và...nói thật đừng bực nhé,
Ngân
thấy cái trò ăn năn hộ của Vĩnh cải lương ghê lắm. Cứ biết chịu cho đủ
trách
nhiệm của mình hôm nay đã. Thế chưa đủ nhọc sao? Chuyện các cụ để các
cụ tự xử
lí. Ngẫm cho cùng cũng tại các cụ cả. Các cụ đùng đùng chạy theo nhau.
Đã trung
thành với tổ chức thì đừng nói chuyện trung thành với nhau. Không thể
có những
thước đo khác cho những thời điểm khác trong đời người. Ba Vĩnh chỉ làm
những
gì mà ngày ấy người ta cho là... cho là... nếu chưa đúng thì cũng chẳng
có gì
ghê gớm. Còn việc giữa bác với Ngân sau này, Vĩnh phải nhìn như giữa
bác với
một người đàn bà bất kì. Cái chính không phải là bác, mà là người đàn
bà kia
làm gì. Ngân đã học được ở các cụ nhiều điều...
Bài
học đắng cay. Cả hai người hiểu rất rõ
rằng nói vậy thôi, dĩ vãng còn nguyên đó. Ám ảnh họ. Đeo đẳng họ. Đời
sống nếu
đẹp thì hình như luôn đẹp trong cái vẻ u ám này. Nhưng thật ra đời sống
nhiều
khi chỉ tức cười và buồn rầu một cách phi lí.
Sao ta không gặp nhau muộn hơn
Những xáo trộn trong đời thành dĩ vãng
Ta biết quý những gì yêu dấu
Không bao giờ ta chia tay em
Sao ta không gặp nhau sớm hơn
Lơ ngơ chưa biết tiếc điều gì
Đã không cháy đốm lửa muôn đời ấy
Không tro tàn bỏng rát mấy mươi năm
Sao ta không tìm nhau ngày sau
13.
Chẳng hạn như
trò chơi vợ chồng. Đúng hơn thì phải nói là một vở kịch nhạt mà kì cục.
Cái hồi đó kì
cục thật. Khu tập thể trông thật đẹp. Ba khối nhà cao tầng quây lấy
nhau. Giữa
là nhà trẻ xây theo lối nhà nghỉ công đoàn ở Đồ Sơn Sầm Sơn gì đó, có
hành lang
bao quanh và đấy là nơi tụ tập của bọn trẻ con những buổi trưa mùa hè
mất điện.
Trước nhà trẻ là vườn hoa. Có lẽ chỉ có thế hệ Ngân là biết ngày xưa
khu tập
thể còn có một vườn hoa. Đúng là kiểu mẫu. Chỉ còn thiếu mấy cái xe đẩy
trẻ con
và mấy bà béo mặc váy hình cái nơm ngồi trên những chiếc ghế gỗ kê dọc
lối đi
là giống như cảnh thường thấy trên các tấm bưu thiếp của Liên xô. Nhưng
đằng
sau những cánh cửa kia là cả một sự nhem nhuốc và lạ lùng là dường như
không
một ai thấy bất thường. Hai gia đình được chia chung một phòng còn tự
cho mình
may mắn. Giường kê lênh khênh trên mấy viên gạch cho cao và tất cả nồi
niêu
xoong chậu tống hết xuống gầm. Một cái tủ gỗ tạp và cái xe đạp dựng kề.
Đấy là
tất cả cõi riêng của những cặp vợ chồng son rỗi khi đó, tách biệt nhau
bằng một
tấm vải hoa loè loẹt theo thời gian màu sắc cứ xỉu dần đi. Bọn trẻ con
thì
thích ở chung lắm. Nhưng bọn lớn hơn một chút thì lại có thú khác. Buổi
trưa
ấy, theo lời hẹn, cả lũ không tụ tập dưới hành lang nhà trẻ mà dồn về
nhà thằng
Phái. Căn phòng lớn đầu hồi mà khi thiết kế người ta tính dành để làm
nơi cho
mọi người tụ bạ, đọc sách chơi đàn đánh bóng bàn hay nói nhăng giờ mới
được
chia đôi. Nhà thằng Phái chiếm một nửa. Nửa căn kia thuộc hai nhà, nhà
bác Miến
già không con và nhà chú Tưởng cô Hoa mới cưới. Hai căn được phân cách
bằng tấm
gỗ dán dựng cao quá đầu, nhìn lên thấy toàn những bao những gói chăn
màn. Thằng
Phái đã dùi một lỗ nhỏ trên bức tường gỗ từ bao giờ và bây giờ nó hào
phóng cho
cả bọn xếp hàng ghé mắt nhòm, sau khi đã dặn dò cảnh cáo cả bọn suốt
mấy ngày
trước đó là phải trật tự như khi kiểm tra một tiết. Cái lỗ bé hơn đầu
đinh hóa
ra nhìn thẳng qua giường chú Tưởng cô Hoa. Nhà bác Miến đi đâu không
rõ. Cứ
thấy cô chú vật lộn, lăn bên nọ lăn bên kia, lúc mất tích đâu ở góc
tường, lúc
chình ình hiện ra nồng nỗng trông ghê không chịu được. Hết phần nhòm
ngó, Ngân
kéo tay con Hằng An nhà cô Tam lủi một mạch. Cái cảnh vừa nhìn thấy làm
nó
chóng mặt, buồn nôn, nhưng những tiếng động vừa lọt vào tai lại bắt
buộc nó
hình dung ra một cảnh khác mà nó đã suýt phải chứng kiến khi còn bé hơn
thế
này, khi còn đi sơ tán. Hồi ấy nó thân với chị Thục nhà ông Lẫm lắm.
Chị là cô
gái duy nhất trong làng học hết cấp ba và là kho sách của Ngân, cũng là
người
duy nhất được bà tin cậy gửi Ngân những khi ngoài bãi có hát chèo hay
chiếu
bóng. Ngân hay qua nhà chị theo lỗ chó chui ở chân rào, rồi tọt thẳng
vào buồng
chị. Buồng chị Thục không giống buồng các cô gái khác trong làng, không
chăng
sào để vắt quần áo, không chồng chất hũ lọ thúng mủng giần sàng, sát
cửa sổ lại
còn cây khế lá lúc nào cũng nõn nà xanh làm cho nắng cứ xôn xao. Buổi
trưa,
trời oi bức. Các chú bộ đội đóng quân trong làng không thấy đi lệu rệu.
Ông bà
Lẫm đi thăm con làm ở nông trường An Khánh tận ngoài Hà Đông. Ngân vừa
tới sát
gốc cây khế thì giật mình. Cũng những tiếng động kì quái như tiếng động
Ngân
vừa nghe qua bức vách nhà thằng Phái. Sợ bủn rủn chân tay. Con bé lủi
ra đầu
hồi nín thở nghe ngóng tiếp. Cho tới khi có tiếng kẹt cửa nhẹ như một
tiếng
guốc võng chao nghiêng. Người vừa bước ra đi tắt qua vườn ngay chỗ đầu
hồi Ngân
đứng là chú đại đội trưởng đơn vị bộ đội đóng quân trong làng. Chú sẽ
cùng đơn
vị ra đi chỉ sau đó ít ngày. Cũng chỉ ít ngày sau, Ngân đã vô tình nhìn
thấy
chị Thục đi giặt, lúc nó nằm sấp trên cây sung còng bên dốc bến. Bến
vắng.
Quanh chỗ chị Thục dầm chân, những vòng sóng đỏ lan ra, nhạt dần, trôi
đi. Chị
Thục đứng thẳng lưng, nâng cái nón đựng mớ đồ ướt, mắt lấp lánh một
niềm vui
chưa bao giờ Ngân thấy.
Phải rất
nhiều năm sau này Ngân mới thoát được cảm giác ghê ghê lờm lợm khi chợt
nhớ lại
cảnh ấy. Phải rất nhiều năm sau này Ngân mới hiểu ra nỗi đau khổ và khả
năng
chịu đựng quá sức người của con người thời bấy giờ. Ngày đó, người ta
sống hay
chỉ đơn giản là hiện diện? Thật khó trả lời. Mà đặt câu hỏi như thế
hình như là
bất nhẫn. Cũng không ai được quyền tách khỏi đời sống đó để mà kinh
ngạc hay
xót thương. Không coi tất cả là bình thường, chết chóc, thiếu đói, cấm
đoán, cả
nhục nhã nữa là bình thường, làm sao người ta sống?
Dù thế, hồi ức
vẫn chi phối Ngân mà Ngân không tự biết. Từ chối một bến bờ yên ấm là
Vĩnh,
Ngân lại chọn cho mình một nơi yên ấm khác, hoàn toàn bất ngờ với bạn
bè. Khi
không thể hết mình vì tình yêu mình mong có thì sống thế nào chả được.
Vậy thì
sao không sống cho đàng hoàng?
Cuộc sống đàng
hoàng ấy thật là nhờ nhệch, làm xộc xệch mọi cảm giác của Ngân. Phải vì
thế mà
trong lòng người đàn bà trẻ con này cứ thảng thốt mãi tiếng rống gọi
trở về của
tháng ngày thiết tha buồn khổ. Cảm giác về những ngày ấy từ nhịp sống
bây giờ
tưởng chừng có thể làm tất cả trong trẻo lại. Ngân đã tự mình thấm
thía, năm
từng năm, khi trên phố lại mơ hồ mùi hương của những gánh hoa loa kèn
bán sớm,
khi một trưa bất chợt gặp màu bằng lăng tím dại dột trong mưa làm thanh
thoát
lại cái khoảng phố Thợ Nhuộm khô cằn, khi ngoài ngõ một sớm kia tự dưng
quang
quẻ hẳn vì cây đa thay lá mới. Bao giờ cũng là những hồi ức buồn thảm
thức dậy
cùng những hương và sắc ấy. Lung linh nhất và mơ hồ nhất trong nỗi nhớ
nhọc
nhằn luôn luôn là mẹ. Mẹ, và những giờ phút cuối ...
Những câu thơ
buồn và lạnh
Mang theo
suốt cuộc hành trình
Tôi sưởi ấm lòng mình
Bằng những
câu thơ buồn và lạnh
*
Không bao
giờ, không bao giờ còn ra quả nữa
Nhưng những
cuối mùa
Quanh gốc,
rụng toàn cuống hoa
Gửi
một cây anh đào cùng
tuổi
14.
'Con mang trên
vai tuổi con gái chòng chành -
con không được như các bạn của mình - khi mỏi nghiêng về bên mẹ...'
Ngân đã viết
như thế ở trang cuối của một cuốn vở, giữa một tiết học cuối năm, khi
các bạn
trong lớp dấm dúi chuyền tay nhau cuốn sổ lưu niệm để mơ màng nhắm mắt
trước
khi hạ bút vạch một chữ kí lãng mạn, với cái đuôi loằng ngoằng hướng
tới tương
lai. Đấy sẽ là cuốn vở duy nhất Ngân giữ lại nhiều năm sau khi đã rời
trường
phổ thông và đại học. Cuốn vở chỉ nguệch ngoạc đôi công thức toán và
dòng chữ
đó, trang cuối cùng. Nó nhắc Ngân nhớ tới nỗi cô độc bất thường của
mình, không
hẳn chỉ vì mồ côi mẹ sớm đến thế.
*.
Nhiều năm sau
này, khi đã là một người đàn bà
từng trải nhiều mà vẫn không dạn dày, những dòng chữ viết trong buổi
sáng hè
rời rợi gió đó sẽ làm Ngân sợ hãi khi nghĩ về đời sống. Ngân nhớ mẹ đã
ra đi
vào tuổi Ngân bây giờ, mà chưa từng có một khoảng thời gian nào thật sự
yên
bình, nói gì hạnh phúc. Chỉ ở tuổi này, Ngân mới thấu hết nỗi đau của
một đứa
con mồ côi, chỉ thấu, khi hiểu ra nỗi đau đớn kiệt cùng của mẹ những
ngày tháng
đó, khi mẹ biết mình sắp chết, mà con mình còn nhỏ dại thế kia. Dẫu đã
hết đạn
bom. Nhưng đã bắt đầu lẩn khuất đâu đó khó khăn của thời hậu chiến, với
bao
nhiêu lo toan no đói tầm thường.
Và cũng chỉ ở
tuổi này, khi hầu như mọi buồn
vui dồn hết vào những đứa con rứt ruột, Ngân mới dám nghĩ rằng mẹ thật
ra đã ra
đi đúng lúc. Mẹ sẽ sống làm sao cho qua những ngày tháng đó. Mẹ, người
đàn bà
đẹp nhất, đẹp đến nỗi bao giờ bắt gặp một gương mặt phụ nữ khả ái, Ngân
đều có
cảm giác người đó có đôi ba nét giống mẹ mình.
Đấy không
hẳn là cảm giác dễ hiểu ở một đứa
con yêu mẹ. Người phụ nữ đã sinh ra người đàn bà trẻ con đẹp thật. Đẹp
khác
thường. Mái tóc rất dày nâu óng lên trong màu nắng quái dâng ngập những
thân
cây già bao chiều trên phố vắng. Hàng lông mày rậm cũng óng một màu nâu
như
thế. Sắc nâu lạ lùng và nồng ấm biết bao nhiêu, cứ làm Ngân thót cả tim
mỗi bận
nhìn dọc phố ngóng bóng mẹ đi về. Thường phụ nữ da trắng thì tóc và mắt
cũng
hơi nâu, nhưng đường nét sẽ nhạt, và buồn vui thì hời hợt yếu mềm. Còn
mẹ, tóc
và lông mày óng ả một màu nâu pha màu đồng đỏ, mắt to và môi mọng, hai
khoé môi
lúc nào cũng như đang giấu sẵn một nụ cười trái ngược với cái nhìn đầy
tra vấn.
Mẹ đã đi suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình với mắt và môi ấy, cả tin mà
không
biết khoan nhượng. Mẹ đã đi qua hai cuộc chiến tranh. Tuổi thơ âm u
dưới bóng rừng
già Việt Bắc. Tuổi trẻ trập trùng những nỗi đạn bom, nỗi mẹ già con dại
chồng
nghèo u uất mãi một nỗi niềm không thể nào gỡ bỏ. Mẹ đã đi qua tất cả
với cái
nhìn đau đáu và miệng cười không bao giờ gìn giữ lại cho mình một chút
gì. Ngân
không biết mình thừa hưởng được ở mẹ điều gì. Không phải là nhan sắc
thắt lòng
thắt ruột. Không phải là tính khí, cả tin, nóng nảy, kiêu hãnh mà thực
ra khiêm
nhường. Ngân nhớ, nhớ bao nhiêu giọng hát của mẹ, những đêm Hà Nội, mất
điện,
thanh khiết trăng sao. Những bài hát thời kháng chiến, những bản nhạc
vàng ở
lớp ở trường Ngân vẫn thường nghe nói mà không biết. " Tiếng ai hát
chiều
nay vang lừng trên sóng - Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa ... Âm ba thoáng rung
cánh
đào rơi - Nao nao bầu sương khói phủ lưng trời - Lênh đênh dưới hoa
chiếc
thuyền lan -Quê hương dần xa cách núi ngàn... Gió
hát trầm khúc ca - Tiếng phách giòn lắng xa -
Nhắc chi ngày xưa đó
đến se buồn lòng ta...' Bao nhiêu bài mẹ
đã hát Ngân nghe. Những bài hát mẹ đã nghe từ bà ngoại giữa một Hà Nội
lạ lùng
trước ngày kháng chiến, nghe từ các chú các bác cùng cơ quan ông ngoại
dưới
bóng núi chiến khu, những bài mẹ đã học thời thiếu sinh quân quê người.
Nhưng
Ngân nhớ, nhớ nhất khúc thiên thai kì diệu mà mẹ đã hát say mê trong
hơi gió
nồm nam lồng lộng thổi, và nhớ những ngón tay mẹ mơn man trên tấm lưng
nóng hầm
hập vì sốt của Ngân. Ngân nhớ đêm mùa hạ ấy Ngân rét lắm trong cơn sốt,
nhưng
con bé con vẫn nằm mình trần, yên lặng, chỉ để được có bàn tay mẹ trên
thịt da
mình, chỉ để được nghe mẹ hát như mẹ đang nghĩ ngợi. Trăng xanh biếc
hào phóng
rải trên tấm chiếu cũ hai mẹ con nằm. Đấy là đêm riêng tư cuối cùng của
hai mẹ
con. Mẹ sẽ không thể sống những ngày những đêm đầy sự kiện đến rất
nhanh sau
đó. Như đêm ấy...
*.
...Đêm ấy, 30
tháng 4 năm 75, Hà Nội vẫn mất điện. Trong bóng tối hầm hập, tiếng loa
truyền
thanh không dễ định vị như lúc ban ngày, vang xa hơn, chói lói hơn. Hai
chị em
Ngân kẽo kẹt đèo nhau về nhà trên cái xe đạp cũ. Từ bệnh viện K nơi mẹ
và những
bệnh nhân ung thư nằm - những người mà người thân đang cố giấu họ một
cách vô
ích chẩn đoán vô vọng của bác sĩ, nơi chỉ có những mắt nhìn mỏi mệt của
người
sống và hoang vu cuả người đang chết trở ra phố, Ngân có cảm giác thế
giới này
không có thật. Người như nước tuôn về phía Bờ Hồ. Như cả thành phố dồn
về đây,
để đứng bên nhau, để cùng lắng nghe. Đoạn Hai Bà Trưng - Hàng Bài tắc
cứng.
Không rõ mặt ai trong tối. Chỉ những hơi thở nóng, nặng nề. Chỉ những
tiếng lầm
bầm xin lỗi của những người bị mắc xe đạp vào nhau hay sơ ý giẫm phải
chân
nhau. Bay náo nức trên tất cả, trên đám người không rõ mặt, trên vòm lá
bắt đầu
lồng lộng gió là những âm giai nao nức. 'Việt Nam trên đường chúng ta
đi - Nghe
gió thổi đồng xanh quê ta đó - Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân
trời -
Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước mà vui sao ta chẳng nói nên lời...
Chặng
đường xa ta đi giữa mùa xuân - Ta đi giữa tình thương... chiến trường
xa dồn
dập bước... Việt Nam... Việt Nam...' 'Yên
hàn thật rồi.' Ai nói lầm thầm như mơ. Đột ngột
vang lừng một giai
điệu chưa bao giờ nghe... 'Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng - Lời
Bác nay
đã thành chiến thắng huy hoàng...' Lại Việt Nam. Lại Hồ Chí Minh. Có
cái gì cảm
động lắm, vừa cảm động vừa nghẹn ngào vừa kỳ quặc nở dần ra trong bóng
tối của
ngày đại thắng.
Khi đó Ngân chưa
biết Trịnh Công Sơn. Cũng chưa biết tự hỏi mình nếu vào lúc đó hoặc
trước đó
người Hà Nội đã biết chẳng hạn 'Một buổi sáng mùa xuân' hay 'Đại bác ru
đêm'
của Trịnh thì ấn tượng về ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh đằng đẵng
ấy đối
với mỗi người sẽ như thế nào?
Đại hội Đảng lần
thứ tư sẽ diễn ra sau đó một
năm. Trước đó là cuộc diễu binh lớn chưa từng thấy. Nhà Ngân chật cứng
bà con
ra tỉnh xem duyệt binh. Mẹ lại nằm viện, đang heo hắt những hơi thở
cuối. Ai ra
Hà Nội cũng vào thăm mẹ và mẹ vẫn cố hết sức để mỉm cười, để diễn tả
niềm vui
có thật trong lòng khi biết mình sẽ chết. Rằng con mình đã sống và sẽ
sống. Vì
đã là hòa bình. Nhưng, trong hòa bình đã bắt đầu một cái gì đó còn khó
khăn hơn
cả thời bom đạn. Sau này, ký ức về những ngày đó trong trí Ngân cứ tự
xóa từng
vệt. Chỉ còn duy nhất một ấn tượng: hè năm đó ve sao mà nhiều thế, và
mậu dịch
bán nhiều chanh thế. Ve ran ran đêm ngày như một lời tiên cảm về những
mùa khô
khát chưa tới. Chanh đổ từng đống bên hè phố, thơm mát đường trưa tháng
sáu,
rồi úa đi, nẫu đi, bốc mùi. Tại sao Ngân lại nhớ điều nhỏ nhặt ấy? Tại
sao Ngân
không mấy khi nghĩ tới những buổi trưa hai chị em lủi thủi đi xuyên
thành phố
mang cơm cho bố đang trông mẹ trong bệnh viện? Tại sao Ngân không nhớ
những
tiết học đột nhiên nhãng hẳn lời thầy giảng, trái tim đập nặng như muốn
ngừng
vì ý nghĩ có thể trên cái giường sắt đó ở viện mẹ đã tắt thở? Đấy có
phải là
phản ứng tự vệ để lẽo đẽo cho hết phần đời chưa kịp sống?
Lúc đó, trong
đầu óc cô gái mười ba tuổi không
còn chỗ cho Trịnh Công Sơn. Mà có lẽ, với những người khác thì cũng
thế. Đại
hội Đảng IV thành công rực rỡ. Báo đăng. Đài nói. Công viên Thống Nhất
thành
rừng ánh sáng. Nghị quyết về các chỉ tiêu kinh tế đất nước phải đạt tới
trong
kế hoạch năm năm tiếp đó... Những con số... 'Ưu tiên phát triển công
nghiệp
nặng...' Hai mốt triệu tấn lương thực thành mục tiêu trên giấy cho bà
con nông
dân hướng tới... 'Hợp lý.' 'Nhảy vọt.' Đài nói. Báo đăng. Có thể đoan
chắc
chuyện ngờ vực không có trong lòng người dân bình thường. Cái chính là
đang
sống, còn sống. Vả chăng đánh Mỹ còn được thì làm gì chả được. Đã ở
nước nào
đại sứ Mỹ phải cuốn cờ cắp nách cút đâu. Không ai thấy chuyện giang sơn
thu về
một mối mà vào tìm thân nhân trong miền đất vừa giải phóng vẫn cần có
đủ thứ
giấy chứng nhận nhân thân của cơ quan khối phố là điều bất thường. Nếu
có ngỡ
ngàng thì chỉ là ngỡ ngàng về một miền Nam phồn vinh lắm đồ nhựa xanh
xanh đỏ
đỏ, lắm máy móc gia dụng cũ, lắm vải mỏng đẹp tuyệt mà vừa giặt vài ba
nước đã
rách và vào chợ Bến Thành không biết cách mặc cả thì chớ có mua bán gì.
Nếu có
ngờ vực thì chỉ là sự ngờ vực kín đáo trước những người đàn bà miền Nam
ra thăm
chồng đi tù, áo bà ba vải mỏng tang mà nét cắt trông cưng cứng, quần
ống rộng
đen nhấp nhoáng, dép lưới, đội mũ vải thay vì nón lá, miệng lúc nào
cũng hờm
sẵn một nụ cười giữ ý chẳng ăn nhập gì với cái nhìn căng thẳng, buồn
bã. Họ
luẩn quẩn trong căn phòng chật của người bà con Hà Nội, lo xếp xếp sắp
sắp
những gói những lọ những hộp bốc mùi thơm lừng. Toàn những mùi xa xỉ
tra tấn
mũi và lưỡi và dạ dày của đám con chủ nhà cùng chúng bạn. Ngoài phố,
tiếng loa
truyền thanh vẫn vang vang dội ngược vào nhau. Náo nức. '...Chưa có bao
giờ đẹp
như hôm nay - Non nước mây trời lòng ta mê say...' '...Từ ngày hôm nay
chỉ còn những
tiếng ca...' '...Từ thành phố này Người đã ra đi - Bao năm ước mong đón
Bác trở
về...' Cũng đã chen vào những âm thanh mới của những cuộc chiến mới.
Nức lòng.
Hùng tráng. '...Chẳng kẻ thù nào ngăn được bước ta đi - Khí thế tiến
công mang
sức mạnh thần kỳ - Lời Tổ Quốc vẫn âm vang sông núi...' '...Chúng con
lên đường
hình Tổ Quốc trong tim...' Trịnh Công Sơn phản chiến của cuộc chiến đã
qua
không thể chen chân trong dòng chảy này của đời sống. Còn tình ca? Tình
ca
thích hợp với một cuộc chiến nhất định thắng chỉ có thể hát về những
nỗi nhớ
hai đầu, hai đầu dòng sông, hai đầu núi biếc, hai phương trời cách
biệt, là sự
chia xa thực chứ không phải là tưởng tượng, và không bao giờ là cô đơn.
Vẫn còn
nguyên trong trí nhớ Ngân tiếng hát Trung Kiên sắt đá một niềm tin phơi
phới:
'...Khi hát lên tiếng ca gửi về người yêu phương xa - Ta át tiếng gió
mưa thét
gào cuộn dâng phong ba - Em ơi nghe chăng lời trái tim... Qua núi biếc
trập
trùng xa xa - Qua bóng mây che mờ quê ta - Tiếng ca đời đời đời chung
thủy
thiết tha... Giữ lấy đức tin bền vững em ơi - Giữ lấy trái tim đòi sống
yêu đời
làm một bản tình ca dâng cả bao người...' Vẫn vẹn nguyên trong trí nhớ
Ngân
giọng nữ trung nồng ấm và rạo rực của Vũ Dậu: '...Rất dài và rất xa là
những
ngày thương nhớ... Anh đang mùa hành quân pháo lăn dài chiến dịch - Bồi
hồi đêm
xuất kích chờ nghe tiếng pháo ran - Ngôi sao như mắt anh trong những
đêm không
ngủ - Giáo án em vẫn mở cho ánh sao bay vào - Ngày và đêm xa nhau những
đêm dài
thương nhớ - Thời gian trong cách trở vẫn cháy ngời tình yêu...' Vẫn
còn
nguyên... giọng hát và ánh mắt... gửi trao... hò hẹn... rụt rè... liều
lĩnh...
Quang... chiều Đại Lải năm nào: '...Một tiếng chim ngân - một làn gió
biển -
một sớm mai xuân bên cửa hầm dã chiến thấy trời xanh xao xuyến... ta
vẫn thầm
hái hoa tặng nhau...' Không một nhấp nháy xao xuyến trước tấm tình ấy,
nhưng
Ngân nhớ, nhớ tới bây giờ và chắc mãi về sau nữa, về người bạn cùng lớp
sẽ hy
sinh chỉ sau đó ít ngày, dù Ngân đã chồng con, đã mệt nhọc lắm bơ phờ
lắm vì
phải sống. Lứa tuổi Ngân khi ấy chưa có tình ca cho riêng mình. Vẫn
phải ăn
đong tình ca của các thế hệ trước. Tiền chiến là cái gì đó chỉ lõm bõm
nghe
'các cụ' âm ư rồi thở dài sau những bữa ăn chiều còn hơn là đạm bạc.
Còn cái
món ỉ ôi sướt mướt ' Thi ơi Thi Thi có biết biết không Thi khi con tim
yêu
đương thầm chết...' nhà hàng xóm khuân từ miền Nam ra nghe lén qua cái
Akai cũ
to như hòm lương khô, cái món ấy làm cho xương thịt thiếu ăn cứ muốn
rão ra và
những trưa hanh hao Hà Nội đâm khó thở.
Khi đó Ngân
chưa biết Trịnh Công Sơn. Mà biết, liệu Ngân đã biết để mà mê đắm?
*.
Cô gái
mười sáu tuổi không hề nghĩ rằng chỉ
sau đó mấy năm thôi mình sẽ đổi khác hoàn toàn. Càng thiết tha bao
nhiêu thì
càng có vẻ ơ hờ. Càng nồng nhiệt bao nhiêu thì càng cô độc. Trịnh Công
Sơn? Rồi
Ngân sẽ biết nhưng không phải ngay lập tức đã cảm được. 'Biển nhớ.'
'Tình nhớ.'
'Cuối cùng cho một tình yêu.' 'Rừng xưa đã khép.' '...Tình yêu như trái
phá con
tim mù lòa... Một mai thức dậy chợt hồn như ngất ngây... Chợt buồn
trong mắt
nai... Tình yêu như vết cháy trên da thịt người... Tình xa như trời...
Tình gần
như khói mây... Tình yêu như nỗi chết cơn đau thật dài... Tình cho nhau
môi ấm
một lần là trăm năm...' Tình nào mà chẳng như tình nào. Có gào thét
than van
cho lắm cũng có khác gì nhau lắm. Ngân sẽ còn phải nhắm mắt lăn đời
mình qua
những đam mê và khó nhọc của ngày sống thời hậu chiến rồi mới hiểu ra
rằng
những than van, những gào thét, những day dứt giữa những cơn say dài
những cơn
say vùi của Trịnh cần phải cảm không phải bằng trái tim đau khổ vì yêu
hay vì
đã chán yêu mà phải bằng trái tim hoang mang của người biết mình là duy
nhất,
lớn lao và nhỏ bé, tột cùng. '...Từ lúc đưa em về là biết xa ngàn
trùng...' Đấy
không còn là nỗi thiết tha tuyệt vọng của kẻ đang yêu. Đấy là nỗi bi
thảm của
người - xa - lạ, mến thương cuộc đời này, mê đắm cuộc đời này, cô độc
tuyệt đối
trong cuộc đời này và mỗi mối tình sống qua, mỗi người tình quen thêm
chỉ là
thêm một bước, vào hoang vu.
Ngân hiểu ra
điều ấy hơi bị sớm. Nhưng cần một buổi chiều, một cơn gió bời bời khua
trong
vòm sấu làm chao nghiêng một chiếc lá bên trời, một mùi hương thơm ngát
của
tách cà phê quán vắng, một con người sẽ bước ra khỏi đời Ngân, điều mà
cả Ngân
và người ấy khi chia tay đã không hề nghĩ.
*.
...Trời trở lạnh đột
ngột. Phong phanh trong
cái áo mỏng đứng run cầm cập giữa đám người chen chúc trước cửa hàng
chất đốt,
Ngân buồn nản nghĩ tới cái cổ họng nhạy cảm và lồng ngực ốm yếu của
mình. Bài
tập lớn chưa làm. Sắp thi điều kiện rồi. Rồi sau đó là kỳ thi tốt
nghiệp. Nhưng
trước mắt sẽ là những đêm không ngủ không chạy đâu cho thoát vì khó
thở, sẽ là
những ngày nằm bẹp dí trên giường kẹp giữa hai chồng sách sẽ đọc và đã
đọc.
Nhưng cũng không thể bỏ về. Đã xếp hàng suốt từ trưa tới giờ. Bìa chất
đốt
chiều nay hết hạn. Bố đi làm. Chị đi thực tập. Không còn trông được vào
đâu.
Ngân không chờ đợi cái tin ấy vào đúng lúc ấy.
Việt dừng xe sát
bên Ngân, nhẹ giọng: 'đặt
lên đây' và đỡ lấy can dầu nặng trĩu trong tay Ngân. Có cái gì thương
mến lắm
trong mắt Việt. Ngân không biết khuôn mặt trắng xanh, cái áo cũ mỏng
Ngân vừa
co hai vạt quấn chặt tấm thân thanh mảnh, mái tóc dày buông lơi của
mình đã
siết lấy trái tim Việt trong khoảnh khắc đó của buổi chiều đó. 'Vừa
lĩnh học
bổng. Muộn muộn Việt tới. Đi nhé!' Vẫn là thương mến, nhưng thêm một
chút gì
như gượng nhẹ, như vui thầm trong mắt Việt, khi Ngân gật đầu. Việt
không lên
nhà, trước khi quay xe, Việt ngần ngừ rồi bảo: 'Phan viết thư về kể
chuyện có
cô bạn nhà ở gần gần đây'. Mặt Ngân không thể tái hơn được. Ngân mỉm
cười. Cả
ba là bạn cũ...
...'Đen hay nâu? Ngân đừng uống đen.
Nâu nhé!' Vẫn Việt nói.
Việt ngồi xoay lưng ra cửa. Ngoài kia gió vẫn bời bời. Lá sấu xoay tròn
lấp
loáng trong sắc trời xám sáng chỉ có vào những ngày cuối thu gió trở
như thế
này. Ngân cầm cái thìa, gẩy một chút bơ vào tách cà phê chị chủ quán
vừa mang
tới, chăm chú nhìn giọt bơ loang. Mùi cà phê ngầy ngậy và khắc khoải.
Việt vẫn
nói, vẫn nói. 'Vậy đấy. Phan đã có một cô bạn. Khi nói một cô bạn thì
đã không
còn là bạn. Phan đang xoay làm chuyển tiếp sinh...' Ngân lắng nghe,
nghĩ, tưởng
như mình thờ ơ. 'Không một ai biết chúng mình đã viết cho nhau những lá
thư như
thế nào. Cả Việt nữa. Nhưng lẽ nào Việt không biết chúng mình...' Ngần
ấy năm
Ngân thân tình với bao nhiêu người nhưng không thân thiết riêng một
người nào.
Không hẹn thề, không gì cả, nhưng những lá thư mang màu sắc một trời xa
và
những lá thư Ngân gửi đi bằng con tem mua từ đồng học bổng chắt bóp dán
bằng
cơm nguội đã riết Ngân vào trong ảo giác về một cái gì tuyệt đối và
vĩnh viễn.
Có thể gọi là tình bạn. Cũng có thể là tình yêu. Bởi vì chỉ có hai
người, chỉ
có khát khao, cảm hiểu. Thánh thiện. Nguyên chất. Tất cả bạn bè đều
nghĩ thế.
Mà đến hai gia đình cũng nghĩ thế. Việt chắc càng nghĩ thế. Vì Việt
thân với Phan
đến thế và vẫn là người chuyển thư Phan cho Ngân. 'Mấy năm rồi nhỉ?
Chẳng bao
lâu nữa tất cả sẽ ra trường...' Ngân xoè bàn tay hất mái tóc văng về
phía sau
lưng, cố gắng rời mắt khỏi một chiếc lá sấu đang vật lộn với gió tìm
cách đậu
xuống hè phố: 'Việt vừa bảo gì Ngân? , Việt được dự kiến ở lại trường?
Chúa
thế!' Việt cắt ngang lời Ngân, thô bạo: 'Việt bảo Việt muốn có Ngân.
Việt muốn
sống cùng Ngân khi bọn mình ra trường. Việt không muốn cứ phải làm hộp
thư sống
hộp thư chết của Ngân với những ai ai! Ngân nói đi!' Việt chộp lấy bàn
tay
Ngân: 'Nói đi! Nói đi!' Ngân ngẩn người, tỉnh hẳn. Quán vắng. Chỉ có
hai người
và chị chủ quán đang hí hoáy thay băng mới. Trịnh Công Sơn! Sao lại
Trịnh Công
Sơn lúc này? '...Đời sao im vắng... Người về soi bóng mình giữa tường
trắng
lặng câm... Có đường phố nào vui cho ta qua một ngày... Có sợi tóc nào
trôi
trong trí nhớ nhỏ nhoi... Không còn không còn ai... Ta trôi trong cuộc
đời...
Không chờ không chờ ai...' Ngoài trời mưa giăng tự lúc nào. Ngân khẽ
khàng rút
những ngón tay ra khỏi bàn tay Việt, với tách cà phê nguội uống ực ực.
Chua
loét. Vô duyên. '...Có những ai xa đời quay về... về lại nơi cuối trời
làm mây
trôi...' Việt nhìn vào mắt Ngân, vẫy chị chủ quán rồi lặng lẽ ra mở
khóa xe.
Ngân ngồi nhìn phố chiều đông dần lên, nhìn những dáng người mải mốt
trong mưa
lất phất. Phía bên kia ngã tư, người ta đang dựng một tấm pano mới.
Bác. Mặt
gầy và mắt sáng. Tay chống nạnh. Và phía dưới là hàng chữ to đùng: 'Bác
đang
cùng chúng cháu hành quân.' 'Bác đang cần chúng cháu hành quân...' Ngân
lắc
đầu, xua đi một nỗi nhớ. Phan. Phan hay gào câu hát láo lếu ấy. Cứ
tưởng như
Phan thì khó sống. Vậy mà lại chính Phan là người biết cách hòa hợp
trước với
cuộc đời này. '...Ngày ra đi với gió - ta nghe tình đổi mùa...' Đâu rồi
ôi những
non tơ?
Sau này, Ngân
không biết nên ơn hay nên oán
Trịnh Công Sơn. Liệu không có Trịnh Công Sơn xót xa và giản dị đến ma
quái,
liệu không có giọng hát rền rền mê mệt một nỗi ai hoài trống trải của
Khánh Ly,
không rõ Ngân có chú tâm hơn không khi nghe Việt nói lời yêu dấu ấy.
'...Ngày
ra đi với gió... Ta nghe tình đổi mùa... Rừng đông rơi chiếc lá... Ta
cười với
âm u... Trên quê hương còn lại ta đi qua nửa đời không thấy một ngày
vui...
Đường trần rồi khăn gói... mai đây chào cuộc đời... nghìn trùng cơn gió
bay...'
Không bao giờ họ trở lại câu chuyện cũ, dù vẫn đến nhà nhau chơi, vẫn
lang
thang cùng nhau, vẫn lo lắng cho nhau. Nhưng buổi chiều ấy vĩnh viễn
trở thành
màn sương mưa phủ lấy một cõi chung riêng tư lắm mà không một ai muốn
vén. '...Nhìn
lại nhau con mắt lo âu xin vỗ về muôn yêu dấu... Nhìn lại nhau che
những cơn
đau...' Trịnh Công Sơn bất chợt, đã buộc Ngân phải soi ngắm lại cuộc
sống quanh
mình, phải nhìn thẳng vào từng ngày sống của mình.
*.
Đấy là những
ngày kì quặc và buồn thảm. Nhưng
hầu như không ai nhận thấy. Có biết một cuộc sống khác hơn đâu để mà ao
ước rồi
buồn. Chỉ những lo là lo. Toàn chuyện áo cơm phải từng ngày đối mặt.
Niềm vui
chiến thắng, đúng hơn là niềm vui yên hàn đã nhoè mờ theo thời gian.
Niềm tin thì,
không ai muốn nói và dám nói, nhưng cứ từng ngày mai một. Làm sao có
thể tin
vào một sự đổi thay lập tức và kì diệu, rằng 'thắng giặc Mỹ ta sẽ xây
dựng hơn
mười ngày xưa' khi thành phố hình như mỗi ngày một xao xác và nghèo
hơn, khi
định lượng gạo còm cõi thế mà mậu dịch cũng không thể cung ứng. Làm sao
có thể
yên tâm khi chiều chiều nghe tiếng reo à à cuả bọn trẻ con là phải
buông tất cả
sách vở chạy ra chen lấn đổi bánh mì tem phiếu. Những cái bánh mì khô,
rắn và
chua mậu dịch bán thay gạo ấy Ngân đổ lổng chổng trong thùng gạo rỗng,
vài ba
hôm lại chờ lúc nhọ mặt người bê đi bán tống bán tháo được đồng nào hay
đồng đó
cho mấy bà phe phẩy đầu ngõ. Những giờ học triết, kinh tế chính trị
học, chủ
nghĩa xã hội khoa học và lịch sử Đảng trở thành lạ lùng. Cái cần nhất
là nhập
tâm, không đối chiếu so sánh với đời sống hàng ngày làm gì cho mệt.
Chân lý của
chủ nghĩa là một cái gì đó không thể và không nên tìm cách chứng minh,
bởi vì
nó nằm ở thì tương lai, của những thế hệ sau nữa. Không lẽ thế hệ trẻ
của dân tộc
này lúc nào cũng phải thực hiện kỳ vọng vào tương lai của thế hệ già?
Nghĩa là
không một thế hệ nào được sống cho đúng nghĩa! Ý nghĩ này Ngân không
bao giờ
dám chia xẻ với một ai trong đám bạn bè. Học hành trở thành gánh nặng
vô nghĩa,
càng vô nghĩa khi biết chắc tốt nghiệp rồi sẽ không mấy đứa thi thố
nổi. Sẽ có
những đứa chễm trệ trong cơ quan một bộ nào ngay giữa Hà Nội nhờ vào
thần thế
ai đó. Còn những đứa như Ngân, hôm nay no đói thế nào ra phố vẫn tóc
ngang vai,
guốc cao, quần áo là kỹ lưỡng và vẫn rủ rê nhau cà phê cà pháo khi
trong túi có
tiền, ngày mai chưa biết bị bắn về phương trời nào của Tổ quốc, để rồi
chết dí
ở đấy với đồng lương đùa nhả, bao nhiêu điều học được cứ chột dần đi.
'...Nơi
em về trời xanh không em...?' Không ai có thể hỏi một câu như thế vào
lúc ấy,
ngay cả để trêu chòng nhau. Cho nên câu hát càng hoang mang, ứa một
khát khao.
Bao nhiêu lần lang thang trên phố, ngang qua mấy hàng thuốc lá có cô
bán hàng
xinh xắn, bao nhiêu lần Ngân tự hỏi đấy có phải là một nữ sinh viên đã
tốt nghiệp
chống lệnh công tác hay không? Đã tự hỏi liệu mình có dám đánh đổi tất
cả cho
một cuộc sống yên bình nửa vời và thảm đạm như thế ở thành phố thân
thương này?
Mà vẫn tự
biết '...vai em gầy guộc nhỏ...'
Từ buổi chiều gió trở Việt bỏ về trước còn có bao nhiêu lần Ngân như
thế một
mình. '...Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua... Trên bước chân
em âm
thầm lá đổ...' 'Những chuyến mưa qua... ' Ôi Trịnh! Phải, Hà Nội mùa
thu nhiều
mưa lắm, hết mưa ngâu, hết bão rồi lại những cơn mưa dầm, lững thững
đến rồi
đi. Những cơn mưa buộc người ta ngồi lại, lặng lẽ nơi này, để, đôi khi,
chỉ đôi
khi thôi mà đau đớn mãi '...nhìn lại mình đời đã xanh rêu...' dù còn
rất trẻ,
chưa sống được bao nhiêu.
Giống như
là mộng mị. Vẫn sống đấy, vẫn lo
toan đấy, vẫn nói cười đấy, vẫn yêu đương loạn xạ đấy, nhưng không
thiết tha
với một cái gì, ngoài khao khát về một cái gì tuyệt diệu lắm tồn tại
đâu đó, có
thật, nhưng mà mong manh, có lẽ còn vô nghĩa và vô ích giữa cuộc đời
toàn những
bươn chải không đáng như thế này. Không còn là lý tưởng đã hối thúc mấy
thế hệ
liền suốt mấy chục năm qua, đã một thời non trẻ hết mình tin tưởng.
Những trang
sách đẹp chỉ làm cho nỗi thiết tha thêm tuyệt vọng. '...Đôi khi ta lắng
nghe
ta... nghe sóng âm u dội vào đời...' Những ngày ấy đã tạo ở Ngân thói
quen lang
thang phố vắng một mình. Bao chiều. Bao đêm. Sương buông mờ phố nhỏ.
Mùi lá đốt
quyện trong sương buông lúc chiều hôm bình thản. Là cái gì chỉ thành
phố này
ngày ấy mới có. '...Gió heo may lại về... Chiều tím loang vỉa hè... Rồi
mùa thu
bay đi... Trong nắng vàng chiều nay...' Đèn đường bật sáng héo hắt dưới
ánh
chiều còn rớt lại và nhoè dần đi trong sương cuối thu mỗi lúc một phủ
dày hơn.
Hoa sữa dậy một vùng hương ấm cơn gió lạnh vừa xộc tới. Đã mấy mùa thu
sang như
thế. '...Đêm khuya nhìn đường phố... thành phố hoang vu...' Không phải
một lần
Ngân cảm giác được cảm giác của người nhạc sĩ ấy. Cuối phố đằng kia,
nơi có
hàng cây cao chứa đầy ánh sáng xanh tái của những bóng đèn cao áp mới
được lắp,
có đôi lần Ngân thấy Việt đạp xe rất chậm, cũng một mình, và Ngân đã rẽ
sang
lối khác. Đồng điệu ư và ích gì cho nhau? Nói gì với nhau? Rằng từ đấy
đã yêu
nhiều lần lắm rồi chăng? Rằng dù thế vẫn chưa biết thế nào là mê đắm?
Rằng vẫn
không thể cùng nhau! Hay không dám! Sợ làm xước những tin yêu. Vì không
thể
sống khác! Không thể từ bỏ đam mê, đam mê một cái gì rất đẹp, có thực
mà vô
ích. Như màu nắng hanh kia. Như tiếng vọng trong lá kia của gió. Như
một con
người vĩnh viễn trượt qua đời mình, vĩnh viễn mang đi mất của mình chút
hy vọng,
chút ảo giác vào một cõi sống bình yên, trong trẻo, lãng đãng. Và bởi
thế, mọi
mối tình đều dần tàn lụi, tắt ngấm. '...Từng người tình bỏ ta đi như
những dòng
sông nhỏ... Ôi những dòng sông nhỏ lời hẹn thề là những cơn mưa...'
Không ai có
lỗi. Chỉ có điều sống thật khó. Từng ngày rời rã, từng ngày hoang mang.
'...Màu
nắng hay là màu mắt em... Mùa thu mưa bay cho tay mềm... Chiều nghiêng
nghiêng
bóng nắng qua thềm... Bàn tay xanh xao đón ưu phiền... Ngày xưa sao lá
thu
không vàng... Em qua công viên bước chân âm thầm...' Là thật đấy, rất
thật, mà
vẫn như là hoang tưởng giữa những ngày rất nhiều sự kiện, kì quặc và
buồn thảm
ấy.
*.
'...Ngọn
gió hoang vu thổi suốt xuân thì...' Thầm thì cùng Khánh Ly, bao giờ
Ngân cũng
kinh ngạc. Người nhạc sĩ ấy đã sống thế nào trước đó, ở một miền đất
với Ngân
cho đến bấy giờ vẫn là một miền đất lạ để viết nên bài ca đó. Như là
cho cả thế
hệ Ngân sau này, ở một miền khí hậu khác, với một nhịp sống khác. Ngân
đã không
thể nghĩ về Phan như cũ. Buồn? Rất! Nhưng hối tiếc? Không! Có lẽ mọi sự
sẽ
không thể là như thế nếu giữa hai đứa đã có một chút gì, một ước thề,
chẳng
hạn. Nhưng đã không hề có một điều gì như thế, cũng như không một lần
trìu mến
nắm tay, cũng như không một lần nói lời gì từa tựa như thương mến. Sau
này, rồi
Ngân sẽ gặp lại Phan. Và cũng như với Việt, không bao giờ câu chuyện
dài xưa
được nối lại. Nhưng cái cảm giác hiểu nhau đến tận cùng, đến độ như thể
chẳng
hề trôi qua khoảng đời vừa bình thản vừa run rẩy tin yêu ấy thì vẫn còn
lại đó,
mặc dù Ngân rồi sẽ dần quen chấp nhận cái hữu hạn của con người. Sự
lặng im đầy
cẩn trọng của Phan, với Ngân, như một lời xin lỗi, xin lỗi khát khao
xưa, đã vô
tình để cho Ngân hiểu Trịnh Công Sơn, theo một cách nào đó. Người nhạc
sĩ ấy đã
đến và ở lại trong trí nhớ khắt khe của thành phố này, của Ngân, không
phải
bằng những bài ca phản chiến, không phải bằng tình ca viết cho một
người con
gái tuổi tên nào. Rất mỏng và rất nhẹ, mà dai dẳng, đầy ám ảnh là những
bài ca
Trịnh viết dường như cho chính mình, như về chính mình, kẻ sau này cuối
đời sắp
về lại nơi cuối trời còn tự dặn 'đừng tuyệt vọng tôi ơi đừng tuyệt
vọng.' Câu
ấy, ở tuổi xuân thì bọn Ngân không tự biết để mà nói. Cũng chưa có để
mà hát.
Nhưng đã sống nó một cách vô thức, bởi dù sao thì vẫn không thể chết,
vẫn muốn
biết '...ta là ai mà còn khi dấu lệ... ta là ai mà còn trần gian
thế...' Ta là
ai? '...Ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều...' sao vẫn thiết tha
thương
nhớ, như vẫn nhớ thương niềm vui hiếm hoi buổi sáng năm học cuối cùng ở
ngôi
trường ấy, gió đầu hè mát rượi đưa từ phố xa vào lớp học lời ca làm
rung lên
trong cả lũ con gái con trai mười bảy mười tám tuổi một cái gì mênh
mang không
thể đặt tên, tuyệt vời, diệu vợi. '...Gọi nắng trên vai em gầy đường xa
áo
bay... Gọi cho nắng chết trên sông em dài... Gọi tên em mãi suốt cơn mê
này...
Đời xin có nhau... Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau...'
Không
có những gian nan của thời hậu chiến, mà trước hết, không có cái hoang
mang bắt
buộc chứ không phải là bất chợt, chứ không phải là vì rửng mỡ bới
chuyện trầm
tư của những ngày sống ấy, khi người ta luôn phải cúi nhìn hố thẳm giữa
những
điều trông thấy nghe thấy, chưa chắc Trịnh Công Sơn ở lại được với
thành phố
kiêu bạc này, như đã. Cũng như nếu không phải là Khánh Ly ma mị, rã
rượi mà không
sướt mướt, quạnh quẽ cơ hồ lãnh cảm, cứng cáp mà tan hoang, như đang
lục lọi
chính tâm hồn mình, đã chắc gì ngay lập tức... Thành phố này từ ấy có
thêm một
nỗi yêu thương: Trịnh; có thêm một nỗi nhớ: Trịnh Công Sơn. Giá không
phải là
như thế! Khi những thế hệ sau vẫn cứ luôn phải soi bóng mình, vẫn phải
đau đớn
vì đời im vắng, vẫn thấy dường như nỗi lòng mình đang được hát ca trong
nhạc
Trịnh, vẫn tìm tới Trịnh Công Sơn không phải như tìm tới một quý báu
còn đọng
lại thì điều đấy chỉ có nghĩa là cuộc sống không có dời đổi, như lẽ ra
phải
thế. Trịnh Công Sơn không nói hộ ai điều gì, không gửi gắm giùm ai điều
gì.
Trịnh làm thức dậy trong mỗi người cái điều bao lâu rồi bị nén bẹp dí,
là ý
thức về phía sâu khuất cuả mình và cuộc đời, để có thể níu vào chính
mình mà
sống tiếp, khi miên man thầm thì rên siết một nỗi hoang mang, khi day
dứt mãi
nỗi phù du tuyệt kỳ của kiếp. '...Ôi cát bụi tuyệt vời...' Ai biết sỏi
đá không
đau?
*.
... Mãi
mãi về sau này, rất nhiều khi Ngân
còn bàng hoàng ngỡ trong lồng ngực mình vẫn đập mãi trái tim mười sáu
tuổi.
'Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi... Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi
mệt...' Lời
ca réo gọi, nhắc mãi, rứt mãi về tuổi thiếu nữ hoang vu ấy. Người đàn
bà trẻ
con hiểu rằng Trịnh ám ảnh còn hơn một tình chung. Và cay đắng. Sẽ
không bao
giờ, không có ai đạt tới được nỗi cô đơn ấy của người nghệ sĩ ấy. Trịnh
bắt mỗi
người phải nhìn cho ra đỉnh cô đơn của chính mình. 'Đâu là
của mình?' Lần đầu tiên hiểu ra rằng Trịnh
không phải là tri kỷ của ai ngoài Trịnh, và mình, cũng chỉ mình là tri
kỷ của
mình thôi, Ngân kinh hoàng.
Ngày Trịnh mất,
Ngân đang ở rất xa những buổi
chiều nắng thủy tinh nơi quê nhà. Đi rồi... Tưởng rằng được quên thương
nhớ...
Mà không! '...Lòng thật bình yên mà sao buồn thế...' Nghe nói đám tang
Trịnh là
một đám tang huyền thoại, với cả biển người đưa. Nghe nói, người ta
đồng thanh
nhạc Trịnh trước nấm mồ chưa lấp. Nghe nói, có cả đoàn tăng ni đã đến
nghiêng
mình trước linh cữu Trịnh và xin hát gửi theo linh hồn gió nhẹ ấy 'Một
cõi đi về'.
Bài hát từ đó được người Sài Gòn coi là 'Chùa ca'. 'Mình sẽ hát thầm
bài gì vào
lúc ấy?' Chọn lựa này khó biết chừng nào. 'Tại sao mình không thể xúc
động như
bao người?' Ngân tự hỏi, tự hỏi. 'Liệu mình có đi viếng Trịnh nếu như
có thể?'
Nhưng ngay lúc tự hỏi mình như thế, Ngân đã biết rằng mình sẽ lại xử sự
một
cách không bình thường trong mắt bạn bè, quá ư là bình thản, y như năm
nào
những Nguyễn Tuân những Lưu Quang Vũ những Văn Cao mất. Họ đã sống một
cuộc đời
không thường, với những đau đớn và vui sướng không thường, với những hi
vọng và
tuyệt vọng cao vút sâu hút. '...Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi... Đi
đâu loanh
quanh cho đời mỏi mệt... Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy... Một
bờ cỏ
non một bờ mộng mị...' Giờ họ không còn phải than van vì đôi vầng nhật
nguyệt
trên vai cùng những day dứt của cõi sống hư hao này. Giờ họ được bước
thẳng vào
cõi chết. Nơi đó chắc có màu bình an sương mù. Sao không để cho họ nhẹ
nhàng đi
vào cõi ấy. Những lập lòe rực rỡ, những thống thiết trong lễ tưởng niệm
bây giờ
và và vui vẻ (chắc chắn) trong những lễ kỷ niệm năm năm mười năm hai
mươi năm
họ mất có phải dành cho người đã khuất? Chắc chi!
Mà đã chắc
gì người đã khuất lại mong ước
điều đó cho mình khi còn sống. Chứng kiến những phút cuối cùng của
những người
thân yêu nhất, là bà, là mẹ, là anh, trong và ngay sau thời gian khổ
ấy, Ngân
tin ai cũng chỉ mong được sống bình an và tiếp tục được bình an trong
cõi chết.
Nhưng thế nào là bình an với mỗi người? Có lẽ chỉ ai một lần thực sự
cảm được
cái lạnh lẽo và hờ hững của cái chết, thực sự sắp ra đi mới có thể nói
cho
người còn sống biết. Nhưng họ có còn muốn nói nữa chăng? Khi mà, chính
ở phút
giây đó, người sẽ chết và người còn phải sống đột nhiên hiểu ra rằng họ
xa cách
nhau biết chừng nào, mỗi người đều ở trong cõi lạ với nhau, và những ao
ước,
những thiết tha, những dồn nén suốt cuộc đời rút cục thành vô nghĩa.
Chỉ còn có
một cách để giữ nhau trong cõi nhớ: Thương lấy nhau, biết ơn nhau,
khoan thứ
cho nhau.
Ngân đã
nghĩ thế khi nhớ tới cái ngày mình
mấp mé bên bờ sống chết. Đánh thức hồi ức ấy là nỗi xót một con người.
Nửa đêm chợt
thức
Những
ánh đèn
Những ánh đèn
Standby
Standby -
Standby-
Standby
Nhả ánh sáng
của bầy đom đóm chết.
...
Ngủ đi đôi
mắt thức
Tiếc nhớ gì?
trong đêm
15.
Khi cháy hết đời
mình, nến sẽ lịm dần, và từ
đó, một tia khói vươn lên. Thoảng một mùi hương, rất nhẹ, rất lành
hiền. Tựa hồ
quên lãng.
Có những cuộc
đời như thế.
Có một cuộc đời
như thế.
*.
Ngân biết tên
ông từ lâu, như một người tham
dự, như một người làm chứng, làm chứng cho một thời kì, làm chứng cho
một lớp
người con Việt, ở một xứ sở đã để lại cho chúng ta hôm nay dấu ấn không
thể tàn
phai, về máu, về nước mắt, về một cách gào thét, thở than. Bản thân ông
và đồng
chí của ông, trong một nghĩa nào đó, cũng chính là lịch sử.
Ngân quen ông
chưa lâu. Số phận đã chọn ông
thành người phù trợ cho Ngân, trong một khoảng đời cay đắng. Điều ông
và Ngân
mong muốn rút cục không thành. Nhưng Ngân không quên tấm lòng ông, ngây
thơ, bao
dung và nhẫn nại vô cùng tận trước đời sống này.
Ngân gặp ông chỉ
một lần. Thời gian chỉ đủ
cho Ngân nói đôi lời hỏi thăm sức khoẻ của ông và kể về chuyến đi thăm
chồng
cập rập của mình. Nhưng đủ để Ngân giữ mãi trong lòng nỗi bùi ngùi
trong buổi
sáng Paris ấy.
Sự sống
dường như chỉ còn là một mạch nước
sắp kiệt ở ông. Làn da nhăn nheo, trắng bợt, giọng nói yếu, nụ cười
mong manh,
đôi bàn tay đầy gân vịn trên thành ghế. Đấy là ông. Ông ngồi đối mặt
với bức
sơn dầu ngồn ngộn hai khối tròn nóng ấm và tươi sáng mà chính ông đã
vẽ. Bức
tranh thu toàn bộ sự sống trong nhà. Còn lại: chỉ là ông và bụi nắng.
Căn hộ của ông ở
Paris giống như một cái bến
mà đồng hương từ Việt Nam qua hay tấp thuyền vào. Đã bao nhiêu người
ngày ngày
ngày vào ra nơi đó. Đã bao nhiêu người ngày ngày ngày đi qua ông để tới
với
cuộc đời hăm hở ngoài kia. Có phút nào, có ai nghĩ đến ông lão đang leo
lét
sống và đợi. Có ai, một lần ngồi lại, nói với ông về Tổ Quốc ông yêu?
Có ai,
một lần hỏi ông về cuộc đời ông? Có ai biết vì sao ông lại quyến luyến
con
người đến thế?
Đâu phải
vì cô đơn.
Đã hơn một
lần Ngân tưởng ra rằng ông và
đồng chí của ông là người chiến thắng trong cuộc đấu tranh thuở ấy. Nếu
thế thì
những bài lịch sử mà bọn Ngân đã học phải ra sao? Những bài ca cho tuổi
măng
non ngày ấy sẽ ra sao? Và cách xưng hô của một thời đã ra sao, nếu
không phải
là 'chúng ta, đồng chí'? Và liệu có không nỗi ngày Bắc đêm Nam? Liệu có
không
máu thịt Việt Nam rải khắp những cánh rừng già bên mưa bên nắng?
Tất cả chỉ
là giả định. Có cái gì thật vô
vọng trong cuộc chiến đấu mà ông đeo đuổi cho tới lúc tàn hơi. Ngân
không nghĩ
mình sẽ bị thuyết phục bởi lý tưởng của ông. Lớn lên nơi ấy vào thời
buổi ấy,
nơi những gam màu nóng sáng chỉ hội trong bóng cờ và khẩu hiệu tưng
bừng, Ngân
đã tự miễn dịch được rồi trước những lời kêu gọi, sau những tin yêu rồi
choáng
váng hoài nghi. Nhưng gặp ông, thỉnh thoảng nghe tiếng ông qua điện
thoại, Ngân
lại ngạc nhiên thấy mình xúc động. Có cái gì vừa bất khuất vừa bi thảm
trong
toàn bộ cách thế sống của những con người ấy.
Ngân biết
mình cũng không mê văn chương của
ông. Ngôn ngữ ông dùng trong văn chương giống như là di tích vậy. Nhưng
chính
điều đó làm Ngân cảm động. Ông đã giữ cho mình bao nhiêu năm ròng tiếng
Việt ấy
của làng quê nghèo ấy ở thời buổi ấy. Bao nhiêu năm rồi? Ông kể cho
Ngân về sáu
mươi năm thương nhớ quê nhà. Về nỗi đau không bao giờ gặp lại người
ruột thịt.
Và ông khóc. Tiếng khóc vọng từ đầu kia đường dây điện thoại, xuyên qua
không
gian đầy cảm biến tới Ngân chỉ còn là khúc điệu nghẹn ngào của những
khoảng
ngừng chết chóc. Hình ảnh người trai nhà quê Việt Nam mấy mươi năm về
trước lủi
thủi lê chổi đi về giữa những tinh sương Paris trắng rợn lòng bỏng rẫy
một nỗi
quê nhà có khác gì đâu hình ảnh mà bọn Ngân suốt một tuổi học trò đã
tưởng là
duy nhất.
Khác chăng:
ông phải mượn quê người để kí thác cả cuộc đời đã sống cho quê hương.
*.
Nhiều năm ròng
sống cho một quê nhà chưa bao
giờ được một lần nhìn lại là bi kịch của bao nhiêu con dân Việt đã tự
vãi mình
ra trên thế giới này? Ngân kinh ngạc vì tưởng tượng của ông về quê
hương: một
gốc đa đầu làng, (đã hẳn), những người đàn bà xắn váy quai cồng gồng
gồng gánh
gánh; những hàm răng đen hồn hậu; bầy trẻ nghèo mới tí tuổi đầu đã phải
xốc vác
nuôi thân, và những con đường làng lầy lội, những mái tranh đã ải, nắng
trên
sông xa, sương khói buồn buồn. Hình dung của ông vừa cũ kỹ vừa sát
thực. Chẳng
phải những cảnh đời đau khổ thuở ấy vẫn còn nguyên đó hay sao? Có khác
gì đâu
một đôi mắt đói, dẫu ở đâu và trong thời nào. Ông không biết những hồi
ức của
ông làm Ngân đau khổ. Không phải vì cảm thương cho ông. Ông đâu cần
điều đó và
Ngân đâu dám. Nhưng nỗi đau khổ là có thật. Khủng khiếp xiết bao khi
đột nhiên
nhận ra rằng tám mươi năm đời ông không phải là sự kết nối những ngày
sống và
những cùng cực mà người ta vẫn tưởng chép miệng một cái là xong, vì rút
cục thì
đã đi qua, dù sao cũng phải đi qua. Gần một thế kỉ ấy là trùng trùng
đau khổ
của mấy thế hệ Việt Nam, trong đó có thế hệ Ngân. Một lần nhìn lại đủ
để Ngân
kinh sợ, khi tưởng ra rằng đó có thể vẫn là số kiếp của thế hệ con
mình.
'Tại sao
anh không về?'
'Đâu có
được về hả em. Người ta...!'
Ông trả
lời sau một hồi lâu im lặng.
Tại sao?
Tại sao?
Ngân muốn
gào lên chỉ một câu hỏi ấy. Ngân
không thể gào lên câu hỏi ấy. Tại sao? Tổ Quốc đã chẳng độc lập hơn nửa
thế kỷ
rồi đó sao? Tổ quốc đã chẳng thống nhất một phần tư thế kỷ rồi đó sao?
Không Tổ
Quốc nào cấm cửa con mình. Một người con như ông, Tổ quốc nào không
thương quý.
Tại sao?
Tại sao?
'Mấy năm
trước họ bảo anh là có thể về.
Nhưng già yếu quá rồi, đường xa...' Tiếng ông khẽ khàng qua đường dây
điện
thoại.
'Người
ta...Họ...'
Giọng ông bình
thản quá. Còn có bao người như
ông?
*.
- Ông nội
của Ngân nằm lại ở môt góc rừng Việt Bắc. Khi toàn quốc kháng chiến,
ông dặn bà
đưa bốn con dại về quê nương tựa họ hàng. Bố, đang thảnh thơi đi học,
phải sáng
sáng cắp sách vở cùng thúng xôi lang thang các phố, thay cha giúp mẹ
nuôi em.
Còn ông, quần nâu túm ống, hì hục khuân vác máy móc đưa lên Việt Bắc.
Bố kể
buổi gió và nắng lạnh, bố cắp thúng xôi còn lưng lưng qua đó ngóng, gặp
ông
trong đoàn quân đang tập hợp chuẩn bị ra đi. Niềm tự hào làm cổ cậu bé
học trò
mười hai tuổi nghẹn lại không gọi người cha thành tiếng được. Ông nhìn
thấy bố,
rời hàng quân chạy qua phố, đỡ thúng xôi đặt xuống vỉa hè, vét đưa anh
em mỗi
người một gói, rồi lần túi đưa nốt cho con mấy đồng bạc lẻ, nắn hai bả
vai gầy
của đứa con còn chưa vỡ giọng, dặn nói với mẹ đưa em về quê ngay. Rồi
ông đi.
Không bao giờ về lại. Chưa bao giờ Ngân thấu hết những âm vang trong
tiếng gọi
đã giục ông đi ngày ấy, dẫu vợ yếu và con dại còn vướng lại giữa thành
phố sắp
bỏ ngỏ. Người vệ quốc trong đoàn quân chân đất quần nâu đó khi còn làm
lính thợ
đã một lần tưởng phải xuống tàu, qua Pháp. Nếu ông đi? Thì biết đâu ông
chẳng
đã sống một cuộc đời tranh đấu âm thầm và quyết liệt như người lính thợ
năm xưa,
người cộng sản không hợp thời vừa gửi vào gió Paris hơi thở chót. Rất
nhiều năm
sau này, rời nơi sơ tán trở lại trường xưa, bao nhiêu chiều Ngân đã cắp
sách đi
lại con đường xưa của bố và ông, bao nhiêu chiều Ngân đã dừng lại ở
cổng nhà
máy ấy, cúi nhìn những tấm đá xanh vạm vỡ bóng lên như nước ở quãng phố
ấy, cố
gắng tưởng tượng người ông chưa bao giờ biết mặt phong phanh trong bộ
áo quần
nâu, cố gắng tưởng tượng Hà Nội mùa đông xưa rạo rực bước chân âm thầm
quyết
liệt của những người dân một niềm quyết tử. Cho Tổ Quốc quyết sinh. Ông
mất,
không bao giờ tìm thấy mộ. Ngày cải cách ruộng đất, cả nhà dân Hà Nội
tản cư
không ruộng không vườn nhưng vẫn lao đao vì lời vu dữ, rằng ông đi lính
cho
Pháp, rằng ông là việt gian bị ám sát ở thành. Bà, gồng tấm thân gầy
yếu cho
đàn con đang vừa phẫn uất vừa hoang mang hãi hùng nương vào, nhất quyết
đòi lại
cho chồng một lời chứng đã chết vì Tổ Quốc. Lời chứng ấy, bao nhiêu năm
sau mới
tới với cả nhà, qua tấm bằng Tổ Quốc ghi công, mà trong đó tên ông bị
viết sai.
Bà, rằm tháng bảy, thở một hơi dài: 'Không sao cả. Nếu chỉ cầu sống,
ông đã
không đi kháng chiến. Vậy có sống lại, chắc ông cũng chả đòi gì. Chỉ
tội cho
ông, chết chả biết ngày nào mà làm giỗ giờ phải về cùng ma đói'. Rồi bà
khóc.
Rằm tháng bảy năm nào cũng khóc. Suốt nửa thế kỷ. Từ thuở ngoài ba
mươi. Cho
tới ngày xuôi tay.
Ngân tin
lời bà. Nhưng Ngân đã bao lần tự
hỏi ông đã nghĩ gì khi ông bị thương nặng rồi nằm lại vĩnh viễn ở góc
rừng ấy,
ở tuổi bốn mươi, như chồng Ngân bây giờ. Ông có nhớ một thành phố mà ở
đó ông
đã lớn lên, đã lấy vợ sinh con, đã sống một kiếp âm thầm nhưng bình an
cùng với
nó và đã đột nhiên hiểu ra rằng nó có thể thuộc về mình? Ông có nhớ
chăng buổi
lên đường theo tiếng gọi của sông núi? Ông có nghĩ tới một làng quê
đang bao bọc
và rẫy bỏ vợ con mình? Ông có nghĩ tới một cuộc sống khác ông mong mỏi
cho con
mình? Và ông có biết...
...Và ông
lão vừa khuất bóng ở Paris? Với
ông, cái gì là hình ảnh cuối về cuộc đời đã qua hiện lại trong trí phút
tàn
hơi? Những năm dài sống âm thầm ở Paris sau những buổi dấn thân? Hay
những ngày
trẻ trai tranh đấu? Gương mặt đồng chí một đời? Vợ và con? Con đường
xưa về
làng xưa và mờ nhân ảnh bao người ruột thịt đã chết đói nửa thế kỉ
trước mà ông
đã từng khóc với Ngân là ông rất khó hình dung lại?
Ngân đã
nhắc mình đừng nhớ nữa, đừng nhớ nỗi
bùi ngùi ấy nữa. Nhưng không thể. Không thể nào xóa nổi hình ảnh ông
lão đồng
hương ngồi trong bóng sáng Paris, giữa căn hộ ở tít cao một ngôi nhà
lớn. Không
thể xóa nổi hình dung dấu bàn tay đứa con hai tuổi của Ngân để lại trên
lớp bụi
quanh ông lúc lẫm chẫm bước trong phòng. Ông đã ngồi như thế bao lâu
rồi, đã cô
độc cùng trí nhớ của mình, dẫu có bao người lao xao vào ra nơi đó. Mỗi
bình
minh. Mỗi ban trưa. Mỗi hoàng hôn. Mỗi đêm dài khó ngủ. Ngôi nhà chon
von như
một ngọn núi mà ông không thể nào tự lần xuống được nữa để đến với
ngoài kia
hừng hực vô tư lự Paris. Đêm. Núi. Mưa. Nỗi sầu cố quốc. Bao nhiêu lần
ông đã
sống cảm giác ấy trong cuộc đời dằng dặc biến cố của mình?
'Vẫn biết
chết rồi là hết chuyện - Chín châu
chỉ tiếc chửa sum vầy - Ngày nào thu lại miền trung thổ - Cúng bố đừng
quên
khấn bố hay...'(*)
...Có một
nỗi sầu như thế rầm rì vọng lại từ
xưa, xưa lắm, xa, xa lắm. Vì Tổ Quốc không còn. Hiểu được! Ông, thế kỉ
này,
cũng một niềm xứ sở. Biết khấn ông như thế nào, nếu có thể thắp cho ông
một nén
hương? Ngân chạnh lòng. Tàn tro một nắm...
Vẫn biết chết rồi là hết chuyện! Mà
sao...
Cũng đừng mãi băn khoăn về sứ mệnh đời
này
Trong nắng
chiều lãng đãng:
Sông
thu trôi
*
Hãy ủ những
chiếc lá vàng
Dấu im trong
miền kí ức
Nếu có một mùa
xa vắng
Nhớ cho: độ ấy,
ta yêu
*
Có
những ngày chưa bao giờ xa
Mùa nở
thầm theo hoa
16.
Vẫn biết chết
rồi là hết chuyện. Mà sao...
Mà sao thế
nọ, mà sao thế kia. Chao ôi, sao mà Ngân cứ luôn khốn khổ vì những câu
hỏi vòng
quanh cuộc đời như thế. Sao Ngân lại cứ luôn khổ sở vì băn khoăn thương
nhớ
những cuộc đời có quen và không quen.
Như buổi chiều
nào hồi theo chồng đi công tác
xa, đang hối hả nhặt nhạnh đồ trong siêu thị vứt vào xe đẩy cho kịp giờ
đóng
cửa, chợt bâng khuâng dừng bước bên cái ngăn đầy có ngọn toàn những vải
là vải.
Những quả vải tròn nhỏ nhỏ, giống hệt vải thiều. Ngân biết, chẳng làm
gì ra có
vải thiều ở chốn này. Chẳng có vị ngọt chua đầy dụ dỗ ấy đâu, chẳng có
hạt điếc
đâu. Toàn những hạt to muốn lộn nhào ra khỏi vỏ và vị thì đôi lúc gắt
lên như
sắp sửa thành men. Nhưng mà những quả vải nhập từ xứ xa nào chẳng biết
bán đầy
ở đây lại làm lòng Ngân cồn cào cơn đói nhớ. Nhớ người đàn bà trẻ trẻ
như Ngân
nhưng mặt mũi thì hốc hác và môi nở nụ cười vừa mời mọc vừa ngơ ngác
ngồi nép
bên đống vải đổ sát chân tường cơ quan nọ buổi trưa nào, giữa những
người đàn bà vừa dựng xe máy sà xuống mồm
năm miệng
mười nếm và mặc cả. Những người đàn bà ấy, và những người đàn ông trong
bộ quân
phục cũ đứng bên những cái xe thồ đầy ắp su hào bắp cải mỗi chiều đông
Hà Nội
bao giờ cũng làm cho lòng dạ Ngân nao nao buồn, khiến Ngân không thể
nào thật
tình mặc cả. Đằng sau những bộ áo quần tàu tàu ấy, đằng sau những gương
mặt
toàn những nét vạc xuống làm cho nụ cười vừa chân tình hơn vừa tội
nghiệp hơn
kia có những gì? Những năm tháng như thế nào đã in dấu lên
gương mặt họ? Ngân biết, chưa chắc họ đã vất
vả hơn mình, và cái chính là chưa chắc họ đã thấy rằng họ khổ như mình
cứ mải
thương vơ cho ra vẻ người chung cảnh. Mà nói chưa chắc làm gì, chính là
thế
đấy, mình với họ xa lạ biết bao.
*.
Thế nhưng Ngân
vẫn tiếp tục đi chợ mua rau
không mặc cả dù có lúc đồng tiền phân bạc kiếm ra bồng bềnh trên tay
được dăm
ba hôm đã biến đi đâu tiệt cả, vẫn cứ có cảm giác như giữa mình với họ
từ đời
thuở nào đã ruột rà một kiếp rạ rơm, vẫn đau đớn những nỗi niềm không
thể khóc.
Đến bây giờ Ngân vẫn không thể nào nhớ thực ra bài báo về những người
lính ấy
có đăng tấm ảnh nào không, nhưng mà Ngân cứ có cảm giác mình đã nhìn
thấy họ
ngồi cóm róm và ngơ ngác giữa sân dinh Độc lập, hai mươi mấy năm sau
ngày chiến
thắng, vào lúc người hướng dẫn du lịch đang cao giọng cho đám đông nghe
về
chiến công của chính họ trong ngày chiến thắng cuối cùng. Không ai quan
tâm tới
mấy người lính cũ mới được vời ra từ lịch sử có thật đã cố tình bị lãng
quên,
không ai biết mấy ông nhà quê mới được rước từ đáy cái làng nghèo nào ở
miền
Bắc vào kia là ai và họ đang bồi hồi, đang luống cuống, đang ao ước
những gì giữa
thành phố Sài Gòn ngày kỉ niệm một phần tư thế kỉ chiến thắng. Chính
cái xe
tăng họ ngồi trên đã húc sập cả cổng dinh Độc lập, gần như cái cảnh mà
mấy chục
năm qua người ta đã thấy, năm nào cũng thấy, trên ảnh, trên phim, vào
tháng tư
tháng năm này. Thế chăng? Lịch sử? Lịch sử không diễn ra mà là được làm
ra, có
thể nhuộm đi nhuộm lại và cũng có thể tẩy xóa. Chẳng khó gì vào thời
buổi mỗi
ngày sống của con người là một trang sử mà tựu trung vẫn thiếu vắng
người chép
sử này. Thế cho nên Ngân không thích tin vào những dòng sử viết. Ngân
không
quên được nỗi hoang mang tuổi lên mười khi tìm ngược tìm xuôi trong
sách giáo
khoa lịch sử của mình vẫn không thấy một dòng về những quốc gia đã tiêu
vong để
làm nên Tổ Quốc bây giờ, những điều mà Ngân đã đọc được từ hồi bé tí
năm sáu
tuổi, trong một cuốn sách Bình dân học vụ của ông Lẫm bố chị Thục, được
ông xếp
rất cẩn thận trên bàn thờ ngày nào. Đâu Chiêm Thành? Đâu Phù Nam Chân
Lạp? Tâm
hồn trẻ thơ cứ như một cánh cửa sẵn lòng để gió xô, cứ buộc Ngân day
dứt mãi: Đâu
là sự thật? Sự thật có thể có nhiều gương mặt được không?
*.
Khoảng thời gian xa đi ấy thật cần
thiết và cũng thật nặng
nề. Ngân nhớ những người bạn cũ và kinh ngạc khi bạn bè hiện lên trong
một tầm
vóc mới, dưới một luồng sáng mới. Cũng vẫn là cảm giác ấy, khi Ngân để
rung lên
trong trí một dòng thơ, một âm giai tha thiết tuổi nào. 'Hỡi Paco ơi
dòng sông
mênh mông đôi bờ xanh biêng biếc nước chảy xiết sâu thẳm... Qua tháng
ngày hỡi
sông ơi có biết anh lái đò tên gọi A Sanh... A Sanh ơi ngày đêm anh lái
đò trên
sông... Đò anh đưa bao người đi đánh Mỹ bao năm ròng chiến công anh
thầm
lặng...' Phải, ví như câu hát này, ví như câu chuyện về người anh hùng
này. Hay
là cả câu hát rộn rã suốt tuổi nhỏ của Ngân này nữa: '...Đuốc lồ ô bập
bùng lên
ánh lửa...Sóc Bom bo rộn rã tiếng chày khua bồng con ra võng để đò đưa
giã gạo
ban đêm vì ngày bận làm mùa ... Cách mạng cần...' Những
bà mẹ không tên bồng con ra võng ngày
năm ấy Ngân đã nhìn thấy, trên ti vi, mặt mũi nhăn nheo, miệng móm, váy
áo xốc
xếch quay lưng lại ống kính đi vào túp lều nát. Và người anh hùng A
Sanh, tên
vang vang trong bao nhiêu chương trình ca nhạc phát đi khắp nước đấy mà
cũng
thành vô danh suốt một phần tư thế kỉ chiến thắng, đã chẳng được nhớ
ra, đã
quên gần hết tuổi trẻ của mình, quên cả tiếng phổ thông, chỉ vì nghèo
đói quá,
cơ cực quá, ngồi cóm róm ngơ ngác trong bức ảnh đăng trên báo. Những
hình bóng
thiểu não ấy bao giờ cũng làm hiện lại trong trí Ngân những hình bóng
khác mà
Ngân đã gặp trong tuổi bé bỏng của mình, một chiều bố mẹ gấp rút đưa đi
sơ tán.
Họ hành quân dọc theo đường quốc lộ, dáng lao về phía trước, chân đạp
trên rơm
rạ ngày mùa, trẻ, khoẻ, ba lô và quân phục mới toanh. Một chú bộ đội
nhấc mũ
khỏi đầu vẫy vẫy Ngân lúc con bé quay đầu nhìn lại. Y
hệt một bức ảnh in đi in lại trên Văn nghệ
quân đội mà Ngân rất thích nhìn thời ấy. Nhiều năm sau, mỗi lần gặp lại
bức ảnh
đó, người đàn bà trẻ con lại thấy tim mình chững nhịp. Những người lính
ấy còn
sống hay đã chết từ hồi ấy? Họ ở đâu bây giờ? Ý nghĩ thực nào đã ngổn
ngang lòng
họ dọc đường ra trận?
Chắc hẳn
nhiều lắm niềm vui mà ngọn gió thời
đại đã thổi lộng hồn người ngày ấy, lộng suốt thiếu thời Ngân. Nhưng
chắc hẳn
còn có những niềm tâm cảm khác. Ngân nhớ chú Trong hàng xóm nhà ở sát
bên vườn
nhà chị Thục ở cái làng nhỏ Ngân đã theo bà về sơ tán lần thứ hai, năm
bảy mốt
bảy hai. Chú lành như bóng sung dập dờn bên bến nước, nơi bọn Ngân
thích lặn
xuống mò trai. Những con trai nứa nhỏ mình mà lắm thịt, những con trai
vông xốp
xáp thịt ít nước nhiều dai ngoách tụ dưới bóng sung sao mà nhiều thế,
ngày nào
đi tắm lặn xuống quờ chân cũng nhặt được dăm con, mấy chị em dồn lại là
đủ cho
bà làm bữa canh chiều. Chú Trong học giỏi nhất làng, nhưng thi ngược
thi xuôi
chả được vào đại học. Làm sao mà vào được khi chú có một ông bố địa chủ
từng sở
hữu những năm mẫu đất và cả một cái nhà gỗ năm gian, lại còn dám tự tử
khi bị
đấu tố. Cái thời đó Ngân chỉ có thể mường tượng qua những câu chuyện
của các bà
hàng xóm vẫn sang chia cho bà ít lá trầu không, dúm thuốc lào và nhân
thể xin
mấy mảnh hạt cau khô hay miếng vỏ quạch khi chưa tới phiên chợ. Bà bảo
bà chỉ
bắt đầu tập ăn trầu vào chính cái đận ấy, khi bố chú Trong tự tử và
làng nước
bùng lên câu chuyện ông nội làm việt gian bị ta trừng trị. Khẩu trầu đủ
cau đủ
thuốc đủ giầu không làm bà say chẳng khác đàn ông say rượu, giúp bà
nguôi đi
chốc lát những nông nỗi bấn loạn trong lòng. Cái mùi trầu nhai đã giập
thơm rất
ấm lẫn mùi khai khai bốc ra từ các bà hàng xóm có thói quen vén ống
quần xả tồ
tồ vào nồi nước giải để đầu ngõ hay cạnh chuồng lợn ám ảnh suốt tuổi bé
của
Ngân, làm cho những câu chuyện xưa đọng bám chặt hơn trong kí ức, dù
Ngân chưa
từng trải chúng bao giờ.
Chú Trong
không được đi đại học là lẽ dĩ
nhiên rồi, vì ông bố địa chủ đã đành, mà còn vì Mỹ lại đánh mạnh ra
miền Bắc.
Nhũng trận bom rơi ở đẩu đâu cũng đủ làm chao đảo cả làng. Ông Thồng
nhà cuối
ngõ vừa về được mấy năm, đầu lúc nào cũng cạo trọc như cái hồi còn đi
cải tạo
suốt ngày cúi cúi lệch lệch vì cái bắp cày, cái bừa hay quang gánh lúc
thúc
theo sau đít trâu lại bị gọi ra ủy ban và lại phải cắp quần cắp áo ra
đi. Lúc
ông đi, cái đầu trọc tóc đã bạc cả mà chưa kịp húi lại vẫn cúi cúi lệch
lệch
như thế. Cả ngõ theo ra, chỉ mỗi bà và hai mẹ con chú Trong nhìn thoáng
qua vợ
con ông rồi quay lưng lầm lũi vào nhà. Sau hôm đó, chú Trong trích ngón
tay lấy
máu viết đơn xin nhập ngũ. Mẹ chú sang ngồi nhai trầu với bà, mặt lặng
như sông
mùa nước cạn, mãi mới khẽ khàng: 'Nó bảo em rằng thì là mẹ ở nhà có gì
nhờ cậy
xóm giềng, rằng thì là con đi một xanh cỏ hai đỏ ngực, con sống hay
chết thì mẹ
với con Xanh ở nhà rằng thì là đằng nào cũng yên hơn. Bác bảo rằng thì
là có mẹ
nào em nào yên mà sống nổi khi con chết anh chết.' Chú Trong đi một
mạch, lên
đến trung úy rồi mới chết ngay sau ngày kí hiệp định Paris. Mà lại chết
vì bị
sét đánh trên đường lần đầu về thăm mẹ từ lúc đi B, cũng chả được tính
là liệt
sĩ. Chú sống thì hiền mà chết thì trông dữ quá. Cả người đen sạm như gỗ
đem
xông khói, riêng cái đầu thì trụi thùi lụi nứt mấy đường như quả dưa
hồng. Chú
chết, cô Xanh nhất quyết không chịu bỏ mẹ đi lấy chồng, mãi đến lúc
tuổi heo
héo rồi mới lấy chú thương binh miền Nam ở trại gần làng, chỉ vì có thế
mới
được ở cùng mẹ. Cô đâu biết rồi sẽ có ngày chiến thắng và cô sẽ chẳng
còn lí do
gì để trụ lại với mẹ già, sẽ phải bồng bế con cái tay mang tay xách mấy
thứ đồ
nghèo theo về quê chồng tít tận Tây Ninh. Cô đâu biết rồi sẽ có ngày
chẳng thể
nào cất giọng bắt vào một điệu làn thảm hay bình bán ở vùng đất xa xôi
ấy. Cô
đâu biết mối tình Nam Bắc của mình sẽ còn được nhắc nhỏm mãi trong
làng, sẽ là
thương nhớ tuyệt vọng của mẹ trong tuổi già lủi thủi. Cô đâu biết rồi
tuổi già
của cô cũng sẽ buồn thảm thế, và cô đơn hơn rất nhiều.
*.
Tính năm
tính tháng thì thực ra Ngân đâu có
sống bao lâu cùng những con người có tuổi có tên mà vẫn hoàn toàn vô
danh ấy.
Nhưng sao Ngân vẫn cảm giác như nửa con người mình thuộc về nơi đó,
thuộc về
những con người đó. Và nửa mình kia là của cái ngõ nhỏ rối rắm đủ thứ
chuyện
đời dường như không đáng gì. Chuyện hai cô gái già có chung một tuổi
trẻ thanh
niên xung phong, sau ngày chiến thắng lại có chung lòng can đảm để cùng
không
chồng mà chửa được nhà máy chia một phòng, cáu giận nhau cứ vài ba hôm
lại kê
kích tủ giường để án ngữ cái bụng nhau mỗi lúc khệ nệ cái rổ cái chậu
ra ra vào
vào nấu nướng. Chuyện hai người đàn bà đi cùng một cái cầu thang bao
năm ngọt
nhạt thân tình đột nhiên xích mích. Mà cũng lại sau ngày chiến thắng.
Không!
Lúc đó lại chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước rồi. Người đàn bà
trẻ sau
mấy lần đi công tác Sài Gòn đã đổi đời, chí ít cũng là đổi trang phục.
Áo quần
đồng màu lòng tôm mỏng tang, đi một bước là gợi hình dung một bước về
tấm thân
còn mỡ màng lắm sau bao năm tháng bồ bịch liên miên chờ chồng. Mà bồ ra
bồ chứ.
Toàn những vị đã thành danh ở cái nơi mà người đàn bà làm việc và được
coi là
rất được việc. Bà ta sinh con với một trong những người đàn ông ấy,
công khai
gọi người chồng chính thức mới trở về trong bộ quân phục tàu tàu là ông
và sau
khi ông ta trở lại với vùng rừng đã gắn bó bao ngày gian khổ thì bà vợ
công
khai gọi ông bồ là bố cu Tũn nhà em. Cả khu tập thể đã choáng váng khi
bà ta
lao cả tấm thân màu mỡ vào bà hàng xóm trước nay vẫn chị chị em em, hét
vang
vang: 'tao đĩ tao đẻ ra thiên tài, còn mày chính chuyên mày sẽ làm mẹ
thằng mất
xác'. Tưởng như họ sẽ không bao giờ quên nổi cái đêm ngồi chầu mặt nhau
sau
trận giáp lá cà, chung sức diệt muỗi ở trụ sở công an phường dưới gốc
cây đa
già. Thế mà buổi chiều kia, dắt cái xe đi ngang qua nhà hàng xóm, thấy
bao
nhiêu guốc dép để ngoài, khói hương nghi ngút bay suốt hành lang cùng
những
tiếng nghẹn ngào, người đàn bà trẻ rùng mình. Một năm sau, vào ngày ấy,
bà ta
sẽ lễ mễ bê một nải chuối to và thẻ hương áp vào người, rụt rè gõ nhè
nhẹ vào
cánh cửa mở của nhà hàng xóm, nghẹn giọng: 'Chị cho em được thắp cho
cháu một
nén hương'. Hai người đàn bà sẽ đứng nhìn nhau, người đàn bà mẹ liệt sĩ
kia sẽ
lặng lẽ đẩy cánh cửa rộng hơn cho hàng xóm bước vào, và vẫn lặng lẽ như
thế đặt
đồ lễ của người đàn bà trẻ lên bàn thờ... Ngân biết mình tại sao mê sử
mà không
chọn học sử. Lịch sử nào chép những nỗi niềm kia?
Có nhu cầu
đứng giữa hào quang
Và nhu cầu
ngồi trong bóng tối
*
Nghĩ những
bước chân chệnh choạng của mình
Cũng làm con
đường mòn thêm chút nữa
Mà thương cho
con đường
*
Ông bà di cư
Bố mẹ di tản
Con cháu di
dân
Bộ lạc người
Kinh.
17.
Tính khách
quan của các sự kiện cố nhiên
phải là thuộc tính của mọi sử liệu. Nhưng, sẽ phải coi thuộc tính giả
định ấy
là phẩm chất. Liệu có sử gia nào không tự tín? Liệu có sử gia nào thật
sự khách
quan khi truy tìm sự kiện, và đằng sau chúng là bản chất rất người của
thời
gian. Mà ngay cả khi thật sự đạt tới yêu cầu khách quan, tác phẩm sử
học dường
như vẫn hàm chứa một sự tàn nhẫn không thể loại bỏ. Bởi vì người ta
luôn chỉ
thấy trong đó bóng dáng các cá nhân anh hùng thành hay bại, hoặc kẻ
phản bội
bại hay thành. Còn đám đông luôn lao đi trước, dựng hồn sông núi dậy
bằng cái
chết, bằng mất mát của riêng mình, bất quá lắm cũng chỉ được tôn là
'quân ta',
'bên ta', chỉ còn được quy thành những con số tổn thất. Với Ngân, điều
ấy bất
nhẫn. Mỗi một người là một thế giới, một miền tâm cảm, không ai có thể
thay thế
cho ai. Hai tiếng 'nhân dân' nếu không làm cho con người xúc động bởi ý
thức
đời đời về những số phận ẩn tàng trong đó thì hoàn toàn vô nghĩa. 'Dân
là
nước'. Phải! 'Dân là bể'. Phải quá! Nhưng trước hết, nhân dân là từng
người
từng người một, sống âm thầm lầm lũi quanh nhau, nếu có xôn xao lên
được chăng
thì cũng chỉ như là cái xôn xao bụi nắng.
*.
Nhiều năm đã
trôi qua kể từ ngày bước chân đi lấy chồng và thôi không bận bịu vì
nghề nghiệp
cũ, người đàn bà vẫn không quên đứa học trò thông minh vô cùng, chịu
khó vô
cùng, mà nghèo quá. Bố nó đã đến nhà Ngân một ngày ba mươi tết, lúc
trời vừa
tang tảng. Người đàn ông gầy, sắm vắn trong bộ quân phục cũ, hai ống
quần vo
lên ngang đầu gối, đầu úp cái mũ cối sờn vành, lúng túng bê vào nhà cô
giáo của
con mình một rổ rau thơm rau mùi đầy ụ, cởi mở dăm ba câu chuyện xóm
làng rồi
vội vã xin phép ra chợ. Nhìn theo người khách đang gò lưng đẩy cái xe
thồ lèn
đầy rau cỏ ra khỏi ngõ, sau nỗi cảm động ban đầu, lòng Ngân bàng hoàng
trống
trải, thấy mọi lời lên lớp của mình trong những giờ giảng văn về sức
mạnh của
nhân dân, về ân tình của nhân dân - những
lời mình đã nói với tất cả sự thành tâm - đột
nhiên thành rỗng
tuếch. Ý nghĩ ấy theo người đàn bà suốt buổi sáng chợ Hoa, suốt bữa cơm
chiều
ba mươi tết, suốt lúc giao thừa, suốt về sau. Hồi ấy Ngân chưa biết cái
ngon
của những cọng rau thơm rau mùi xứ sở, món quà của gia đình đứa học trò
nghèo
đủ để Ngân chia cho mấy nhà hàng xóm, còn những bàng hoàng kia Ngân giữ
mãi cho
mình. Nó cứ đầy mãi lên cùng năm tháng, không làm người đàn bà từng
trải hơn,
nhưng đủ để cứ dần dần thiếu tự tin hơn. Những giờ đi dạy thêm, những
phong bì
tiền dày cả gang tay nhận từng tháng từng giờ, những vé nó vé kia người
chồng
dăm ba tháng lại đưa cho vợ không làm người đàn bà vui vì đời sống dễ
dàng hơn
bọn bạn cùng trang lứa đang tám giờ vàng ngọc trong cảnh lo giảm biên
về một
cục. Bao nhiêu lần Ngân tự hỏi mình có đủ sức dứt ra khỏi guồng sống
này không,
hay cứ thế, cứ từng ngày lo cười mỏi miệng với khách của chồng, nghe họ
bàn
toàn những Quota với tín dụng thư, rồi khi khách về nghe tiếp những câu
chuyện
không ra ngoài đề tài ấy cùng đủ lời triết lí mọn không thể chấp nhận
mà cũng
không thể nào cãi nổi của chồng. Bao nhiêu lần Ngân kinh hoàng tự hỏi
mình,
chẳng lẽ cứ thế, cứ để học trò mang đồng tiền mồ hôi nước mắt, có thể
là tiền
bán cả tấn thóc của nhà, có thể là tiền bán cả sào đất sống của cả nhà,
có thể
là tiền bù giá vào lương bù da vào xương trong cảnh bố mẹ lúc nào cũng
nhớn
nhác vì hết việc, cúng vào đủ thứ trung tâm để tiếp tục nghe mình thành
tâm nói
nhảm. Không phải là duy nhất, nhưng đó thực sự là một lí do để Ngân bỏ
nghề.
Nghề bỏ được,
nhưng nghiệp, đã tưởng thông minh rứt được từ hồi còn trẻ trung lắm và
tự tin
vào tuổi trẻ lắm, rút cục lại quàng lấy Ngân, riết lấy Ngân bằng nỗi
khổ vì
không thể nào quên lãng.
*.
Bố
cũng là người không biết quên lãng.
Những lúc cay cực nhất là lúc ông hay bần thần nhắc chuyện những ngày
đã qua.
Toàn những chuyện chỉ nghe đã thấy đời đáng sống. Nhưng chuyện này thì
hình như
bố chỉ kể có một lần. Không hiểu vì sao chính câu chuyện chẳng liên
quan gì tới
mình ấy lại hay trở về trong Ngân, làm lòng Ngân uể oải và buồn bã. Và
sau đó
bao giờ cũng khiến Ngân bình tĩnh lại.
Ngân chưa bao giờ giáp mặt những người
mà bố cũng chưa từng
gặp lại kia. Nhưng đôi khi, Ngân lại nghĩ có lẽ nếu gặp bố và họ cũng
chẳng thể
nào nhận ra nhau. Làm sao có thể nhận ra những người bình thường như
thế.
Đừng tìm ta
giữa những nẻo đường ta đang lạc lối
Giữa quãng
đời ta có đợi nữa đâu
Bao năm rồi
ta có đợi nữa đâu.
Cuộc đời
không dài
Sao bao nỗi
đau phải chịu đến hai lần?
Đừng tìm ta,
đừng đi lạc cùng ta.
*.
Hình như năm
ấy là 1947. Bố lúc đó mới mười bốn tuổi, vừa trốn bà bỏ nơi tản cư theo
người
anh họ ra đi. Cơ quan kháng chiến những ngày đó còn tanh bành lắm. Công
việc
đơn giản và khó khăn, là lo mua giấy mua mực cho cơ quan in báo. Phải
mua số
lượng lớn để chuyển lên Việt Bắc. Cả đoàn lặn lội về xuôi nhờ bà con
vùng tề.
Đá in lito đã có rồi. Mực có rồi. Giấy nữa. Cả người gánh thuê cũng đã
tìm
được. Buổi chiều còn ngồi phân chia tài sản. Hai người đàn ông một còn
búng ra sữa
một đã cưng cứng tuổi hì hục lèn đồ vào mấy cái bồ to, vừa làm vừa to
nhỏ với
nhau bằng cái giọng bèm bẹp hỏi ngã lẫn lộn của người gốc gác vùng đó.
Ngày mai
lên đường.
Gần sáng thì
Tây càn. Cái làng nằm rìa vùng tự do náo loạn. Trong bóng đêm đặc
quánh, tiếng
trâu bò rống nghe còn khiếp đảm hơn cả tiếng người tru tréo than vãn
giục giã.
Đồng chí trưởng đoàn lệnh: 'Chạy'. Tản ra mà chạy! Chạy đi đâu? Bố cứ
bám theo
một thằng cu trạc tuổi và con trâu nó dắt theo. Suốt cả ngày. Đói.
Khát. Sợ. Sợ
nhất vì cái túi dết công văn vẫn quàng chéo qua vai không dám bỏ. Cái
làng đêm
còn ngủ đỗ bốc cháy sau lưng. Hai đứa trẻ mặt mũi tái mét đứng giữa
đồng không
mông quạnh, không đứa nào nhìn nhau. Bố bảo lúc đó không biết vì sao bố
nhớ bà
nhớ các cô chú trong nhà khôn tả.
Đêm. Sương đã
buông dày lắm, đến nỗi không còn thấy những sợi khói mệt lả run rẩy
vươn lên từ
xóm cháy. Bố run run nhờ thằng bạn mới quen chỉ đường đi về phía bờ
sông. Cũng
chả có kinh nghiệm gì, cũng chả biết Tây đã rút hết chưa hay đóng ở
đâu. Chỉ
đinh ninh lời anh trưởng đoàn dặn cố tìm nhau nơi ấy để lại ngược lên
Việt Bắc.
Đói, mệt, người cứ từng lúc nóng nóng lạnh lạnh như lên cơn sốt, hai
đứa nhỏ và
con trâu lầm lũi bước trong sương.
Thế mà tứ tán
vậy rồi cũng đủ mặt anh em. Sáng ra gặp lại, nhìn nhau mới thấy ai cũng
rộc rạc
đi sau có vài ngày, mới thấy hai cổ chân muốn long ra vì mỏi. Kiểm đồ
đoàn, mất
hết. Có mỗi bố còn túi công văn thư từ vẫn khư khư đeo chéo qua vai.
Bác Tuất
lắc đầu: 'May mà mày thoát. Chứ bị lùa thì chắc chúng nó đòm một phát
là xong'.
Đồng chí trưởng đoàn đờ đẫn: 'Cả hai ông gánh đồ nữa. Nó mà lục ra
những đá li
tô những giấy những mực thì... Chắc lại phải một lần nữa tìm người nhờ
mua lại
tất...'
Không thể tin
được là hai người nhà quê gánh thuê cho đoàn lúc ngả chiều cũng tìm về
được chỗ
đó. Không thể tin được là đòn gánh với hai cái bồ to vật vẫn đè trên
vai họ.
Suốt ngày suốt đêm họ đã chạy giặc với đồ đoàn của người khác mà họ
biết rõ là
gì, không một lần tính chuyện quẳng quách đâu đó cho nhẹ người.
*.
Có biết
bao nhiêu tượng đài hay phù điêu đã
được dựng lên từ buổi ấy. Chưa khi nào người đàn bà cảm được chất hoành
tráng
trong đó. Hồi nhóm tượng 'Quyết tử cho
Tổ Quốc quyết sinh' được dựng gần đền Bà Kiệu, người đàn bà đã một mình
tới đó,
ngắm nghía một mình, cứ tiêng tiếc một điều gì thiếu thiếu. Sau này,
khi có dịp
ra đi, một lần đứng trong vườn Treptow (*) ở Berlin, giữa mênh mông cỏ
xanh và
im, nơi chỉ có những bầy chim tìm đến, đối diện với những bức tượng nao
nao nỗi
niềm của đá của người, người đàn bà bất chợt thấy lòng cồn lên những
thương nhớ
lạ lùng. Thương người ông chưa một lần biết mặt đã nằm xuống đâu đó
giữa núi
rừng Việt Bắc. Thương những người lính cũ không bao giờ có thể sống như
cũ khi
trở về với cuộc đời thầm lặng bình thường. Thương hai người dân không
tuổi
không tên trong câu chuyện xưa của bố. Thương thắt cả lòng cả dạ. Mà
vẫn biết
mình chẳng có quyền gì để sống tâm trạng này.
Mình sẽ làm gì
lúc đó với đôi bồ đè vai? Ngân
tự hỏi và tự hỏi. Đấy có phải là bằng chứng của sự giác ngộ, của tình
yêu Tổ
Quốc ở mỗi người dân trong những thời buổi tao loạn? Và sự giác ngộ hay
tình
yêu Tổ Quốc như thế thật dễ dàng diễn dịch tiếp thành những phẩm chất
tuyệt
vời. Như, Ngân rất tin, nếu hai người đàn ông nhà quê kia trở thành
nguyên mẫu
của một nhân vật tích cực trong một tác phẩm văn chương nào đó viết về
thời
buổi đó. Nhưng, viết về nhân dân như vậy, dù chân thành bao nhiêu chăng
nữa,
liệu có phải là dễ dãi quá không?
Bao nhiêu lần
nhìn bố bồn chồn đánh đắm mình
trong hồi ức, Ngân lại nghĩ có thể đâu đó ở một làng nghèo nào đó cũng
có hai
ông lão đang ngồi nhắc nhớ một ngày xa xôi chạy giặc với đôi quang gánh
toàn
giấy mực và đá li tô của chính phủ kháng chiến trên vai. Có lẽ họ sẽ kể
rằng
lúc ấy họ sợ, 'sợ vãi đái'. Một ông lão nhà quê thì hiển nhiên phải có
cái
giọng dùi đục ấy. Có lẽ họ sẽ chẳng tự hào và cũng không mất công đặt
câu hỏi
'vì sao', như Ngân cứ không ngừng bận rộn với câu hỏi ấy. Đấy là bằng
chứng của
tình yêu Tổ Quốc, hẳn rồi, một tình yêu giản dị, không bắt đầu từ khẩu
hiệu, là
phần hồn được di truyền từ đời nọ qua đời kia ở xứ sở mình. Và đằng sau
đó, là
sự lương thiện của con người, thuần chất, tội nghiệp, đáng trọng. Cái
lõi để
trường tồn được của người mình phải là sự lương thiện nguyên sơ ấy. Và
nếu có
thể tự khắc cho mình một bức phù điêu, hay dựng một bức tượng về nhân
dân, mà
thôi, nếu Ngân có thể tặng không một ý tưởng, thì thế, chỉ cần khắc,
đục hình
ảnh hai người dân quê mặt lành như ngói cũ lầm lì mải mốt bước vào gió
ngược
với đôi quang gánh trĩu nặng, đôi quang gánh, chứ không phải là gươm
hay súng.
Thế là đủ để dân mình đi qua tao loạn, đi qua lịch sử chung chiêng giữa
hạnh
phúc và đau khổ. Thế là đủ để nhân dân thành bất tử. Phải! Bất tử!
Nhưng, để
được ngợi ca là bất tử, không lẽ
nhân dân cứ mãi mãi phải vô danh?
Hải âu biết
biển mênh mông thế
Bay không?
Vẫn bay
Trái đất biết
mình đau buồn thế
Quay không?
Vẫn
quay
Dũng cảm và
cuồng điên
Trong những
tháng ngày
Có tên là
cuộc sống.
18.
- Vậy thì
Ngân muốn gì. Cứ cho là hai ông toái ơ dại dột của Ngân thiệt đi vì anh
hùng
dũng cảm đến thế mà cái tên cũng chả được nhớ. Nhưng không thế thì ai
gọi các
cụ ấy là nhân dân nữa? Và có thể gọi họ là gì? Mà giả dụ các cụ ấy được
nhắc
tên nhắc tuổi vì chiến tích giữ được đôi bồ cho kháng chiến, rồi nhờ
thế mà hôm
nay thoát được cái làng nghèo đó, hoặc bệ vệ nghênh ngang hoặc lếch
thếch lủi
thủi đi giữa phố phường thì hỏi liệu ra sao? Hay bất quá lại thêm một
kiểu Xuân
tóc đỏ?
*.
Không phải là
Việt nói câu đấy. Không phải là Vĩnh. Không phải là chồng Ngân. Là
Phan. Chỉ
với Phan Ngân mới hay nói những chuyện tầm phơ như thế. Có lẽ vì hai
đứa thường
cùng đọc mọi cuốn sách rơi vào tay. Phan có một ông bác khác thường.
Thời sôi
nổi của ông đã qua rồi, lâu lắm rồi. Những nông nỗi đoạn trường hình
như cũng
trượt qua ông rồi. Giờ ông ngồi bên trong cái quầy bán sách báo cũ nhờ
nhờ
sáng, ngày ngày ngóng ra hè phố và chỉ quay lại với mình khi khuôn cửa
bất chợt
tối lại vì bóng một người khách rất biết tìm của tìm người ở đâu. Bố
cũng đã có
lần lục được ở quầy sách âm thầm đó 'Hà Nội ba mươi sáu phố phường',
bản in từ
năm 41, bằng giấy dó hẳn hoi, rẻ giật mình. Phan hay tha từ đó đủ thứ
khó kiếm
cho Ngân cùng đọc. Rồi cùng cãi vã...
Hồi ấy dường
như là hạnh phúc. Hồi ấy cả lũ vừa thi xong đại học, đang tấp tểnh làm
người
lớn bằng cách thay vì rủ nhau đi ăn chè đỗ đen Hàng Thùng hay chè thập
cẩm Hàng
Điếu thì lại mời nhau vào quán cà phê húp cái thứ nước đen sì đắng
nghét hay
pha chè đặc chát sít cổ rót cho nhau.
Buổi chiều Ngân
kể cho Phan nghe câu chuyện của
bố sao mà nóng. Như sắp có áp thấp. Nắng ơi ơi. Đứng gió. Hầm hập. Bên
kia đê,
treo trên hàng tre là một dải mây trắng mong manh, im lìm, không thể
nào bay đi
nổi. Phan ngồi tựa lưng vào tường, nhìn ra khung cửa sổ, lặng lẽ. Ngân
cũng
lặng lẽ. Có cảm giác chỉ cần cựa nhẹ một cái thôi, chỉ cần thốt một lời
rất nhỏ
thôi là chút gì riêng tư lắm đang hồi hộp thành hình sẽ tiêu tan. Họ sẽ
ngồi
như thế ...
...Trời bất
chợt gầm một cơn sấm cạn. Thinh không gió nổi tơi bời. Mây đen cuồn
cuộn trôi
về. Ngọn tre lúc nãy im lìm giờ lồng lộn, bị gió đánh rạp xuống vẫn còn
cố quất
lên mây. Dải mây trắng tướp ra, bị những vòm mây đen nuốt chửng. Mặt
trời tuột
xuống đâu đó sau những vầng mây ấy, sáng hắt lên viền lấy những quầng
mây đen
một đường trắng lóa, sắc lẻm. Một sắc vàng âm u nửa như phả từ trời
xuống, nửa
dâng từ mặt đất lên, dập dềnh. Cát thốc từ bờ đê vào phòng qua khung
cửa. Phan
đứng dậy, hỏi trống không:
- Đóng lại
nhé? Ngân này, Ngân biết không, từ bé Phan cứ hay mơ mãi một cơn mơ,
chả ra
lành chả ra dữ, và thực ra thì chả có gì. Vậy mà nó làm Phan sợ khủng khiếp. Trong mơ Phan thấy trời đất như
thế này đây, còn mình ngồi trên một cái xe đạp cao lềnh khềnh, không
với được
chân xuống đất. Cái xe cứ 1ao vùn vụt vùn vụt. Không ai giúp Phan dừng
cái xe
điên rồ đó lại bởi vì... Ngân biết không? Không có một ai. Không một ai
trên
con đường Phan qua. Không ai có thể nghe thấy Phan. Không một ai. Gió
cứ réo
bên tai, quạt thốc vào mặt đủ thứ. Lần nào Phan cũng phải sặc sụa mãi
mới vùng
ra khỏi được giấc mơ ngu ngốc ấy...
Phan quay
nhìn, bắt gặp trong bóng tối âm u vàng của căn phòng vừa khép cửa một
nét long
lanh dò hỏi:
- Không hiểu
sao, từ hôm thi đại học đến giờ giấc mơ ấy không thấy quay lại nữa. Chứ
hồi ôn
thi thì...
*.
Giả dụ không
có buổi chiều ấy, không
biết tới giấc mơ kì cục đó của Phan, chắc sau này Ngân cũng khó bình
tâm khi
nhớ về người bạn cũ, hay khi gặp lại. Giọng Phan lúc đó làm cho Ngân cứ
mãi tin
rằng chỉ một mình mình biết điều ấy, chỉ một mình Ngân biết nỗi đau đớn
vì bất
lực của Phan, chỉ một mình Ngân hiểu đằng sau những thành đạt hanh
thông của
Phan có một nỗi niềm còn lại mãi. Khi Phan đi học xa, rồi ngưng viết
thư cho
Ngân, Ngân đã bao nhiêu lần tự hỏi. Buồn? Rất! Nhưng hối tiếc? Không!
Cũng bởi
vì Ngân biết Phan đã phải gồng mình lên như thế nào để thoát ra khỏi
giấc mơ
ngớ ngẩn mà hãi hùng kia. Cũng bởi vì Ngân biết mãi mãi mình yêu thương
người
bạn ấy, mãi mãi mình cần cho riêng mình một thương nhớ âm thầm.
Người đàn bà trẻ con cũng hay mơ. Mơ
bay. Rất dễ dàng. Giang
hai tay ra, và tự dưng như không còn chân nữa. Cứ thế trong mơ Ngân bay
qua
những dòng sông xanh, những bờ đê mượt cỏ, những vườn cây không bao giờ
thấy
ngoài đời, bay qua những mái phố nâu đen mấp mênh sóng gợn. Và đâu đó
bên dưới
là những tiếng gọi vói lên kinh ngạc và vui sướng của bạn bè. Giấc mơ
bay kì
diệu đi kèm với chứng mộng du kì quặc. Biết bao lần trong đêm con bé
con đã
ngồi dậy, mở cửa, ra đường. Lần đầu tiên con bé biết mình đã đi đâu
trong khuya
khoắt cũng sẽ là lần cuối cùng giấc mơ bay đến với nó. Người cha tìm
thấy con
gái đứng huyên thuyên với anh công an gác cổng sứ quán Thụy Điển cũ ở
góc đường
Lê Phụng Hiểu Lý Thái Tổ, đã đánh thức con bé dậy trước sự kinh ngạc
của chú
công an trẻ. Sẽ không bao giờ đứa bé quên cảm giác của mình khi đó, khi
ngước
nhìn nhà Ngân hàng rực sáng bởi ánh đèn pha chiếu ngược lên ảnh Bác,
khi nhìn
hồ Gươm rạn thành bao nhiêu miếng óng ánh tít sau cây, khi đi ngang cái
cửa
quay của khách sạn Metropol huyền ảo ánh đèn màu xanh lá. Giấc mơ bay
mãi mãi
thành một đeo đẳng, cũng như ấn tượng về một Hà Nội nửa đêm nồng nàn
hương mùa
kia. Ngày đang sống dường như không có thật. Có thật: là nửa đêm Hà Nội
hoang
tưởng, là hương sen mẹ cho tiền mua bao mùa hạ cũ dù bông sen bằng nửa
giá mớ
rau bữa cơm chiều và hoàn toàn xa xỉ trong những ngày tháng đó. Là mùi
than đá
khen khét thơm thơm tỏa ra từ những tổ phục vụ nước sôi năm xu một
phích ở bao
nhiêu đầu đường góc phố. Còn gì nữa? Vị kem cốc toàn đá cục mua từ mấy
ông đẩy
cái xe bằng gỗ, ăn trong tiếng hát ngập tràn tin tưởng. '...Ta đi trên
đường Hà
Nội rực rỡ chiến công... đường mênh mang Ba Đình lịch sử đường tấp nập
Hoàn
Kiếm Đồng Xuân ... Nghe náo nức trong lòng...' Chao ôi, những giọng nữ
cao
thiết tha phơi phới đã làm cho thời buổi ấy sao mà nhẹ nhõm.
*.
Mà cũng nhẹ
nhõm thật. Sáng ra nhà nhà người lớn đi làm, trẻ con chơi quanh trong
sân khu
tập thể, chán thì kéo nhau ra ngõ, túm tụm dưới gốc đa già, rồi lại
rồng rắn
tha nhau vào mấy cái cửa hàng bách hóa dí mũi vào tủ kính bày toàn
những xô
chậu làm từ nhựa tái sinh, búp bê nhựa trần truồng toe toét một nụ cười
vô cảm,
dép lê đàn bà có hình cây dừa to thù lù trên hai cái quai ngang không
màu xanh
lá cây thì y như rằng màu tím huế nằm kề xà phòng thơm hương lí hương
chanh.
Nhòm chán chê thì ngóng ra phố, thấy đông đông xe đạp là ù té chạy về
vác cặp
lồng ra nhà ăn tập thể xếp hàng, chờ bố mẹ. Sau này thỉnh thoảng Ngân
bỗng dưng
thèm ăn lại một bữa cơm như thế, trong cái mùi gây gây của bàn ăn bằng
đá dù
mấy bác cấp dưỡng hôm nào cũng cọ rửa kĩ càng, với canh bí đỏ xào tỏi,
đĩa lòng
lợn, hay bát sốt vang, hay miếng thịt kho tàu. Cái mùi nhà ăn tập thể
đặc trưng
đến nỗi bữa cơm ở nhà nấu kiểu gì cũng không bao giờ có được. Và lại
còn cái
vị. Hay là Ngân tưởng tượng? Nhưng quả là ngon thật. Trẻ con vác bát
chạy quanh
bàn nhà nhau. Hết bữa thì lại len lách qua chân người lớn ngồi râm ran
nói
chuyện hóng gió trên cầu thang thênh thang dẫn lên hội trường ngay trên
tầng
hai, hay tụ bạ chơi trốn tìm trong những căn hầm chưa lấp. Mọi sự sẽ
chỉ khác
đi khi ngoài suất cơm thông thường nhà ăn tập thể bắt đầu bán thêm
những món ăn
ngon lành khác và không phải nhà nào cũng mua được. Bầy trẻ bê bát nhìn
qua bàn
nhau dò xét một cách đầy ý tứ. Từ bao giờ, trong chúng thức dậy tinh
thần tự
trọng tràn đầy bản sắc dân tộc trước sự quyến rũ của miếng ăn. Đấy
chính là lúc
nhà ăn tập thể tự khai tử, sẽ bị đem chia thành nhiều căn phòng và căn
lớn nhất
được bưng bít kĩ lưỡng thành nhà trẻ, nơi bọn nhóc con sáng sáng mếu
máo bước
vào. Sau này, mỗi khi đi qua liếc ngang mấy cô mẫu giáo trấn ngoài cửa
lúc nào
cũng thấy hăm hở xiên ngang xiên dọc những cái kim đan, và đằng sau các
cô,
trong bóng tối mờ mờ luẩn quẩn mấy bóng trẻ con lủi thủi, người đàn bà
trẻ con
lại bất chợt thấy ngực cồn lên một làn hơi nóng. Ngỡ như chưa bao giờ
có những
ngày tháng vừa buồn bã vừa vô tự lự đó. Và gương mặt bè bạn tuổi thơ
mấy chục
năm rồi không gặp lại vẫn dễ dàng hình dung đến mức đáng ngờ.
*.
Chiều giông
có Phan, nghe Phan nói bao nhiêu chuyện, lúc buồn bã, lúc hằn học, lúc
lại đầy
vẻ giễu cợt cay đắng hết sức kì cục, sao mà Ngân muốn khóc. Hoài nhớ
tuổi thơ
ậm ực mãi làm đau cả ngực.
- Ngân cứ
để ý mà xem, những chuyện thê thảm
ấy đâu chỉ có ở trong sách. Cái phố nhà Phan bé bằng lỗ mũi mà cũng đủ
thứ
chuyện tầm phào. Mới hôm kia thôi, cả phố Phan cười một trận vỡ bụng vì
ông già
hàng xóm sát vách nhà Phan bị cô bồ trẻ vác chổi đuổi đánh. Lã Bố hí
Điêu
Thuyền. Lã Bố ngày trai trẻ cũng vào sinh ra tử khiếp lắm. Bị bà vợ ở
nhà lung
tung lang tang, về ở với nhau được đâu vài năm rồi bà ấy phải đi vì ông
chồng
ăn chơi bù những ngày gian khổ. Lũ con nó cũng chả buồn về thăm bố già.
Ngân sẽ
bảo đấy là gì? Đấy, ông bà nhân dân của Ngân đấy. Ông già ấy và cô bồ
ấy rất có
thể sẽ lại sống đẹp ở một hoàn cảnh khác, như trong chuyện của bố Ngân
hay của
Ngân vậy. Băn khoăn làm gì?
Bởi không
biết Phan nói vậy chính vì Phan đã băn khoăn rất nhiều hay thực ra Phan
thật
tâm muốn vợi đi tất cả những nỗi niềm đó ra khỏi lòng mình mà Ngân
không thể
nào quên buổi chiều đó và người bạn đó. Tầm phào thật ư? Bao nhiêu
chuyện đời
diễn ra quanh Ngân, chẳng đâu xa mà rất đỗi hàng xóm láng giềng, rất
đỗi nhà
mình. Có điều vào độ ấy, thì cũng giống như hồi đi xem cô Tam điên,
Ngân và
chúng bạn chỉ thấy đó là một cơ hội để cười, hoặc để hào hứng trong
phút chốc.
Thiếu đủ thứ, trong chiến tranh và sau chiến tranh, thiếu tất cả những
gì khả
dĩ làm nên một đời sống tinh thần đủ để cho bọn nhóc bây giờ hiểu nổi,
nhưng
các thứ gia vị tinh thần hồi đó có lúc sao mà nhiều. Và người ta tiêu
hóa được
tất, với một sự say mê khùng khùng điên điên.
*.
Cái món gia
vị kích thích răng lưỡi trong những bữa ăn đạm bạc được ưa chuộng nhất
bao giờ
cũng là những chuyện nhà này chỉ bằng lòng mặt với nhà kia; chú nọ cô
kia hình
như phải lòng nhau mà chưa thấy động tĩnh báo cáo báo chồn gì với công
đoàn và
cấp ủy; nhà máy xét lên lương; căng tin sắp phân phối xe đạp; công đoàn
liên hệ
được ở đâu đó vải ngoài tiêu chuẩn và săm lốp, họp bình bầu lao động
tiên tiến
cuối năm và tóm lại là những chuyện đại loại thế, vừa tầm phào vừa
thiết thân.
Nhưng có những chuyện chả thấy ai bàn bỗng đột ngột phòi ra, làm tất cả
ngơ
ngác, rồi sau đó là sượng sùng. Sau này, lớn lên, chạm mặt hàng ngày
những
người từng có mặt trong những câu chuyện ấy, nhìn họ sống bình thản bên
cạnh
nhau, nghe họ cùng góp lời trong bao chuyện chung của khu tập thể, Ngân
cứ phân
vân tự hỏi mọi người đã quên hết rồi chăng hay vẫn đang đóng tiếp vở
hài kịch
cũ.
*.
Con bé Hằng
An có lần khoe khoang với Ngân rằng cũng biết bay. Dĩ nhiên là bay
trong mê. Có
điều nó ngủ mê hết sức kì cục. Loay hoay cong hai bàn tay để vo cho
viên bánh
trôi thật tròn, con bé mắt tròn mắt dẹt:
- Em cứ bay
vòng vòng trên sân thượng nhé. Càng lên cao càng mát. Mát cứ lạnh đi.
Trời cứ
như mâm thạch đen ấy, phẳng lì. Em lên cao bao nhiêu thì trời lại lùi
xa tít
bấy nhiêu. Còn sao thì lại như gần lại, cũng bay. Giống như đóm đóm bên
bờ đê
ấy, nhưng mà không lập lòe lập lòe. Cứ lóng la lóng lánh. Chị Ngân vớt
đi. Vớt
đi chị. Mẹ em bảo bánh trôi ba chìm bảy nổi là chín đấy. Em kể cho mẹ
em nghe
em bay, mẹ em cứ mắng dở người. Chị Ngân biết không, từ trên cao em
nhìn thấy
bao nhiêu người chui vào chăn của nhau, hay lắm. Cô Thủy chui vào chăn
chú Toán
này. Chú Bình chui vào chăn cô Vượng này. Ai cũng ngủ say. Chỉ có mỗi
chị
Phương Linh đạp cho người chui vào chăn chị ấy một cái đau điếng. Thế
là em
tỉnh. Hoá ra chính em bị chị ấy đạp. Chị Ngân ở đây ăn với em hay là bê
một đĩa
về?
- Con bé
này! Em mê với mẩn cái gì mà kinh hồn thế. Sao lại có chuyện chui vào
chăn
nhau. Mày cứ huyên thuyên bát sát thế mẹ mắng cho là phải.
Trấn áp bé
Hằng An, song cô gái không trấn áp nổi những ý nghĩ bất chợt tới vì câu
chuyện
kì khôi của nó. Cô gái biết đó là sự thật và những sự thật kiểu như thế
luôn
làm cô hoang mang...
Michelangelo
Đức chúa trời vung tay giữa đám người
trần trụi
Nghìn linh hồn
Triệu nỗi đau
Có ai của một ngày sau
Giang tay giữa lòng người quả đất
19.
Cái sân thượng
thênh thang của khu nhà tập thể ba tầng mà Ngân sống có thời là nơi trẻ
con bọn
Ngân tụ bạ. Vui lắm. Những ngày còn chưa sơ tán... Con gái con trai cả
lũ chạy
rầm rập trên cầu thang dẫn lên đó, nói cười í ới. Từ trên sân thượng,
phóng tầm
mắt về phía thành phố, sẽ thấy chóp Nhà hát lớn và lô nhô bao mái biệt
thự cũ.
Còn nếu ngoảnh về phía ô, đầu tiên là nhìn thấy vòm cây đa già, rồi bờ
đê thoải
xuống những làng nghèo xích lô ba gác, mùa hè đến có thể hít đầy lồng
ngực mùi
ổi chín từ những làng phía đó. Bên kia, sát chân đê, làng Thanh Nhàn
vừa gần
gũi vừa bí hiểm, nhìn từ trên xuống chỉ thấy những vòm cây ôm ấp lấy
nhau, ủ
kín tất cả trong bầu xanh rưng rưng nắng. Gió từ bờ tre bên ấy rào rạt
thổi về.
Ngân rất thích thỉnh thoảng trốn bố mẹ theo lũ trẻ cùng tầng chui rào
tập thể
sang đê. Bên đó có một người đàn bà, không thể nói là bà lão, song cũng
không
còn trẻ, thường ngồi dưới một cái mái gá tạm bợ vào chân tre, bán đủ
thứ lặt
vặt quyến rũ tì vị của cả lũ. Ốc vặn luộc vừa chín, hôi hổi thơm mùi lá
bưởi,
nhể bằng gai bưởi, chấm nước mắm gừng. Ốc đá thì bẻ bằng những đồng hai
xu có
cái lỗ tròn bé tí. Bà Bé luộc ốc trên cả tuyệt vời, nóng rẫy cả tay mà
không
con nào bị đứt ruột. Rồi lại còn lạc luộc, bánh tro, táo bột, chè lam,
bỏng
ngô, sấu chín. Những cuối xuân ngày ấy. Những vào thu ngày ấy. Ngân nhớ
bà Bé
là bởi bên mình bà lúc nào cũng có một cuốn truyện Kiều. Cứ ngơi tay
đơm đơm
bốc bốc cho bọn trẻ là bà lại cầm lấy cuốn sách cũ kĩ, kéo cái kính trễ
xuống
một chút và đọc. Ngày đi sơ tán trở về, lúc đã tụ họp lại được gần đủ
mặt, bọn
Ngân rủ nhau lên sân thượng. Cũng một chiều. Cả lũ ngơ ngác nhìn. Cái
làng xưa
chỉ thấy một màu xanh ấp iu là thế mà giờ quang hẳn vì bom. Đường ngõ
tơ hơ,
nhà cửa mới dựng lại khấp kha khấp khểnh. Sông Kim Ngưu chảy qua làng
hẹp như
một cái rãnh nước đen đặc sịt trông chả
khác gì con đỉa trâu đã chết.
- Chả thấy bà
Bé đâu chúng mày nhỉ? Bây giờ thì bà ấy cũng phải về mở lại quán rồi
chứ nhỉ?
Chả đứa nào
buồn trả lời câu hỏi tầm phơ của con bé đang úp bụng lên lan can sân
thượng sát
bên Ngân. Ngân không biết chúng nó lúc ấy nghĩ gì. Cũng chả biết lúc ấy
mình
nghĩ gì. Chỉ có cảm giác rõ ràng rằng tất cả đang chia tay với một cái
gì đó,
vĩnh viễn. Mà sẽ là thế thật. Bởi vì cái làng bên đê sẽ không bao giờ
xanh lại
như cũ vì người ở đâu cứ dồn về, thành cả xóm liều bên bờ đê sát cái xó
mẹ con
bé Hằng An ở, đổ rác ra đấy, ỉa bậy ra đấy; rồi thành phố sẽ cho xây
trên đất
làng một khu nhà lắp ghép năm tầng rất lớn và một bệnh viện cấp quận
khá là nổi
tiếng vì đủ thứ chuyện tiêu cực. Lùm tre bên đê thẳng từ cửa sổ nhà
Ngân nhìn
ra vẫn còn, song quán bà Bé thì không bao giờ dựng lại. Không bao giờ
Ngân thấy
lại người đàn bà ấy nữa. Không biết bà có chồng con, có một mái nhà
không?
Không biết bà sống ra sao? Bà đi sơ tán rồi về tìm đường làm ăn sinh
sống khác
hay là đã chết trong trận bom đánh thẳng vào làng độ ấy? Thật lạ lùng
là có
những người có thể ở mãi trong trí nhớ đã thành một phần đời của mình
mà mình
tuyệt nhiên không biết gì về họ.
*.
Thật ra thì
hồi đó cũng không đứa nào bận tâm tự đặt ra những câu hỏi như thế. Chỉ
nhớ là
sau đó gần như chả mấy đứa còn rủ nhau lên sân thượng. Thỉnh thoảng lắm
Ngân
mới nghe lời mẹ sai mang mâm lạc mâm vừng hay ít tôm khô bò lên đó
phơi. Vác
theo cái chiếu và cuốn sách nằm trong chòi, nghe tiếng bọn nhóc con léo
nhéo
góc đằng kia sân thượng giữa cái nắng trưa nóng như rang, sao cứ thấy
lòng vừa
trống trải vừa xao xuyến.
Đấy chính là
hồi chị em Ngân thôi không theo bọn trẻ cắp chiếu cắp chăn lên sân
thượng ngủ
những khi mất điện. Ngủ gì đâu. Chạy rình rịch gần hết đêm hò hét trốn
tìm. Cứ
xông vào những chỗ người lớn ngồi uống chè là kín nhất. Mặt sân thượng
lát đá
vuông, giữ hơi nóng rất lâu, song gió thì không bị quẩn, cứ lồng lộng
thổi như
quạt hầu. Thật thú vị khi mặt và lưng mát rượi trong khi bàn chân trần
và mông
đít nóng cứ ran lên như ngồi trước đống rấm những mùa đông sơ tán.
Người lớn
thì cứ vừa nói chuyện với nhau vừa quay ra mắng trẻ con, rồi ấp tay vào
cái
chén quả hồng rất đặc trưng ngày đó mà hít hà cái vị nóng chát ngái của
thứ chè
ba hào mậu dịch bán không thèm phân phối.
Đấy là lúc
đầu đêm, người lớn có mắng thì rồi lại cười. Các anh chị trẻ trẻ vẫn
phụ trách
sinh hoạt hè có bị quấy rầy thì cũng còn biết giữ lưỡi trong mồm không
áp dụng
ngay chuyên chính với bọn nhóc, phòng lúc đi với nhau chúng nó biết
được trả
thù réo ê ê thì thẹn mặt. Nhưng khi đã vào khuya thì cả bọn cũng biết
liệu thần
hồn, đi nhẹ nói khẽ cho ngưòi lớn ngủ để sáng mai ra còn đi làm. Song
cũng có
những lúc vẫn mải chơi mà quên khuấy sự đời. Như ngày cuối tuần chẳng
hạn.
Chính trong một đêm như thế Ngân đã xô vào tốc cái vỏ chăn của chị Hoa
hàng xóm
tìm chỗ nấp. Rõ ràng vừa thấy chị sửa soạn chỗ nằm, vừa thấy chị tung
cái vỏ
chăn phủ lên mình tránh hơi sương. Mà sao lúc đó... Chị Hoa chồm dậy
tát bốp
vào mặt Ngân. Trong bóng sao mờ, con bé hốt hoảng thấy mắt chị rừng rực
sáng,
và rúm lại sau mông chị là một thân hình đàn ông trần truồng.
Dĩ nhiên là Ngân lủi một mạch, im thin
thít. Dĩ nhiên là
không có chuyện tổ an ninh dân phố đến lập biên bản. Hồi đó vừa ngừng
bắn và
chỉ thế đã đủ khác lắm những ngày trước đó. Chứ còn thời đánh phá thì
quên đi.
Chắc những chuyện như thế vẫn diễn ra hàng ngày đấy thôi, nhưng vô phúc
mà bị
phát hiện thì... Như là chuyện nhà mấy đứa bạn chơi với Ngân, thân
thiết mà
lạnh lẽo đến nỗi chả đứa nào bị chế với đứa nào. Chưa có lệnh triệt để
sơ tán,
nhưng trẻ con thì đã được lệnh của bố mẹ chơi gì cũng phải loanh quanh
gần mấy
cái hầm. Bố thằng Vũ thằng Thắng là bác Nhật, kĩ sư trên bộ hẳn hoi,
tập kết ra
bắc với cái chân tươi chân héo nên sau đó xung phong bao nhiêu lần mà
vẫn không
được đi B. Bác Nhật có vợ là bác Nguyệt. Bố bảo bác Nguyệt là con nhà
thế giá
lắm, dù chỉ là con vợ lẽ. Chả biết thế giá là như thế nào, song mẹ bác
còn thấy
mặc áo bông gấm dù đã mòn cũ, già rồi mà vẫn guốc cao và bước rất
nhanh, tóc
bao giờ cũng búi độn và khăn nhung choàng ơ hờ quanh vai, lại còn hút
thuốc lá
tự quấn dài ngoằng, và thoa son nữa. Bác Nguyệt không lạnh lẽo và khinh
khỉnh
như bà cụ, song quả bác không giống nhiều bà nhiều cô trong khu. Ra máy
nước
bác không bao giờ giành giật, thấy đông là lặng lẽ cắp chậu về chờ tới
tận
khuya vãn hẳn người mới ra giặt giũ. Người bác mỏng mà thẳng, ăn mặc
thì giản
dị y như mọi người, mà cũng vẫn không hẳn vậy. Vạt áo phin kia nhìn kĩ
thế nào
cũng lấp ló một nét thêu, cứ như là hoa tàn bay rồi đậu lại đó vậy.
Quần lụa
bất kể người ta mốt gấu to hay gấu nhỏ, bác Nguyệt mặc bao giờ cũng kín
gót
chân và là kĩ không để nhăn ở khuỷu. Bác khác tất cả mọi người, nói nhẹ
cười
cũng nhẹ. Mẹ hay nhờ bác cắt quần áo cho để tự khâu tay, có lần bảo bố:
'Em
thân với chị Nguyệt thế mà trước chị ấy vẫn cứ phải giữ lời là làm sao
nhỉ? Làm
sao mà vui thế nào cũng không thấy chị ấy ăn nói tào lao, mình cũng đâm
ra e
dè'.
Lại có lần Ngân nghe mẹ hỏi bố:
- Anh có nghe ông Nhật mê một cô văn
thư trên bộ không? Lạ nhỉ, đàn ông sao mà
dại. Chả biết cái cô
kia thế naò. Nhưng mà em nghĩ khó qua mặt chị Nguyệt được. Chị ấy thật
là người
hiếm. Em mà như chị ấy chắc ba máu sáu cơn từ lâu rồi.
Bố cười:
- Khéo chỉ vì bà chị không biết ba máu
sáu cơn như em, lúc
nào cũng như trăng suông thế mà ông ấy đâm ra thế.
- 'Anh thì chỉ...' - Mẹ buông lửng rồi
lại chúi đầu vào đống
tem phiếu. Không biết mẹ nghĩ gì. Chỉ nhớ lúc chuyện nhà bọn thằng Vũ
thằng
Thắng bùng ra thì câu chuyện về bác Nguyệt lại trở về trong bữa cơm
chiều nhà
Ngân:
-
Nghe nói chị Nguyệt uất lắm, chị ấy báo
cho công an với tự vệ đấy chứ. Có người bảo lúc đó chị ấy đòi đưa cả
đôi ấy ra
trụ sở khối phố để giải quyết.
- Không phải đâu
mẹ. Bác Nguyệt mãi mới gọi
được về. Lúc công an đạp cửa vào con cũng có đó mà. Lúc báo động bọn
con thấy
công an tự vệ vác súng vây cửa sổ nhà thằng Thắng thằng Vũ. Con theo
hai anh em
nó lủi vào nhà đứng mãi đến tận lúc bác Nguyệt về. Thằng Thắng thằng Vũ
sợ mẹ
cứ kéo con ra. Mà con nghe thấy hết.
-
Giời ơi là giời. Báo động chúng mày
không ở trong hầm còn vác xác đi đâu? Ai bảo con vào đó làm gì? Việc
của người
lớn trẻ con biết gì mà hóng hớt. Thế bác ấy bảo gì?
- Bác
Nguyệt bảo chú Phạm công an khối là
sao lại phá cửa nhà bác ấy. Chồng bác ấy nghỉ ốm, đóng cửa nằm nhà cũng
là
thường, khách đến thăm cũng là thường. Bác ấy bảo chú Phạm kiểm tra
xong giấy
tờ khách rồi thì xin để bác ấy nói chuyện với khách của nhà bác ấy.
- ?
-
Bác ấy bảo với cái cô gì ấy đẹp lắm là
bác Nhật sẽ giải quyết ổn thoả mọi chuyện. Thế rồi bác ấy uống nước
xong lại
xách túi đi. Thế thôi.
Bố mẹ nhìn
nhau. Không ai biết câu chuyện sẽ
tiếp diễn ra sao. Chẳng lẽ người ta có thể bình tâm như thế?
*.
Không
ai biết chiều ấy bác Nguyệt cơm nước
đàng hoàng hơn bình thường. Người đàn bà đã
nhắn cậu em trai sống với bà mẹ đến
đón hai thằng cháu,
chuẩn bị cho chúng đi sơ tán với bà ngoại. Người đàn ông tập tễnh đi đi
lại
trong nhà, như một con thú bị dồn đuổi.
- Cô bỏ ngay
cái mặt bao dung đểu kia đi. Tôi có tội, phải, tôi là thằng có tội. Cô
cứ nói
cho hai thằng bé biết, cô cứ ra trước bàn dân thiên hạ chửi thằng Nhật
này như
thế còn tốt hơn là cô vác cái mặt chịu đựng tha thứ kia.
- Mình bình
tĩnh lại. Mình muốn em phải có vẻ mặt đâm lê hay sao? Mình biết rồi, em
không
làm được thế. Em sẽ không bao giờ nói thế, bây giờ, sau này. Em sẽ nói
với các
con rằng ba các con không có lỗi gì với bất kể ai.
Người đàn ông
hổn hển:
- Em nói gì
vậy. Đúng là anh có tội. Nếu họ ập vào muộn hơn một chút thôi thì em
cũng sẽ
không thể bênh vực anh đâu.
- Ngay cả như
thế mình cũng không có tội. Em không biết mình nghĩ thế nào, còn em,
chỉ nghĩ
đến chuyện căn nhà mình ở có thể bị lục soát vì những lí do không dính
gì đến
ai em đã đủ muốn chết ngạt. Bây giờ, cái làm em nghĩ ngợi là mọi sự
phải tiếp
diễn ra sao. Nếu mình không ở đây thì mình có thể thu xếp được chỗ nào
không?
Một
khoảng ngừng đông cứng. Người đàn ông
cúi gục đầu. Cái cẳng chân teo đầy lông lá rũ
rượi dưới gầm bàn. Người đàn bà thở
dài:
- Nếu không
thì để em thưa chuyện với bà, em đưa bọn nhỏ về trên đó ở chung với bà
và với
cậu Việt. Đằng nào bà với chúng nó cũng phải đi sơ tán đến nơi rồi. Để
rồi xem
sao... Có điều mình sẽ khổ ở cơ quan mình đấy. Mà ở trong cái khu tập
thể này
sau chuyện này thì cũng chả sung sướng gì. Nhưng mà thôi, thời nào muốn
làm gì
mà chả phải trả giá. Cô ấy cũng phải trả giá nếu như cô ấy tính chuyện
yêu
thương mình.
Có
một khoảng ngừng ngột ngạt. Người đàn
bà thở dốc:
- Cô ấy được cái là mạnh khoẻ hơn em,
và lại yêu mình. Mình
ạ, có thể là ngày mai nhà mình sẽ không ở chung với nhau, trước khi em
đưa con
đi hay mình đi, em muốn nói với mình... Em xin lỗi mình. Em đã không
yêu mình
ngay từ ngày đó, ngày ta quen nhau... Em cũng không biết nữa. Có lẽ là
như thế.
Sau khi ông ngoại bọn nhỏ mất, nhà xảy đàn tan nghé hết, em đã phải làm
từ đứa
ở làm đi trước khi có lại cơ hội bước chân vào trường học. Hồi đó em sợ
những
ngày đã sống qua, sợ lắm... Và em lấy mình... Trong khi mợ lại bảo em
rằng bọn
mình không thể nào hợp nhau... Mợ bảo đã sống qua cảnh ấy rồi thì không
còn gì
đáng sợ nữa. Em không vững vàng như mẹ. Mợ thì lúc nào cũng vậy... hồi
bố còn sống,
còn chưa bị tù, còn cảnh cả lẽ trong nhà... mà đến lúc bố bị thế, mợ
vẫn cứ như
không. Thôi thì vợ chồng không ở được với nhau, mình coi hai đứa con và
lời xin
lỗi của em làm vốn...
*.
Người đàn ông
hực lên. Giọt nước mắt bất lực và đắng cay không thể nào lăn ra nổi,
lúc ấy, và
cả sau này, khi ông đã mất hết, mất đảng, mất quyền, mất luôn biên chế
nhà
nước, để rồi khi giải phóng thì lọ mọ bò về quê như một thằng dân gì
cũng sợ mà
gì cũng không sợ nữa, vì chả còn gì để mất. Ông sẽ chỉ khóc khi hai
mươi mấy
năm sau ra lại Hà Nội, ngồi đúng chỗ đó, nhìn người vợ cũ đã bị thời
cuộc là
phẳng mà vẫn bình thản và dịu dàng đến độ tưởng chừng bà có một thế
giới khác
để mà sống. Nhưng giây phút đó người đàn bà trẻ con không biết, cũng
không biết
sau buổi gặp lại người chồng không li dị mà xa cách suốt bao năm, bà
Nguyệt đã
qua đường, nước mắt chan hòa núp sau lưng cây đa già khấn cho lòng
người đàn
ông bình thản lại. Ngân cũng không biết ông Nhật chia tay lần ấy với vợ
con
cũng đứng dưới gốc đa, nhìn theo sợi khói ẻo lả tan đi truớc khi vươn
được tới
cái cành gần nhất. Ông cứ nhìn lên, lên mãi, nơi màu xanh trời đan dệt
trong
vòm lá lục, lòng thầm khấn nguyện cho người vợ già được bình an bên
những đứa
con thành đạt mà ông không có công nuôi dạy bao năm ròng. Cây đa với
dân khu
tập thể của Ngân là một chứng nhân mà họ lúc quên lúc nhớ tùy thời
buổi, song
bao giờ cũng tìm về.
Mấy phương
án cho một lưỡi dao
Nó
hình như đã nổi tiếng từ khi thi sĩ TD
dùng để tự cứa cổ
1. Người ta đã vứt nó như bất kì một
vật trở nên vô dụng
hoặc nguy hại nào
2. Người ta đưa nó vào viện bảo tàng,
chỗ dính máu là chỗ rỉ
trước nhất
3. Người ta giữ nó sáng loáng
20.
Người cha có
lẽ là người cuối cùng của khối cư dân lâu năm trong khu tập thể đã tìm
tới bóng
đa già. Cứ như là phản ứng tự vệ, ông gần như chả bao giờ để mắt tới
mùa đi qua
vòm đa. Có những ngày cây đa trút lá, khoảng phố đột nhiên quang hẳn,
sáng
bừng, mới mẻ. Có những ngày vòm đa lướt mướt tối sẫm lại vì mưa dầm. Có
những
ngày công an phường làm cho mấy bà bị coi là mê tín đứng tim vì kế
hoạch giải
tỏa khói hương theo những quyết nghị nọ kia chả ai biết tới. Và lại có
những
ngày sâm sẩm tối ông băng qua đường tới ngồi vào một trong những cái
ghế con
của hàng chè chén dựng dưới gốc đa, gọi một chén chè, thêm cái kẹo dồi
chó cho
con gái út, và ngẫm nghĩ. Không có gì liên quan tới cây đa chạm được
vào ý nghĩ
của người cha, dường như là thế, nếu không có những lúc nổi cáu bất ngờ
khi vợ
con đùa rằng ông chạy một mạch từ cây đa Tân Trào về tới cây đa Nhà Bò
này thì
dừng. Sẽ đến ngày những đứa con của ông đi xa và chĩ mãi tới khi ấy
người cha
mới trở về nơi đó lia camera lưu giữ cho con vòm cây nhớ thương.
*.
Giữa mấy mươi
năm, có một lần ông đưa chân ông phó giám đốc cũ từ miền Nam ra thăm
lại nhà
máy và bà con khu tập thể tới tận gốc đa già, đứng đó bùi ngùi. Ông
Thản trông
khắc khổ, nước da sạm lại khác hồi còn ở nơi này. Ông đi quanh quẩn
khắp khu
tập thể, dừng chân trước những bãi đất trước kia chỉ là cái kho tạm
chứa nguyên
liệu làm giấy than, mực, nến tráng giấy dầu hay những ngách nhỏ nơi đặt
cái
chuồng gà cải thiện của mấy gia đình đông con, lắc lắc đầu. Khu tập thể
bây giờ
chật ních người là người. Trẻ con lớn lên, đi làm đi ăn rồi, chồng vợ
cả rồi mà
không đủ sức rút cẳng ra khỏi nơi này. Những công nhân nhà máy năm xưa
nhà bị
bom được thu xếp về ở tạm nay đóng đô chặt lại ở đây. Và những cư dân
mới không
biết gì về những năm tháng xa xôi ấy. Ông Thản đi loanh quanh, ngần
ngừ, chỉ
tạt vào nhà ai là người thân quen cũ.
Bố
giục Ngân pha nước, ngùi ngùi:
- Anh ra bao
giờ? Tôi có nghe anh em nói anh về thăm nhà máy mà tiếc hôm đó không
gặp được
anh.
- Cũng được
gần một tuần rồi anh ạ. Chắc cũng là lần cuối cùng. Già rồi, nghĩ
chuyện đi là
ngại. Nhưng không đi thì lòng dạ cứ nôn nao.
-
Bao giờ anh lại vào trong đó?
-
Cũng định ở chơi lâu lâu, mà bà nhà tôi
dạo này hay mệt, lại còn mấy nọc tiêu...
-
?
- Tôi không ở
Sài Gòn anh à. Hồi bảy lăm
chuyển công tác vào trỏng, hai đứa nhỏ nhà tôi cùng vào nhưng ở lại Sài
Gòn,
còn tôi thì về Tây Ninh tìm bả.
-
Thế ạ...
- Hồi trước
tôi có đọc lí lịch anh. Ngày đó không phải lúc nào tôi cũng tin vào
những điều
đã đọc đâu. Còn giờ thì tôi nghĩ tất cả là số phận anh à. Tôi nghiệm ra
cứ muốn
sống lành là chẳng thể nào sướng nổi. Được cái là sau đó suy đi tính
lại vẫn tự
bằng lòng được ít nhiều với mình.
- Tôi biết là
ngày đó anh biết cả về tôi và thông cảm lắm với tôi anh Thản ạ. Giờ anh
đã nghỉ
rồi, tôi cũng chỉ làm việc đôi ba ngày nữa, có lẽ anh em mình chả còn
dịp nào
gặp lại nhau, anh cho tôi nói lời cảm ơn anh. Anh không biết đâu, hồi
đó, những
lúc nhìn quanh so tính, tiếc cho mình, tủi cho vợ con, tôi lại nghĩ tới
anh,
tới cách anh cư xử với mọi người và lại hồi tâm được.
- Thôi mà
anh...
- Thế hai
cháu nhà anh độ ấy?
- Con đầu
trước là y tá miền, hồi ra bắc mang theo đứa con anh biết rồi. Chồng nó
hi sinh
trước giải phóng, nó về được cho đi học tiếp, giờ là bác sĩ, đậu gạo
nấu cơm
chung với một thằng trước là bạn chồng nó. Mà cơm không lành canh không
ngọt
anh à. Thằng rể tôi quyền chức, quên hết rồi, đến hồi rồi phát hiện ra
bị gan
thì mới biết nhớ ngày gian khổ. Vợ chồng hòa lại được với nhau, nhưng
mà trong
cảnh ấy... Còn con út, cái con bị thương vào mắt ấy anh, cái con ngày ở
ngoài
này cứ làm ầm ĩ chuyện cô Tam, hồi về nhất quyết không cho tôi gặp mặt
má nó.
Khổ, con mỗi đứa mỗi tánh anh à, cái con út nhà tôi thì hiểu ba nó hay
không
hiểu cũng cứ làm tôi rối ruột.
- Tiện anh kể
chuyện, anh cho tôi tò mò... Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh phải
không anh?
- Có gì đâu
mà anh phải rào đón. Bà nhà tôi hồi tôi biệt tích có hai đứa con với
ông sau
này anh à. Cũng anh em đồng chí cũ với mình mà chiêu hồi. Nói theo kiểu
bên
mình thì ổng tội to nhưng phải nói là không hành hạ gì hai đứa con tôi.
Mà con
út nhà tôi thì cứng đầu lắm, bỏ học, hoạt động thành. Sau này con chị
nó nói
lại hồi đó nó thoát cũng là nhờ ông ta. Chứ... Ông ấy quả thực có lòng
với má
nó anh à. Mấy ba con ông ấy di tản từ hồi đó. Bà nhà tôi thì nhất quyết
ở lại.
-...
- Mà bả cũng
không có chịu gặp tôi. Con út về
tìm má nói gì đó, bả bỏ về Tây Ninh, lên chùa, xuống tóc đàng hoàng.
Tôi xin
chuyển công tác từ Sài Gòn lên đó, mấy năm ròng, đả thông hết má đến
con. Bây
giờ bả về với tôi rồi, nói thực với anh sống cũng ngậm ngùi, có cười
được chăng
là lúc con cháu ngoại từ Sài Gòn về chơi. Chẳng qua cũng vì hoàn cảnh.
Dù gì
thì bả cũng có công nuôi nấng các cháu không có tôi phải không anh. Mà
cái tình
cái nghĩa nó là gì không biết mà dứt cũng không phải dễ.
Ông
Thản cười, đôi mắt đã đục nhìn bình
thản:
- Ông chồng
sau của vợ tôi với hai đứa con vừa rồi gởi thư về. Bà nhà tôi cứ như
mất hồn.
Tôi mới bảo bả lo việc nhà cho tôi đi thăm anh em cũ. Cứ sốt ruột, e bả
nghĩ
tôi bực dọc điều gì.
*.
Khi đó người
đàn bà trẻ con làm gì nhỉ? Pha xong nước mời khách, Ngân bê rổ rau bí
ra lan
can ngồi tước. Hơi mưa từ cái mái tôn cơi nới của nhà tầng dưới hắt
ngược, ẩm
ẩm tanh tanh. Cái giọng lù rù gần như mất hết dấu vết ngôn từ Bắc của
ông Thản
vọng từ sau lưng lại chen với tiếng nói loé xoé của mấy bà hàng xóm vừa
đi chợ
về làm lòng Ngân nặng trĩu. Bao nhiêu mùa đã đổ xuống trên những bước
chân đi
qua cuộc đời như thế này.
Lại vẫn là
buổi chiều. Cuối hè. Hừng hực nóng. Bọn trẻ mang nhau ra đầu hồi nhà
cao tầng,
chính phía có căn phòng của ông Thản. Chỗ đó xưa là sân chơi, bể nước
ngầm và
vườn hoa rực rỡ. Nay, điện nước phập phù không bơm lên các tầng được,
một ông
thợ đục ống bắc ngay cái máy nước cho cả xóm dùng tạm rồi thành vĩnh
viễn. Khu
tập thể cũng không còn vườn hoa nữa. Vườn hoa đã bị phá để lấy mặt bằng
xây
thêm mấy dãy nhà cấp bốn cho công nhân nhà máy nhà cửa sạch bách vì
bom. Đội
quy tắc thành phố vẫn hoạt động song không còn riết róng phạt những nhà
chăn
nuôi trái phép. Các nhà con đàn nhất loạt bung ra trấn tất cả những
ngóc ngách
nào nhà máy không sờ tới để tăng gia sản xuất. Con gái thì vừa xếp hàng
máy
nước vừa tranh thủ đan móc hàng gia công đỡ gia đình. Con trai lăm lăm
cái vợt
sục sạo mấy cái cống để vớt bọ gậy về nuôi cá. Cái Hải con chú Triều
chiều nào
cũng phải ngồi ôm cái chậu tôn cũ xin vo gạo cho bà con cả dãy lấy nước
về nuôi
lợn chợt ngước lên:
-
Com măng ca vào nhà ai chúng mày ơi!
Những hai cái kìa!
- Đâu đâu? Đi
về dãy mình đây này. Chị kia trông như giao liên quân giải phóng ấy
chúng mày
ạ. Vào nhà ai nhỉ?
Hai cô
gái, cô đầu dắt theo một đứa con gái
chừng ba bốn tuổi, quần đen và áo bà ba xanh, cắt bằng thứ vải gì trông
cưng
cứng và nhóng nhánh như nilon, cô thứ hai trông chỉ như vừa qua tuổi
lớn, cũng
bà ba nhưng một màu đen. Cả hai cô đều đội mũ tai bèo. Xúm xít xung
quanh toàn
là đàn ông có tuổi. Ông người gầy gầy xăm xăm đi trước dẫn đường. Lũ
trẻ vội
vàng dẹp bớt xô chậu rổ rá lấy chỗ cho đoàn người.
Tiếng khóc
dậy lên từ cánh cửa ngay sau lưng
làm lũ trẻ kinh ngạc. Bọn con trai lập tức quăng vợt tiếp cận mục tiêu
mới.
Thỉnh thoảng lại ngoái cổ thông tin cho cả lũ con gái ra chiều ý tứ vẫn
tụ bên
đống xô chậu song bao nhiêu tâm trí đã để hết vào những tiếng xôn xao ở
sau
lưng.
-
Con bác Thản chúng mày ạ.
Đứa đứng gần lũ
con trai nhất nhanh nhảu
truyền tin. Cả lũ hóng cổ lên nghe.
-
Nhưng sao khóc như đưa đám thế? Bố mẹ
tớ kể bác ấy biết tin con ra mấy hôm nay rồi cơ mà.
- Từ từ đã
nào. Hôm nay ủy ban Thống nhất mới đón được các chị ấy đưa đến đây. Bác
Thản
cũng khóc chúng mày ạ. Nhìn kìa... nhìn kìa... Hai chị ấy cũng khóc...
Nghe
nào... Chị đầu chồng quân giải phóng hi sinh rồi. Con bé kia là con chị
ấy
đấy... Đẻ ở rừng. Chị kia... chị kia chột mắt chúng mày ạ. Dũng sĩ diệt
Mỹ. Thế
là diệt được mấy thằng nhỉ?
Thằng Tuân
đầu gấu nhất bọn tuột từ trên gờ tường sát cửa sổ nhà bác Thản xuống
bần thần
vì câu hỏi mới tự đặt ra cho mình. Cả lũ cũng bần thần. Không phải vì
cảm động
xót thương mà là vì ý nghĩ bên kia bức tường có một dũng sĩ diệt Mỹ
đang ngồi,
đang nói những chuyện hết sức bình thường. Dũng sĩ diệt Mỹ! Là cái gì
chỉ giống
như là một khái niệm, một nhân vật trong sách mà cả lũ vẫn chuyền tay
nhau, gần
gũi hơn thì cũng vẫn chỉ là những cái tên trong truyện thiếu nhi hay
trong các
bản tin đài báo thường đưa. Đoàn anh hùng dũng sĩ miền Nam ra thăm miền
Bắc,
đến thăm Bác Hồ. Hồ Văn Mên, Nơ Trang Lơn, Hồ Thị Thu, A Vai, Kan
Lịch... Một
con người như thế, từng đặt chông, ném lựu đạn, bắn súng, vừa đến đây,
mang
trên mình dấu tích của cuộc chiến tranh còn chưa đi qua hẳn, nhưng với
cả lũ
thì vẫn rất xa xôi, dù tất cả đều đã từng nếm mùi sơ tán. Một con người
như thế
đang ngồi khóc thút thít trước người cha lần đầu gặp mặt, và cái chính
là chị
dũng sĩ ấy thật ra chỉ hơn cả bọn có vài tuổi bọ.
Kể từ hôm đó
nhà bác Thản tuần nào cũng thấy đông người. Hai chị con gái bác đã làm
cả khu
tập thể quen dần với những bộ bà ba may từ thứ vải gì chất như nilon
nhóng nha
nhóng nhánh, với chiếc mũ tai bèo đội hờ trên đầu và đôi dép Thái Lan
lệt xệt
dưới chân. Rồi các chị ấy cũng dần dần mặc y như mọi người, nón lá thay
vì mũ
tai bèo, quần lụa áo hồng kông thay bộ bà ba lạ mắt. Mỗi lần về thăm
bố, các
chị lại ríu rít dắt nhau đi chợ và từ cửa sổ sát máy nước nhà bác Thản
mùi mắm
thơm lựng tỏa ra. Nhưng bác Thản sau những ngày con về trông lại thêm
âm thầm.
*.
Con bé Hằng
An biết rõ nó không phải là con bác Thản và chính vì thế mà nó gọi bác
là ba
một cách hết sức tự nhiên một hôm bảo với Ngân:
- Em không
gọi ba Thản là ba nữa đâu.
- Tại sao?
Bác Thản vẫn gọi em là con cơ mà.
- Tại chị
Hằng Tâm ấy. Chị ấy chủ nhật
vừa rồi tự dưng mò vào nhà em mắng mẹ em xơi xơi. Chị ấy tưởng cái dũng
sĩ diệt
Mỹ của chị ấy là to, mà giờ mới học lớp bảy ở trường văn hóa dành cho
con em
miền Nam, hơn em có hai lớp. Mẹ con em làm gì chị ấy nào. Mà mẹ em cứ
ngồi yên
nghe. Tức quá.
- ...
- Em bảo mẹ
em đổi tên cho em mà mẹ bảo không được. Khi nào lớn em sẽ tự đổi tên
đổi họ để
ba Thản đỡ khổ. Chị Hằng Tâm cứ một mực bảo mẹ em có gì với ba Thản thì
tên em
mới là Võ Hằng An, lại còn bảo mẹ em nếu còn để ba Thản qua lại thì sẽ
báo cáo
với nhà máy rằng nhà em lợi dụng. Đi mà báo cáo.
- Kệ chị ấy.
Ai chả biết là...
- Có mỗi chị
Hai nhà ba Thản tốt. Chị ấy ngay sau hôm ầm ĩ cũng vào nhà em. Chị ấy
nói gì mà
sau đó cả mẹ em và chị ấy cùng ngồi khóc chị Ngân ạ. Chồng chị ấy mới
hi sinh
đấy chị Ngân biết không?
- ...
Thôi, có bài nào hỏi thì đưa ra đây.
Chị sắp phải về rồi. Mà em cũng đừng có chõ mũi vào việc của người lớn
làm gì
rồi khéo mẹ lại mắng cho đấy.
- Em chả sợ - Con Hằng An cười khì khì
- à mà chị ra đây em
cho nghe. Bên kia tường nhà em có hàng xóm mới đấy. Có điều chả quen
được nhau.
Nhà máy xây nhà kín thế này giờ chả chạy qua bờ đê xem mặt người ta
được nữa.
Có đến mấy nhà ấy chị ạ. Chả biết ở đâu về. Cứ về lại rì rầm rì rầm cãi
nhau,
mẹ em đập vách bảo hạ giọng thì lại vâng ạ vâng ạ lia lịa.
Cô Tam ở cùng
bé Hằng An trong cái ngách nhỏ sát bờ đê, nơi có chuồng lợn nuôi vụng
của mấy
nhà đông con, vẫn ra vào một ngõ chính với cư dân khu tập thể, song gần
như
biệt lập với cả khu. Nay nhà cô có hàng xóm chung lưng, dẫu ồn ào song
con Hằng
An thích là cũng phải. Nó chỉ không biết rằng mấy mái giấy dầu ấy sẽ là
những
số nhà đầu tiên của một xóm liều kéo suốt một triền đê, nơi những chàng
Tây ba lô
sau này cứ chạng vạng là lần tới và từ đó sẽ vọng qua khu tập thể những
tiếng
thì thầm âu yếm, mặc cả và cãi chửi tưng bừng ai nghe cũng đoán được
hết nội
dung dù chỉ hiểu đúng một phần tiếng Việt. Nó, và cả Ngân nữa không bao
giờ ngờ
rằng đấy sẽ trở thành một phần đời con Hằng An nhiều năm sau này trước
khi con
bé quắp một thằng Phần Lan bắt phải mang nó bay đi. Và trước khi bay
đi, một
đêm khuya lắm con Hằng An đã ra gốc đa già trong cái nhìn vừa nghi ngờ
vừa
khinh bỉ vừa đầy vẻ trêu ghẹo của mấy chàng công an phường trực ở đồn
công an
bên cạnh, đứng đó chìm đắm mãi trong bao nhiêu ý nghĩ.
Này
là tiếng tom
Nỉ non
tiếng đàn
Này là
tiếng chát
Mấy người
ngồi bên
Này là
khói hương
Hồn tôi
nhập đồng
Những
dải lụa màu phấp phới bay
Nghiêng
đời đổi lấy cơn say
Vô thần III
???
21.
Hồi còn
con gái người đàn bà thường tiễn bạn
ra tận ngoài phố, đứng bên này đường đối diện cây đa chuyện vãn tiếp.
Bạn gái
có khi còn tạt sang đường sà vào hàng quà rong, cắn ngập răng vào quả
táo Thiện
Phiến xanh ưng ửng chấm với muối ớt, chua chua mặn mặn cay cay, cười
phá lên vì
một câu chuyện không đầu không cuối. Còn với đám con trai... Đôi khi,
chỉ đứng
vậy, tay đặt hờ trên ghi đông xe đạp của bạn, ngước nhìn cây đa già và
nhìn vào
mắt nhau, lặng yên. Phố xao xác người xe, vỉa hè chưa có nhiều người
bán hàng
rong đỗ gánh như về sau này. Mùa đông, mây xám giăng theo chiều gió
bấc, co ro
trong cơn gió mùa mới tràn về hào phóng thổi, mà sao lòng cứ phơi phới
và ấm áp
khi soi vào đáy mắt nhau. Còn những mùa hè, gió nồm nam thốc từ ngõ ra
lùa
trong áo mỏng, khiến rùng mình bất chợt khi chợt nghĩ rồi có thể sẽ là
như thế,
những ngón tay nhau. Những ngày âu yếm quá. Những điều không cần nói.
Những
khát khao không lời vẫn cưu mang dẫu khó nghèo cùng cực. Những gương
mặt gầy và
mắt sáng. Bao nhiêu băn khoăn cơm áo gia đình tưởng chừng quên được cả.
Tưởng
chừng quên được cả những chuyện đời rối tinh xoè vẫn ngày ngày nghe
thấy nhìn
thấy. Quên được cả cái ngày mai phải ra trường chưa biết sẽ về đâu.
Sau này
nhiều khi Ngân kinh ngạc. Hồi ức về
ngày tháng cũ giống như bếp lửa đã vạc rồi, tàn tro phủ kín rồi mà
thỉnh thoảng
lại hực lên một màu than đỏ. Sao nhiều reo vui thế, sao nhiều nỗi im
lặng xôn
xao. Chiếc áo vá suốt chiều đem mặc tối thứ bảy ngày ấy chưa bao giờ
làm Ngân
mặc cảm, nếu không nói là còn ngấm ngầm kiêu hãnh trước mấy đứa bạn gái
ăn chơi
rất đỗi nhiệt tình. Cả mái tóc dầy và bóng chưa bao giờ được âu yếm
cuốn trong
mấy cái lô. Cả cặp lông mày rậm rất không hợp giống số và cách như bọn
bạn
thường đùa. Tất cả. Trong khi trầy trượt chuồi theo đời sống, trong khi
khó
nhọc gạt khỏi lòng bao nỗi lo sợ và khắc khoải trước tương lai nhìn
chung là vô
vọng như cả lũ một năm sau khi ra trường đã có lần ngồi phân tích tổng
kết, một
cách hoàn toàn bản năng, người đàn bà trẻ con vẫn cố giữ lại cho mình
một chút
gì, có lẽ là dớ dẩn, nhưng nhờ thế mà còn giữ được cảm giác mình chưa
bị xã hội
hóa hoàn toàn.
Chỉ có
điều chính cái cảm giác mình vẫn còn là mình đó lại làm Ngân phiền
muộn, sau
những lúc phải đối mặt cùng quá khứ, cùng một người bạn cũ đã đi qua
đời mình.
Như lần gặp lại Vĩnh hay Phan. Lần nào cũng như lần nào, ngẫu nhiên, mà
họ
không bao giờ có được cái giọng của những người ngẫu nhiên gặp lại. Bao
giờ
cũng vẫn là cảm giác đó, cảm giác vừa chia tay nhau mới hôm qua, đột
hiện và
biến mất, nhường chỗ cho ý nghĩ về thực tại, nên trong mừng rỡ bao giờ
cũng như
chứa chở một chút gì buồn bã lắm.
Vì
thời gian trôi không chờ, không chờ ai. Người đàn bà nay đã mỡ màng ra.
Vẻ mỡ
màng đã mang cái nẫu nẫu của tuổi, trong ánh mắt bình thản và mệt mỏi,
trong
làn tóc bớt dần độ bóng buông uể oải trên vai, và cái chính là trong
những ý
nghĩ không hẳn là hài lòng với đời mình, nhưng cũng không còn những xót
xa điên
cuồng vì khao khát vẫn cưu mang. Khao khát, thì vẫn là khao khát. Nhưng
người
đàn bà trẻ con đã nhiều lần hiểu ra rằng vẻ đẹp của khao khát chính là
ở chỗ nó
chẳng bao giờ thành, và nếu như mình đã trải đời thì cũng chỉ là đủ để
hiểu ra
rằng không bao giờ còn có thể tự tin như từng thế, những mùa thu cũ.
Chính là vào lúc
đó, lúc yên tâm với đoạn đời
sắp sống. Ngân đã gặp lại Phan. Lần đầu tiên hai
người trò chuyện lại với nhau kể từ buổi
chiều giông gió ấy. Nhưng lần này: bắt buộc.
- Xin giới
thiệu với các anh chị: nhà tôi. Em! Anh.. bên... Chị bên... Các anh chị
đây
bên... Đây anh Phan - Giám đốc bên đối tác với bọn anh.
Tại sao
hai người phải chờ chồng Ngân giới
thiệu mà không ồ à mừng rỡ ngay nhỉ. Phan nắm bàn tay Ngân:
- Cảm ơn anh đã
có lời mời cho tôi gặp lại
bạn tôi. Chúng tôi là bạn học phổ thông ngày xưa đấy các anh chị ạ. Anh
Hoàng
không biết nhỉ: hồi bọn bạn cùng lớp viết thư kể chuyện Ngân đi lấy
chồng, tôi
đang làm chuyển tiếp sinh ở Nga, mất ăn mất ngủ mấy tháng đấy. Xây bao
nhiêu
mộng thế mà đến nay phải gọi người là cố nhân.
Phan cười cởi
mở. Nét cởi mở chuyên nghiệp
quá làm Ngân lạ lùng. Nhưng mà câu thơ xưa vừa lẩy, và bàn tay Phan
đang bóp
nhẹ tay Ngân đây là thật. Thật Phan chăng?
Chồng Ngân cười
hồ hởi, lại cũng nét hồ hởi
đã được giới ăn cơm văn phòng chuyên môn hóa.
- Vậy là người
nhà của bọn tôi rồi. Em này,
em nói chuyện với Phan nhé. Anh bạn trẻ của em thế là có cơ hội để khỏi
phải
trăm phần trăm với bọn anh rồi.
*.
- Bao nhiêu
lần bạn bè cưới hỏi đúng dịp Phan về thế nào mà bọn mình toàn trượt gặp
nhau
nhỉ - Phan mở lời - Hồi cưới Việt lần hai, Phan còn cắt phép bay về làm
phù rể,
không ngờ không được gặp Ngân.
-
Ngân sinh con đầu hồi đó mà Phan. Có
được xem ảnh Phan hộ tống Việt hôm đó. Nhà dâu nhà rể đón nhau long
trọng cứ y
như nguyên thủ quốc gia gặp nhau ấy nhỉ. Thiếu mỗi màn ôm hôn. Chẳng ai
ngờ...
- Biết sao
được Ngân. Có gặng hỏi nhau, Việt bao giờ cũng nhận hết mọi lỗi lầm về
mình
trong mọi cuộc hôn nhân của nó, mà lỗi lớn nhất với tất cả các bà các
cô đi qua
đời gã là gã không yêu, không thể nào yêu.
Ngân
cười nhẹ, nhưng giọng nói đột nhiên
thẳng thừng:
- Phan làm
như... Chẳng lẽ thiên hạ ở được
với nhau lâu bền là bởi yêu nhau lắm lắm sao?
- Phan
không biết. Nhưng rất có thể vì không
yêu nhau hoặc không yêu nhau nữa mà người ta lại sống được với nhau.
Chẳng hẳn
là ý thức trách nhiệm gì đâu. Cái chính là biết mình muốn gì ở người
kia. Việt
ta đi tìm tình êu. Chắc gã tưởng vẫn còn có thể tìm nó ở đâu đó sau khi
đã mất.
- Thế thì
quý quá chứ sao. Là nói cái ý nghĩ
đó của Việt ấy - Ngân dịu dàng, nét cười thành xa vắng. Làm sao có thể
kể cho
Phan hay rằng Việt vẫn rủ Ngân đi uống cà phê, vẫn kể cho Ngân những ý
định bỏ
vợ và cưới vợ, nhưng chưa bao giờ Ngân hỏi, và chưa bao giờ Việt nói vì
sao?
Như là chuyện của ai ai, như là chuyện dĩ nhiên phải thế. Mà biết đâu,
Phan
cũng biết tất cả về những lần gặp gỡ ấy. Và tại sao Ngân và Phan chưa
bao giờ
gặp nhau như Ngân thường gặp Việt? Có phải vì không dễ dàng gì nói
chuyện với
nhau sau tất cả những tin yêu đã thầm lặng cho nhau, và bởi thầm lặng
nên không
thể trách cứ nhau một điều gì, dù Ngân đã buồn đến thế. Những đêm một
mình lang
thang, bóng Việt đằng xa, góc phố, nỗi buồn nhớ những dòng thư từ Phan
không
bao giờ nhận hay gửi nữa, mùi hoa sữa bồn chồn sương mưa đầu thu. Người
đàn bà
nghe sống mũi cay cay và phải cố lắm để luồng hơi rất nóng đang cuộn
dần lên
trong ngực không dồn lên cổ, không phụt ra nghẹn ngào.
-
Phan giờ về làm việc hẳn trong nước à? Có
tính đưa cả gia đình về luôn không?
-
Còn gia đình đâu mà đưa về. Cô ấy nuôi
hai đứa nhỏ. E chừng rồi không còn nhớ được tiếng Việt nào nữa. Hồi
trước cô ấy
và ông bà bên cô ấy bực Phan lắm vì nói với con bằng tiếng Việt. Họ
nghĩ chả
cần. Đằng nào chúng nó cũng mang nửa dòng máu tây, lại quốc tịch tây và
sẽ lớn
lên, sẽ học hành nơi đó. Kể thì mọi người cũng có lí. Nhưng mà Phan
không thể
nào chịu nổi cảm giác tiếng của mình chỉ vì đất nước mình không là gì
trên thế
giới này mà nó mất ý nghĩa là tiếng của cha của mẹ và cũng cần phải
học.
Ngân cười
tinh quái:
-
Thì lại lấy vợ, sinh con, và lại dạy con
tiếng Việt. Giờ là ông chủ Việt kiều yêu nước dùng rồi, hoa hậu còn khó
chứ á
hậu hay người đẹp người mẫu các kiểu thì khó gì. Chỉ không biết Phan có
đi tìm
tình êu như Việt không thôi.
- Lại cái
kiểu đó rồi. Ngân vẫn không thể
dịu dàng với bọn Phan được à? Phan không phải là Việt. Vả chăng, tình
yêu chưa
bao giờ mất đi trong lòng Phan. Hoặc giả là người ta có thể yêu nhiều
người
khác nhau, nhưng bằng những tình yêu khác.
Phan nói và nhìn thẳng vào mắt bạn.
Ngân im bặt. Nghe gió từ
những mùa lặng im xa lắm thốc dần lên trong lòng. Những tần ngần thắc
thỏm nào
trong một mùa nắng hạ. Khoảng trời nào quang quẻ vì cơn bão sớm vặt
trụi cành.
Cơn giông nào đã nổi trên hàng tre bên xóm vắng. Ngọn gió nào thì thào
trong
vòm đa đầu ngõ lúc tiễn chân nhau. Và góc phố Bà Triệu Trần Hưng Đạo,
vào
khuya, xe nước mía lọc cọc dọn về. Lá sấu rơi đầy trên lối, xao xác
dưới chân
Ngân, như tiếng vọng những xao xác trong lòng Ngân về người đàn ông giờ
đây
đang ngồi trước mặt - người con trai đã cùng Ngân lùa chân vào đống lá
sấu khô,
đêm trước ngày đi năm ấy, không một lời thề ước, chỉ gửi thư rất đều,
rồi bỗng
dưng thôi. Chỉ có thể đoán vì sao, một điều gì không cụ thể mà ám ảnh
bạn như
là mong mỏi về ngày sống bình ổn, thôi những toan lo vụn mọn, và thôi
luôn
những day dứt về hạnh phúc. Ngân nhìn bàn tay mình, đốt khô khô tố
tuổi, rồi
ngẩng nhìn Phan. Từng đã có một ngày mênh mang đến thế sao? Từng có một
ngày
hiểu nhau tận cùng đến thế? Để bây giờ như thể chẳng hề xa?
*.
Chiều vào đêm, có bao giờ không thế
Khoảnh khắc
bất kì - anh đã bên em
Lại mơ ước
thanh xuân, lại cầm tay, lại sẽ...
Lại sẽ nhìn
nhau, lại sẽ nhìn.
Chiều đã mòn dần: bóng tối
Bây giờ em ở
đâu?
Dĩ vãng trong
anh không phải là dĩ vãng
Anh vẫn còn mong
em.
*
Họ vẫn có thể
lại ngồi lặng im như thể thời
quá khứ đang tiếp diễn nếu góc phòng đằng kia không rộ lên những tiếng
cười đã
bắt đầu sền sệt trong men rượu. Chồng Ngân trịnh trọng bê lại mấy chiếc
li, màu
rượu vàng sóng sánh quanh đáy thủy tinh trong vắt:
- Nào em. Nào
ông Phan. Mừng tình bạn hội
ngộ. Mừng mối quen biết giữa tôi và ông có nền tảng gia đình vững chắc
thế này.
Ít thôi. Một chút men làm phép ấy mà, em đừng sợ. Em cứ yên tâm ngồi
lại, anh
vừa gọi điện về Osin bảo cho các con đi ngủ trước rồi.
Con! Thoắt cái
người đàn bà lại là mình, chỉn
chu phép tắc, cựu giáo học, đương kim công chức kiêm vợ quan chức, chủ
một ngôi
nhà mà ở đó hai đứa trẻ dẫu có Osin lo liệu vẫn đang ngóng mẹ về. Trừ
những khi
phải đi công tác, Ngân bao giờ cũng ở bên giường con, lắng nghe những
câu
chuyện về lớp chính lớp phụ của chúng,
về những cuộc thi đua ở trường ở lớp, cười cùng chúng và xót xa bởi con
phải
quay hết sức mình trong cái guồng học và dạy từng ngày. Đứa con gái đầu
lòng
của Ngân nay đã mười ba tuổi. Chỉ một năm nữa thôi là nó sẽ bằng Ngân
ngày vào
cấp ba, ngày thân với Vĩnh, Việt, Phan. Một cách bản năng, Ngân vừa
khao khát
cho con sau này có được nỗi nhớ về những tình bạn đẹp, như là Ngân đã
có, vừa
sợ hãi, bởi biết rồi ra như thế sẽ đau đớn lắm. Dĩ vãng buồn và đẹp có
thực ai
cũng cần không? Và liệu con mình có biết rứt ra khỏi dĩ vãng mà sống
cho nhẹ
nhõm?
*.
- Thế cái
lô đất ấy ông đã lo được sổ đỏ
chưa? - Chồng Ngân - Xây nhà ở đó giờ là lí tưởng. Tôi tính còn hay hơn
khu nhà
tôi bây giờ. Cứ bảo có nhà ở hồ Tây, nhưng hồ thì cứ mỗi ngày một hẹp
vì đủ thứ
nhà nổi nhà chìm, muốn nhìn xa hơn thì đủ thứ chóp tròn chóp nhọn chọc
tức cả
mắt. Mạn Phú Thượng xa hơn một chút, nhưng rộng rãi hơn, nhìn sông có
triển
vọng hơn nhìn hồ ông ạ.
- Chưa xong anh
ạ. Khu đất tôi mua thuộc mấy
chủ, đâm phiền. Chủ đất đi lo sổ đỏ về kể vừa ra tới xã là người ta đã
hỏi bán
đất phải không? Tôi phải ứng tiền thêm cho họ nộp lệ phí công với tư.
Mấy ông
cán bộ xã nhà mình làm tiền kiểu này kinh thật.
- Bạo phát
bạo tàn ấy mà. Cả đời không có,
đến lúc có thì ngập lụt, mấy ai tỉnh được hồn. Ngày xưa ông xây bố đắp
con bồi,
giờ nhiều vị bố xây con phá. Cũng mệt.
Câu
chuyện vừa ròn rã vừa chủng chẳng.
Ngân im lặng, giữ một nụ cười vô cảm như mỗi lần tham gia vào chuyện
làm ăn của
chồng, bàn tay xoay xoay cái cốc. Giọt rượu còn đọng lại lăn lăn. Như
là hổ
phách trong cái vòng chú Thái cho hồi nào. Cái vòng đó hồi sắp thi đại
học
thiếu tiền học thêm Ngân đã tiếc rẻ đưa chú Thái gia công lại và bán
hộ. Giờ nó
ở đâu? Trên cổ tay ai hay đã tung toé dưới đất cùng sỏi đá. Còn chú
Thái thì
nghe nói vẫn ở chỗ cũ. Con cái làm ăn nay đã mua lại cả dãy nhà ngang
phá ra
xây biệt thự to vật vưỡng chẳng kém gì ngôi biệt thự cũ sát mặt phố,
nhưng
không cửa cuốn mà là ốp kính mặt tiền gần như toàn phần, dành hẳn một
phòng
tầng trên cùng, cửa số sắt dẹt bao chặt bảo đảm an ninh cho bà mẹ dở
người. Vậy
là những người chủ cũ đã không còn muốn nhớ. Cũng phải thế thì mới có
thể đi
qua từng ngày chứ. Chưa bao giờ Ngân hiểu ra ý nghĩa của thời gian một
cách cụ
thể và đáng sợ đến như lần nghe bố kể về sự đổi đời lần này của gia
đình chú
Thái. Chẳng phải là con người mà chính thời gian tạo nên trật tự, trước
hết là
trật tự trong lòng người. Vậy là cả hai biệt thự đều rất to, rất đẹp,
nhưng
không có vườn. Phố không vườn. Còn đâu những mùi huơng khuya khoắt,
nồng nàn
như những đam mê? Người ta nay không còn thích là người ở phố. Cứ bốc
lên là
xoay ngang ra tìm đất ven đô. Nhưng mấy người trên tiền để dám có ý
thích như
thế. Đời nọ đời kia sinh sôi và tiếp tục đùm túm lấy nhau trong những
căn phòng
xuống cấp. Như là trong cái khu tập thể cũ của Ngân nằm đối diện với
cây đa mà
nay chỉ có bố thỉnh thoảng đảo về thăm.
*.
- Thế nào mà
một ông chủ đất Phan mua lại là hàng xóm của nhà Ngân ngày trước đấy.
Ngân còn
nhớ ông vác súng đòi bắn tay hàng xóm trèo tường vượt giường vợ ông ấy
không?
-
Tay nào
bất khuất gớm? Ai dám đánh đồn kiểu đó khi không có tay trong nhỉ?
Ngân nhíu
mày. Chẳng có gì để có thể bình
luận vô cảm thế, dù thật là đúng. Phan nhìn Ngân, không trả lời câu hỏi
bâng
quơ giữ chuyện của chồng Ngân, tiếp tục, như cố tình gọi ngày cũ trở về:
- Ngân nhớ
buổi trưa ấy không? Khiếp! Không thể nào quên cái mùi nhà vệ sinh thiếu
nước
hôm ấy. Chưa cần vợ lung tung hay tay nào vờn quyến vợ mình, chỉ cần
ngửi cái
mùi ấy đã đủ có súng dùng súng có dao dùng dao rồi.
Mặt Ngân đỏ
dần, lan xuống cổ. Có chút gì bẽ bàng lắm khuất lấp bấy lâu nay lì lợm
thức
dậy. Cái bẽ bàng lẽ ra không phải có ở tuổi mới lớn nhiều ao ước. Nắng
hanh hao
dịu hẳn khi rướn tới mặt bàn nhỏ giữa hai đứa, nhảy nhót trên trang
sách. Những
bông thạch thảo tim tím Phan mang tới trông càng thêm dịu dàng. Nhưng
gió ngoài
kia dừng ở đầu hành lang vắng không đủ thổi bạt đi cái mùi khủng khiếp
đày đọa
cư dân cả dãy nhà tập thể suốt mấy ngày giời. Mất điện. Nước không bơm
lên
được. Phuy nước dùng cho nhà vệ sinh cạn rốc, ai đó buồn tình quăng
luôn cái
gầu cao su thủng xuống đáy. Phòng vệ sinh nào cũng ngập báo. Nhân Dân.
Hà Nội
Mới. Quân Đội. Lao Động. Từng tờ từng tờ rải chồng lên nhau, che kín
cái phần
khai thối không tống đi đâu được của người vừa ra cho khuất mắt mà bước
vào đó,
ngồi xuống, nín hơi mà rặn, mà tống tháo cho nhanh rồi rút. Không ai
dám chửi
ai dù hầu như ai bước ra khỏi cửa phòng nhà mình cũng cất lời chửi
đổng. Sau
này Ngân đã buồn buồn nghĩ rằng nghèo quả khó đi cùng sạch, và đến một
mức nào
đó thì người ta đâm phá phách, bất cần tất cả, bất cần chính cái ngày
mai của
mình. Mọi sự lãng mạn của mọi câu chuyện hay ho đến đâu cũng biến khi
hoặc chủ
nhà hoặc khách vừa lúng túng vừa ý nhị xin phép ra ngoài đôi ba phút.
Ngân có
cảm giác cái mùi khai thối nồng nặc kia, được gia tăng độ đậm đặc nhờ
nắng gió
hanh hao đầu thu thấm sâu vào tường hành lang khu tập thể, làm nó sần
sùi thêm
ra. Ngân có cảm giác tóc tai mình, quần áo mình cũng bị ám cái mùi đó,
không
thứ chấp hay chanh nào xua đi nổi, đến nỗi mỗi lần mất điện mất nước,
mà điều
đó thì thường lắm, đi đâu Ngân cũng tìm cách đứng xa xa bạn bè. Nhưng
không
phải cứ vào lúc đó là ai có súng dùng súng ai có dao dùng dao như Phan
vừa đùa.
Chỉ một lần duy nhất.
*.
- Chuyện gì
vậy Ngân - Phan thì thầm khi nghiêng người qua vai Ngân trên cái bao
lơn nhỏ
lủng củng những dây phơi, rổ rá và xô chậu.
-
Không biết - Cô gái tiếp tục nhòm xuống
đám người đang tụ tập bên bể nước công cộng. Cô đã nhận ra, không phải
là cuộc
tụ họp bình thường vì mấy con vịt chưa hết lông măng hay cá bể ươn rất
cần nước
mà mậu dịch vừa bán khắp thành phố. Người đàn ông mặt mũi tím ngắt đứng
giữa
vòng người là chú Phúc bố thằng Phi con Hạnh mới phục viên về. Có một
sự im
lặng nặng nề từ đám đông dâng lên, khiến cô gái nhãng hẳn cái mùi nặng
nề bao
phủ không gian
- Không
biết - Ông kia kìa, trước là công
nhân nguội, đi B trong đoàn cán bộ công nhân nhập ngũ đầu tiên ở nhà
máy đấy.
Cả đoàn còn có bốn người. Chú ấy bặt tin suốt từ 72, sau 75 cả năm trời
mới
thấy ra. Chính trị viên đại đội tiểu đoàn gì đấy. Chạy vào lấy cho
người ta
kính trên bàn với. Còn những ai nữa kìa.
- Ông ấy cầm
súng. Một bà đang quỳ dưới chân. Bố Ngân cũng vừa tới kìa. Ai da. Có vẻ
kịch
tính đấy.
Không
giống những lần cãi nhau điển hình của
khu tập thể. Chỉ thấy người từ các phòng túa ra. Và im lặng.
- Im nào.
Không cần Phan bình loạn. Thôi đưa
luôn kính Phan đây. Ôi kìa ... cô Thi ...
Thoắt cái
Ngân đã hiểu ra sự thể. Chỉ không hiểu làm sao đến giờ chuyện ấy lại
bùng ra,
sau khi chú Phúc đã trở về đến cả năm trời và cả năm trời, sau bao
nhiêu những
chầu chực phỏng chừng của hàng xóm láng giềng, hai nhà ấy vẫn thản
nhiên sống,
những người đàn bà vẫn ra đụng vào chạm ở bể nước, những người đàn ông
vẫn đứng
bàn chuyện thời sự với những người đàn ông khác. Họ không nói với nhau,
hờ
hững, dĩ nhiên rồi.
Nhưng
họ vẫn là cái bếp lò không lụn lửa.
Người
đàn bà đang quỳ dưới chân người đàn
ông nói gì nhỉ? Trách móc vợ anh ta đã đầu mày cuối mắt và hơn thế nữa
với
chồng mình ư? Xin tha tội cho chồng mình ư? Hay phân trần kể khổ. Chị
ta vừa
đứng dậy, ôm vai ba đứa bé kéo lại gần mình, mặt mũi ba mẹ con nhợt
nhạt.
-
Anh Phúc! Tôi lạy anh chẳng phải vì tôi
có lỗi. Nhà tôi không dám có mặt ở đây và tôi xin lạy giùm anh ấy để tạ
tội với
anh. Tôi đã nghĩ... suốt bao năm qua tôi đã tưởng anh chết rồi. Tôi
không xin
anh cái điều không ai làm nổi. Tôi không xin anh không căm hận. Nhưng
bây
giờ... Căm hận ai? Tôi và anh? Căm hận ai? Anh đã trở về và anh còn các
cháu.
Tôi cũng còn các cháu.
Bao giờ cũng
thế, hễ khu tập thể có chuyện gì là người ta lại thấy cái bóng gầy gầy
lặng lẽ
của ông Thản. Ông nhẹ nhàng xin lỗi xin lỗi những
người đang háo hức chờ xem vở bi kịch tiếp
diễn, tiến sát tới gần
người đàn ông.
- Anh Phúc
à, cất súng đi anh. Sung sướng
chi cái chuyện phải mang súng về nhà. Cái chính là anh còn sống, còn
các cháu
phải chăm lo. Anh để cho chị Thi phải năn nỉ anh thế được sao? Chị ấy
đâu phải
người làm nên tội. Chị ấy nhà anh cũng không phải là người có tội.
Không ai!
Không ai biết vì sao người đàn ông
điềm đạm đó đột nhiên nói
to đến thế. Giọng Nam
bộ hiền hậu vỡ ra trong vòm họng của ông, làm im bặt những tiếng can
ngăn đầy
khích động và cả những tiếng cười vô tâm đang nổi nổi chìm chìm xung
quanh. Có
một người đàn bà suốt từ lúc ồn ào vẫn đứng sau lưng người đàn ông cầm
súng,
mặt mũi cứng lại trong dáng vẻ của người bị xúc phạm. Chị ta thoắt rùng
mình.
Có cái gì vẫn giữ cho chị ta vẻ kiêu hãnh bấy lâu nay đột nhiên nhão
ra, tan
chảy. Chị ta, và tất cả những người đứng đây đều biết tấn bi kịch này
đã bắt
đầu một cách hài hước như thế nào.
Một ngày là
quen với thành công
Một đời là
quen với thất bại.
*
Bốn mốt tuổi
không còn cơ hội thành công sớm
Nhưng vẫn còn
cơ hội thành công muộn.
Dĩ nhiên
*
Không phải
bao nhiêu nước chảy
Mà là bao
nhiêu cầu
bắc ngang dòng nước cuộc đời
Đời sang bước
ngoặt
Sau mỗi chiếc
cầu
Đi ngược thời
gian
Gặp niềm hối
tiếc
Đi xuôi dòng
nước
Gặp nỗi hoài
nghi
Ta tìm một
bàn tay cảm thông vẫy gọi
22.
Nửa đêm, khu
tập thể đã đầy người trở lại sau hiệp định Paris lịm đi trong giấc ngủ.
Tiếng
hét bắt trộm đột ngột và chói lói, giật mọi người ra khỏi giường. Người
lớn trẻ
con nháo nhào chạy về phía căn phòng sáng rực cuối hành lang tầng một.
Nhà cô
Thủy cô Thi. Đấy chính là cái câu lạc bộ đã được nhà máy cho thợ tới
ngăn ra
bằng gỗ dán. Bức tường giả chỉ cao quá đầu người là con đường phiêu lưu
đầy thú
vị cho trẻ cả hai nhà những lúc người lớn đi vắng. Ngân nhớ những ngày
tháng vừa
qua bom đạn ấy bình an lắm. Nhà nhà đi đâu gửi khóa cho nhau. Có ra chợ
xuống
sân cũng chỉ móc hờ cái chốt. Ngày nóng nực quá còn rải chiếu nằm sàn,
cửa
phòng mở thông thống, cánh đàn ông tụ bên cái bàn mọt làm chén nước chè
mậu
dịch, nói những chuyện vợ con vẫn kêu là trời ơi đất hỡi, còn đàn bà
con trẻ
nằm ngồi ngổn ngang nói chuyện với qua nhà nhau cho đến khi mỏi mắt mỏi
mồm ngủ
lịm đi. Ai dám vào ăn trộm. Mà có gì để trộm trong cái thời buổi gieo
neo này.
Không ai
dám tin vào mắt mình. Cô Thủy, áo
hở nách cắt lại từ cái quần lụa nát xốc xa xốc xếch, cầm trong tay một
cái quần
đùi đàn ông vải phin Nam Định nhàu nhĩ trông chẳng ra màu gì. Lập cập
đứng bên
cái giường rẻ quạt của mấy mẹ con là chú Vinh bố thằng Quyết thằng
Chiến, là
ông hàng xóm sát vách nhà cô Thủy. Cái áo may ô trễ trên đôi vai so
rụt, đôi
chân vốn đã hơi cong trong tư thế này càng cong khoẻ, và trên hai cái
cẳng
chân, cao, cao hơn nữa, một túm thịt, đen đen xám xám trông chẳng ra
hình thù
gì, lủng lẳng. Cơ bụng người đàn ông giật giật.
- Bà con
nhìn xem có khốn nạn không cơ chứ.
Vợ nó còn nằm ôm con dại bên kia. Thế mà nó dám mò sang đây lúc đêm
hôm. Này
thằng đểu kia! Chồng tao đi chiến trường sống chết bao năm không phải
là để cho
cái thứ như mày ở nhà làm loạn nhé! Để
tao gọi cả vợ con mày sang xem cái mặt mày luôn thể nhé!
Thằng Phi con
đầu lòng của cô Thủy gườm gườm nhìn mẹ. Bà ngoại nó ngồi, im lặng, như
không
nghe không thấy, tay vịn thành giường run lật bật. Lũ trẻ con hàng xóm
mới thức
dậy đã tỉnh như sáo sậu, rú lên cười từng chập, chỉ chỉ trỏ trỏ. Hàng
xóm
chuyển từ trạng thái kích động này sang trạng thái kích động khác. Thật
chẳng
mấy khi được xem kịch không yêu cầu như thế này:
- Ôi anh
Thản. Vâng vâng mời anh vào giải quyết ạ. Vụ này là phải có Bao Công
đấy anh ạ.
Chị Thi đâu vẫn chưa ra nhận người nhỉ? Ai lại để người ta bắt chồng
cởi truồng
thế kia. May mà hôm nay trời mát...
Tiếng
đỏng đảnh. Tiếng ồ ề. Bố quay lại
mấy mẹ con Ngân:
- Em bảo mấy
đứa về đi ngủ tiếp đi. Anh ở lại vài ba phút với ông Vinh rồi cũng về
ngay
thôi. Thật cái cô Thủy làm chuyện này chẳng ra làm sao cả.
*.
Khuya lắm bố
mới về. Ngân vẫn chưa ngủ lại. Con bé nằm im lặng nhìn ra ngoài khung
cửa. Đêm
trong và mịn quá. Ngàn ngàn sao run rất nhẹ trên nền trời đen thẫm.
Ngôi sao
nào của riêng nó, đêm nay con bé không muốn tìm. Câu chuyện vừa xảy ra,
dáng bà
ngoại anh em thằng Phi im lìm hóa đá, mắt thằng Phi gườm gườm, vẻ nanh
nọc của
cô Thủy, cái bụng lép phập phà phập phù và túm thịt xấu xí lòng thòng
giữa hai
bẹn của chồng cô Thi làm con bé vừa tò mò vừa kinh kinh. Nó sẽ sống lại
ấn
tượng ấy giữa thời con gái, sẽ bực tức vì điều ấy ám ảnh một đời con
gái của
mình, làm hao hụt ở mình khả năng mù quáng trước những tiếng gọi giống
loài.
Chính vì thế mà Ngân đã tự dưng nổi cáu khi Phan tò mò muốn biết nguồn
cơn bi
hài kịch đang diễn ra dưới sân. Có thể giải thích được chăng, rằng
người đàn
ông vừa ở đâu lọt tọt chui vào giữa vòng người, quỳ sụp xuống vái như
tế sao
ông hàng xóm súng lục cầm tay đằng đằng sát khí, phải, chính người đàn
ông còm
cõi đó đã một thời là dũng sĩ của cả vợ mình lẫn bà hàng xóm, và của
những bà
những cô nào nữa có ma biết... những đêm thời chiến tranh. Có thể vừa
cười vừa
kể cho Phan nghe cái bà mặt mũi sưng sỉa đứng sau lưng ông chồng cựu
chiến
binh, đúng vẻ quả phụ quyết tâm bảo vệ gương trinh liệt kia đã sản xuất
bằng
chứng tiết hạnh của mình cho ông chồng vừa có tin trở lại bằng cách hi
sinh
người tình đêm đêm của mình, là cái người đàn ông đang so vai rụt cổ
lạy sống vợ
chồng bà. Ông ta làm sao có thể ngờ cái đêm lẽ ra phải rất nồng nàn với
người
đàn bà hàng xóm, với xen vượt tường, chui màn, ghì siết nhau đến tưởng
phải rú
phải gào mà vẫn phải cố kìm những tiếng hổn hển bên tai bà mẹ, người vợ
và
thằng bé con người tình đang thức, đang rình, đang im lặng... cuối cùng
lại
thành ra thế. Tiếng thét có trộm bất ngờ
từ người tình của ông ta, vòng tay độc địa ghì cứng trong khi ông ta
chỉ còn
độc cái may ô ba lỗ rách trên người giữa tiếng chân rầm rập chạy tới sẽ
là căn
nguyên bệnh liệt dương từ bấy đến giờ của ông, là căn nguyên nỗi đau
không có
ngày ngưng nghỉ của vợ ông. Ông chỉ không biết rằng người đàn bà, đạo
diễn,
diễn viên màn bi hài kịch cũng mắc bệnh lãnh cảm trước chồng từ đó. Dù
thế nào
thì bà ta cũng không thể đánh thức nổi mình để bù đắp cho người chồng
bấy lâu
đã mỏi mòn vì gian khổ, vì cách xa và thương nhớ. Dù thế nào bà ta cũng
không
quên những đêm nhàu nhĩ, bừng bừng, mê muội trong sự vụng trộm công
khai. Và,
dẫu thế, trong hai căn phòng tập thể sát nhau, chỉ có điều bức tường
bằng gỗ
dán năm xưa nay đã được xây con kiến tử tế, bốn người đàn ông đàn bà
vẫn sống
lặng lẽ suốt cả năm trời, cho tới ngày hôm ấy, ngày mà ấn tượng về nó
với Ngân
bao giờ cũng sắc nét hơn bởi cái mùi nhà xí thiếu nước không biết bay
đâu.
*.
- Anh đưa
súng tôi cầm. Thế... Thế. Bà con mình ai việc nấy đi. Có chuyện gì còn
phải nói
thì mình ngồi lại với nhau. Hay là mời các anh các chị lên nhà máy. Hay
là qua
nhà tôi. Anh Vinh đứng dậy đi anh. Chuyện người lớn anh Phúc anh Vinh
à. Chẳng
nên để bầy trẻ chịu khổ nhục theo mình mãi. Để làm gì.
Tiếng ông
Thản. Dứt khoát và mệt mỏi. Vòng
người giãn dần. Rồi bất chợt sững lại. Từ cánh cửa sau lưng cô Thủy chú
Phúc,
bà mẹ cô Thủy bước ra, tay xách cái đãy mây lồng phồng quần áo, trên
chặn cơi
trầu. Bà cụ chậm chạp đến bên người con rể:
- Tôi xin
anh, anh Phúc. Mẹ xin con, con ơi.
Bỏ quá cho mẹ không giữ gìn được gia đình con cho tới lúc con về. Con
sống về
được đến đây, gìờ phải sống tiếp con ơi. Thằng Phi bỏ nhà đi từ bấy đến
giờ,
con đi tìm nó về cho mẹ. Nó vẫn vật vờ ở Cửa Nam với ở ngoài ga đấy.
Mang nó về
kiếm việc làm cho nó, cho hết cái cảnh bố mẹ con cái còn sống mà như
chết, mà
không dám nhìn mặt nhau... Mẹ xin anh, anh Phúc... Thủy! Mày còn định
giở quẻ
đến bao giờ. Mày có qùy xuống mà lạy chồng mày hay không? Hay để nó
biền biệt
bao năm chiến trường giờ lại vì mày mà lại phải biền biệt vì tù tội. Ối
con ơi
là con ơi. Đồ voi giày. Tao đâu có ngờ đẻ ra mày cán răng nuôi mày mà
rồi có
ngày phải chờ người băm vằm mày ra như thế này.
Bà cụ sụm
xuống. Người con rể ôm lấy vai bà
mẹ vợ, ứa nước mắt. Cái đãy mây rơi khỏi tay bà cụ, cơi trầu tung toé.
Chú
Vinh, cô Thi, cô Thủy đứng như trời trồng. Cô Thi ngẩng mặt nhìn trời,
chan hòa
nước mắt. Giữa cô và bầu trời xanh rất xanh kia vẫn là bầu không khí ô
nhiễm
khai thối ù đầu. Bên Ngân là Phan: 'Cái gì thế Ngân. Cái gì mà có vẻ
đầy kịch
tính thế? Giờ thì ...nhìn kìa, nhìn bà cụ với ông kia kìa, giống không,
bức ảnh
chụp ở bên bờ Thạch Hãn hồi bảy hai ấy, tù binh và hòa bình. Giống
không?...'
Người con
gái vùng vằng. Mắt thiếu kính nhìn gì cũng thấy như gần lại làm cô bướt
hụt,
suýt ngã khi từ ban công quay vào phòng. Cău con trai theo vào, cười
cười.
-
Không muốn kể thì thôi chứ. May mà không
ngã. Phan có biết cũng không dỗ đâu.
-
Làm như chúa lắm đấy. Nghe thì biết chứ
còn hỏi cái gì.
-
Ừ, nghe thì biết.
Phan trở lại
nghiêm chỉnh bất ngờ. Cái nhìn của Phan, Ngân muốn đọc ra ở đó một nét
buồn
buồn, và màu hoa thạch thảo tím như là sắp phai bạc cả, và cả cái mùi
khai thối
kinh người cứ lẩn quất khắp nơi mãi mãi còn lẩn quất trong ý nghĩ. Thế
nên dù
có vẻ dửng dưng, người đàn bà chợt nhận ra mình muốn biết về số phận
gia đình
hàng xóm cũ:
- Nhà ông bà
bán đất cho Phan ấy, sau khi Phan sang Nga học ít ngày thì cũng đi.
Ngân cũng
không biết đi đâu. Giờ có đất mà bán thì chắc cũng khá lên rồi.
-
Khá cực ấy chứ. Nếu vụ kinh doanh nhà
thổ này thành. Nhưng nhìn qua cũng biết là trước đến nay sống chật vật.
Ông chủ
nhà ngày xưa trông oai thế mà nay lọm cọm rồi. Bà vợ thì... chả ai ngờ
một bà
lão lẩn thẩn thế mà có thời cũng tung hoành đến khiếp - Người đàn ông
mỉm cười
- Phan hiểu đúng không Ngân.
-
Đúng! Thì sao?
-
Chẳng có gì. Nhưng mà đôi khi Phan cứ ngạc
nhiên vì hiện tại của một người nào đó, ngay của Phan chẳng hạn. Rồi
Phan lại
nghĩ thế cũng đúng. Trời cho mỗi người một cuộc đời để sống. Tiêu trước
thì
khỏi tiêu sau. Cứ ai sống gấp quá, sống hết những cảm giác lẽ ra phải
để dành
cho cả đời mình thì y như rằng bão nổi lên rồi là chết đuối, là lẩm
cẩm, là đủ
thứ. Nếu mình xét bằng con mắt bị xã hội hóa của mình.
Chồng Ngân
hỏi, giọng bất chợt trầm khác
thường:
- Của
mình? Anh Phan tự nghĩ vậy ư?
- Tôi đã từng mong như thế anh ạ.
Vẻ
chăm chú, âm trầm buồn bã khác lạ trong giọng nói của chồng làm Ngân
bất ngờ.
Cũng bất ngờ là lời đáp thẳng thừng của Phan, dù lâu lắm rồi Ngân vẫn
tự biết
là hình như thế.
- Còn bây
giờ?
- Ngân!
Phan bật ra, riết róng. Câu trả lời
của Phan, như một tiếng
gọi đầy trách móc. Phan gọi gì? Chồng Ngân nhìn hai người, giấu một vẻ
băn
khoăn kín đáo, cầm chiếc li của mình bước tới bàn mấy ông bạn đang bàn
cãi gì
đó om sòm.
Ilmenau
Bây
giờ đã đến lúc viết về những bờ lau bên
hồ thời xa vắng
Sao
quá bơ vơ trước ước hẹn đầu đời
Bây
giờ đã đến lúc viết rằng khi ấy
máu trong người chậm lại lúc đôi nọ hôn nhau
chiều,
tuyết, mưa.
Bờ
lau mọc vào xuân
Đứa
bạn cùng đường nay đã chết
Vẫn
biết còn sống còn cơ hội bất tử
Vẫn
muốn dang tay vẫy lối bạn về
Thời
xa vắng không giữ được em
Khao
khát quá nhiều đời người quá hẹp
Trở lại
Hai mươi năm
sau
Hồ
Những bờ lau
Dập dờ
Xanh
Lửa
23.
Tiếng gọi
trách móc của người bạn cũ, vẻ im lặng của chồng đột nhiên cho người
đàn bà
hiểu ra mình cô độc biết chừng nào, ích kỉ biết chừng nào. Ích kỉ,
trong sự cẩn
trọng trước mọi số phận khác. Ích kỉ, trong thái độ tự tin và đầy trách
nhiệm,
như một công chức, một người vợ, một người mẹ. Từng ngày qua đi là từng
ngày
người đàn bà trẻ con đánh đắm mình vào một thế giới riêng, tự xây đắp
cho mình,
tự hào một cách tuyệt vọng về nó. Tại sao, Ngân tự hỏi, tại sao mình
không một
lần nhìn thẳng vào mắt mọi người, nói với họ rằng mình nghĩ gì về họ,
mình yêu
họ biết bao và mình khao khát điều gì. Tại sao Ngân không bao giờ hỏi
họ nghĩ
gì về mình, chờ mong điều gì ở mình. Hỏi, như một cách thế yêu thương
cảm thông
với nhau và với chính mình. Tại sao không? Không! Với chồng. Không! Với
bạn.
Như ít nhất là Vĩnh, Việt, Phan. Tại sao Ngân có thể nói với mọi người
về những
ý nghĩ quái dị nhất nảy ra trong đầu mình, hay những cảm giác không dễ
gì thông
cảm, mà một điều giản dị như thế thì không. Không bao giờ.
Tự trong sâu
xa, người đàn bà biết tất cả chỉ vì mình nhút nhát. Sự giản dị và khó
hiểu của
ngày tháng đã qua đè nặng lên tuổi nhỏ đau ốm, những bất thường câm
lặng trong
đời sống gia đình, những thiệt thòi, mất mát quá lớn và quá sớm, và cả
những
trang sách không đúng tuổi đã không cho con bé sống hết tuổi thiếu
thời, trọn
vẹn cùng tuổi con gái được quyền cả tin và dại dột. Người đàn bà buồn
rầu nhận
ra trái tim mình dường như mãi mãi mười sáu tuổi, cái tuổi lắm ao ước
bao nhiêu
và thiếu tự tin biết bao nhiêu, cái tuổi đã cay đắng nhận ra rằng rất
có thể
trong tay mình chỉ toàn là gió, rằng mọi mối quan hệ đều có thể trượt
qua mình.
Cũng bởi thế mà người đàn bà có cái lối vừa kín đáo vừa thẳng thừng khi
nói về
mình. Không ai hiểu đó là biểu lộ một ao ước tuyệt vọng của Ngân: được
hiểu,
được chấp nhận, được âu yếm.
*.
Mười sáu tuổi
con bé Hằng An bắt đầu làm đĩ. Đấy là lúc Ngân quay cuồng kiếm việc
làm, nhận
và chống quyết định phân công công tác. Đấy là lúc lòng Ngân ứ tràn
hoang mang
và thất vọng. Đấy là lúc Ngân chìm trong nỗi đau đớn không thể nói với
ai rằng
mình ngóng đợi ai, không thể nói với ai rằng mình yêu quý và căm ghét
biết bao
nhiêu cuộc đời này. Nói, một cách thật giản dị, về điều đó, rằng mảng
tường
tróc lở của một ngôi biệt thự trên phố vắng cứ giờ ấy lại rực lên một
vạt nắng
sao đẹp và bi thảm, rằng tiếng mưa lùng bùng trên tấm nilon quàng làm
phép nghe
rộn rã như một niềm vui bất ngờ và khó nói; Vòm cây cơm nguội lá trở
màu đỏ sơ
sinh trông non dại biết chừng nào; Dễ thương biết bao nhiêu bước chân
sẻ nhỏ
lẫm chẫm đi giữa tinh sương trên mặt phố, nhặt hoa sấu giấu bao nhiêu
là nắng
sáng bên trong. Nói, thẳng thừng, rằng cuốn sách mọi người dù đọc rồi
hay chưa
cũng tấm tắc thật ra là nhạt thếch; rằng những trò chạy chọt cầu cạnh
xin xỏ
này đang giết dần dần giết từ từ tuổi hai mươi. Nói, thẳng thừng, rằng
những
lời khuyên bảo nghe từ trong nhà ra ngoài phố sao mà thô thiển và trắng
trợn,
và những tấm gương lao động và chiến đấu ta hay tây báo đăng đài nói
không chỉ
không đáng tin mà còn quái gở và ngu ngốc. Mỗi ngày với Ngân bởi thế
đều quen
đều lạ, và cái chính là không hiểu sao chỉ làm Ngân buồn nản. Chiều nào
cũng
như chiều nào, hai chị em lo đánh ấm chén sạch sẽ, đun nước để nguội đổ
đầy
bình lớn bình nhỏ cho các ông bạn cứ tối đến là lục tục trình diện.
Những người
con trai đã đến với Ngân trong nỗi xúc động nào không bao giờ Ngân
biết, chỉ
biết rằng rất có thể họ bực bội khi đứng dậy ra về. Họ, trong một đêm
giao thừa
đã kinh ngạc nhìn nhau giữa nhà Ngân, khi đúng lúc tiếng pháo đầu tiên
vang
lên, cô chủ nhà đứng vụt dậy, lao ra ngoài ban công, đóng sập cửa lại
sau lưng
và khóc. Không ai biết Ngân đã lần đầu tiên yên tâm khóc to như thế nào
giữa
tiếng pháo chát chúa. Hơi mưa lạnh thơm nồng mùi thuốc pháo làm Ngân
sặc sụa ho
và nhờ vậy mà nín được. Rồi bước vào, tỉnh queo nhìn các ông bạn vàng
đang ra
vẻ vô tâm lắng nghe câu chuyện giữa Vĩnh và bố. Chỉ có Việt, Việt nhìn
Ngân
thương xót, cái nhìn thân thiết, bạn bè. Chỉ có Việt, sau buổi chiều
nơi quán
vắng vẫn đến tìm Ngân mỗi cuối tuần, không bao giờ tìm cách nhắc nhớ
một điều
gì, thủy chung và giản dị.
*.
Chính thời
gian đó con bé Hằng An bắt đầu thay đổi. Không còn nết na như hồi còn
nhỏ, ru
rú ở nhà, ngoài giờ học là loay hoay cơm nước đỡ cô Tam, chăm hai con
gà nhốt
trong cái chuồng bé như cái thùng gánh nước, rảnh ra giờ nào thì lại
quấy hồ
dán túi đựng mực hay đan găng tay bảo hộ - việc công đoàn nhà máy ưu
tiên cho
những gia đình khó khăn. Không bao giờ Ngân biết bằng cách nào mà con
bé lại
gia nhập vào mấy cái động sát vách nhà nó. Lúc đó cô Tam ốm. Khó khăn
ư? Hay
chỉ bởi vì con bé ao ước rất nhiều nhưng không bao giờ có kiểu tuyệt
vọng như
Ngân, bất cần ai hiểu, thông cảm và âu yếm? Một lúc nào đó, khi Ngân đã
vào đại
học và con bé Hằng An hình như dậy thì, ngực đầy lên, nước da rám nắng
dường
như tỏa sáng, Ngân bắt đầu thấy nó đổi khác. Không mừng rỡ vồn vã khi
chị em
gặp nhau ở bể nước hay trên đường ra chợ. Bắt đầu văng tục kinh hồn.
Một chiều
muộn, lúc đứng lơ ngơ bên cái chậu đầy ự quần áo trong khi chờ nước,
Ngân thấy
nó ngồi túm tụm với mấy con bé đáo để nhất ở ngõ. Nó nhìn Ngân, tỉnh
như nhìn
người lạ, tiếp tục câu chuyện dang dở. Bất chợt tiếng nó cao lên:
- Mẹ tao
lại vừa bắt tao đi nhận về một đống
len với túi. Suốt ngày bà già kêu đau lưng, suốt ngày ngồi ôm cái đống
ấy khâu
với dán. Ngấy lắm rồi. Nhưng cứ chờ đấy, rồi sẽ có ngày tao đặt bốn cái
tủ lạnh
ở bốn góc nhà, không thèm bán đá, chúng mày đến tha hồ uống.
Tiếng mấy
con bé cười ré lên khiêu khích.
Một bà, đúng là bà vẫn kéo trộm điện cho chạy tủ lạnh làm nước đá bán
quanh cho
hàng xóm chìa bàn tay xuống dưới dòng nước vàng màu rỉ sắt vừa ồng ộc
tuôn ra,
kéo vội cái chậu giặt ra khỏi vòi, làu bàu khe khẽ:
- Rồi lại
mẹ nào con nấy.
- Phí cái
công ông Thản chăm bẵm nó từ lúc
chưa ráo máu đầu - Bà khác - Kìa chị, rũ ngay quần áo đi, nước vàng thế
này là
lại rửa ống ở đâu rồi, hỏng hết đồ trắng bây giờ - Chẳng biết mẹ nó dạy
nó thế
nào mà ít lâu nay có hôm mất điện ngồi hóng gió dưới sân em còn thấy nó
nghiêng
ngả với mấy thằng oắt con, vừa đi vừa bóp vừa sờ vừa cười rinh rích.
- Bé
bé cái mồm cô ạ. Động vào mấy con bà
cô ấy chả bõ nó lôi cả cao tằng tổ tỉ nhà mình ra nó tế. Mấy con nhãi
ấy cô
nhìn mà xem, thật chưa kịp lớn hết đã già choắt lại. Tôi ở đầu hồi gần
nhà nó,
nghe mấy con đàn bà động đực bên đê gào rú mà lo cho con mình cô ạ. Con
mẹ Tam
không cẩn thận thì con ranh con nhà ấy chỉ cần đạp vách là dạt vòm được
ngay.
Cũng khổ. Một mẹ một con nuôi nhau từ bấy đến giờ, giờ nó lớn chưa chắc
nhờ
được con, khéo lại còn mang nhục. Nhà là cứ phải có đàn ông. Có vô tích
sự đi
chăng nữa như ông nhà tôi thì vẫn cứ làm mình vững dạ khi bảo ban con
cái cô
nhỉ.
Ngân chưa thấy
con bé Hằng An già choắt, chỉ thấy nó xinh. Đến là xinh. Vẻ trải đời
sớm chưa
in dấu trên đôi mắt to thỉnh thoảng hơi ngơ ngác của nó. Đôi môi có hai
khoé
nhếch lên như dỗi, như nũng nịu, lại như sắp cười. Cặp chân thì dài và
có vẻ
còn dài nữa ló ra hai ống quần luôn cộc. Vú chũm cau. Mông quả nhót.
Nước da
nâu hồng dậy lên, không còn mốc mốc như hồi nó còn bé. Ngân cũng chưa
bao giờ
thấy nó ngả nghiêng với thằng cu nào trong khu tập thể. Nên Ngân sững
sờ khi
nhận ra vẻ nanh nọc đầy khiêu khích trong đôi mắt nó vừa liếc về mình.
Hay nó
chỉ định lườm nguýt mấy người đàn bà hàng xóm đang tưng bừng bình phẩm.
Rồi sẽ chẳng bao lâu nữa con Hằng An
thôi không tụ bạ ngoài
sân khu tập thể cùng chúng bạn. Chế độ giá lương tiền làm mấy nhà cán
bộ trong
khu đột nhiên giàu bốc lên. Nhà máy chia đất chia nhà. Dân các phòng
ban ở ngóc
ngách nào trên phố nay về nhận đất xây nhà đùng đùng, vòm chóp kính
nhôm, rồi
từ những căn nhà mới ấy bắt đầu tuôn ra tiếng chó sủa, có khi cả đàn,
ông ổng,
nhóc nhách, mỗi khi cánh cửa sắt rít lên hay mỗi khi trong nhà có tiếng
thử loa
hát karaoke. Nhưng phần lớn dân cư cũ trong khu tập thể thì rơi vào
tình trạng thiếu
việc, và thế là cái ngõ vắng ngày một ngày hai biến ngay thành chợ,
đông đúc từ
lúc thành phố vừa tắt đèn đường. Đầu tiên là mấy hàng quà rong của mấy
bà mấy
cô công nhân về mất sức hay nghỉ thiếu việc. Cái ngõ nhỏ thơm nức mùi
bánh
cuốn, bún riêu, phở, bánh chưng rán. Mùi thơm béo bổ xộc qua đường,
không át
được mùi hương khói dưới gốc đa. Bên cạnh nhà hộ sinh, dưới gốc đa già
giờ là
trụ sở công an phường, nơi trước kia là xưởng chế biến mì sợi và sau đó
là hàng
phở của tổ phục vụ. Những anh cảnh sát phóng xe máy ào tới đó, dựng xe
không
cần khóa và sà xuống cái ghế băng không hiểu sao luôn thấy đặt trước
cửa, hoặc
dạt vào hàng nước ngay sát chỗ bà cụ bán hương, trầu cau và các thứ lá
lẩu cạnh
đó, trò chuyện vô cùng vui vẻ. Giữa họ và những người đặt niềm tin nơi
gốc đa
già có một khế ước ngầm: không phải kì thành phố ban hành các nghị
quyết giữ
gìn trật tự vệ sinh thì ai cúng ai khấn gì cứ việc. Từ bên đó, những
người cảnh
sát khu vực có thể thấy hết các đối tượng của mình ra vào ngõ nhỏ trong
nhịp đời
bình thường:Thằng bé hay ăn cắp vặt; Ông trung niên nguyên chuyên viên
bộ vướng
mấy vụ qũy tín dụng vừa ra tù sau bản án về tội chiếm dụng tài sản xã
hội chủ
nghĩa; Bà trí thức nỏ mồm thỉnh thoảng lại gây chiến với hàng xóm ít
học xung
quanh; Cô ca sĩ bỏ chồng mới về hỏa hồng một căn phòng trong khu tập
thể, được
xì xào phản ánh là khách đàn ông thường ở lại qua đêm. Hay con bé Hằng
An.
*.
Không được
như thế hệ Ngân, thế hệ mang toàn những tên Quyết Chiến Thắng Hùng
Trường Sơn
Hoài Nam Thủy Chung hừng hực tinh thần đại, đủ lớn để xin vào làm lớp
kế cận
trong nhà máy của bố mẹ lúc nhà máy còn được bao cấp, còn tiếp tục sản
xuất
không cần băn khoăn lắm về giá thành sản phẩm, lứa con Hằng An hết tuổi
học phổ
thông vào đúng lúc bố mẹ ngắc ngoải theo nhà máy nay thiếu việc làm mãn
tính.
Đứa lấy chồng đẻ con, người như cái dây rau muống ế của mậu dịch, già
sọm ở
tuổi chưa tới hai mươi. Đứa đi xuất khẩu lao động ở Nga, gửi một đống
nồi nhôm
phích nóng lạnh, bàn là hoa dâu kèm niken tùy khả năng liều lĩnh về cho
nhà,
rồi mấy năm sau trở về, quần bò váy ngắn, chiều chiều ngồi lê kể cho
đám bạn ở
khu tập thể về một xứ lạnh teo cả chim cả bướm, về những nhà máy mịt mù
bụi
bông sợi, không giấu niềm tự hào đã xuất ngoại, trong khi các ông bố bà
mẹ than
thở nỗi con đi lao động mấy năm trời, giờ xin việc ở đâu cũng khó bởi
thợ may
mà lại chỉ biết vào mỗi cái nách áo, thợ cơ khí lại hóa ra ngày ngày
đẩy xe dọn
dẹp trong xưởng máy. Những đứa còn lại như con Hằng An, bằng cách nào
đó cũng
xin được vào một trong những xí nghiệp đủ cỡ đầy ra ở thành phố, làm
việc cầm
chừng rồi cuối cùng nản lòng mà bỏ việc, ở nhà ăn bám vào nồi cháo
thúng xôi
của mẹ hay liều lĩnh chạy chợ, hi vọng vào cuộc đổi đời.
Con
bé Hằng An không chịu ăn bám mẹ. Mà
cũng chả thể nào như thế được, bởi cô Tam ở cảnh thất nghiệp, cũng muốn
bươn
chải, sáng sáng làm thúng xôi ra ngõ. Nhưng sức khoẻ suy sụp làm cô cứ
năm ngày
ba tật, chả thể nào thức khuya dậy sớm được để cầm chân khách ăn quen
hàng. Đấy
là lúc ông Thản từ Nam ra thăm lại nhà máy và bà con khu tập thể lần
cuối cùng,
không bao giờ gặp lại đứa con đỡ đầu năm nào xa xôi lắm
*.
Con Hằng
An bắt đầu chạy chợ. Chạy về tận
quê ngoại buôn rượu, rồi buôn vải vóc. Tuần hai lần nó đạp cái xe nữ
xích long
sòng sọc của mẹ về Bắc Ninh. Không biết nó chạy phòng thuế thế nào mà
có vẻ làm
ăn được như cô Tam thỉnh thoảng ra bể nước khoe. Rồi bỗng một thời gian
mặt nó
nhợt như người mất máu và không thấy nó chở mấy cái can nhựa đựng rượu,
những
bọc nọ túi kia căng phình phình trên chiếc xe đạp cà tàng nữa. Cứ sáng
sáng là
nó tã tượi trong bộ đồ mỏng dính và nhàu nhĩ, vắt vẻo đi từ cuối ngõ
qua cái
sân rộng còn chưa bị lấn chiếm xây cất ra mấy hàng ăn đầu ngõ, lê từ
hàng này
qua hàng khác không cần tính đếm. Có vẻ nó biết thừa mấy bà hàng vừa
đon đả mời
mọc phục dịch đã bỉ báng nó thế nào khi nó rời chân đi. Nhưng nó vẫn
ngọt nhạt
vui vẻ. Vui vẻ với cả anh công an tuần trước vừa vào nhà bảo mẹ nó nhắn
nó ra
đồn. Lại càng vui vẻ những lúc chỉ huy xích lô chở đồ đạc vào nhà qua
cái ngõ
chật ních người, giữa những cái nhìn tò mò, căng thẳng, và cả khinh bỉ
của
người ăn người bán quanh đó.
Thời
gian ấy cô Tam bắt đầu ra đường là cúi
mặt và ít bắt chuyện với dân cùng cảnh thất nghiệp như mình. Và người
đàn bà
trẻ con cũng thôi không nói chuyện với cô hàng xóm mình từng bồng bế
bao năm về
trước. Ngân không thể nào hiểu nổi cuộc sống mới đó của con Hằng An,
cũng như
nó chắc vĩnh viễn không bao giờ hiểu những ao ước tuyệt vọng mà Ngân
cưu mang
lúc đó. Một chỗ làm đúng với nghề đã chọn và đã dùi mài. Một đồng lương
để sống
dù còm cõi thế nào giữa thành phố buồn thảm này. Một dịu dàng khác lạ.
Khi đạp
xe vào trường chờ nhận giấy phân công công tác. Khi lang thang một mình
trong
đêm sau giờ học ở trung tâm ngoại ngữ, học, không biết để làm gì. Khi
chợt nhận
ra phía trước trong ánh trăng suông phủ trên thành phố mất điện bóng
bạn mình
mà không muốn gọi, không thể gọi. Khi, giữa ngày tháng thảm hại đó,
Ngân biết
mình thực sự muốn gì và sống được chỉ vì cảm giác tuyệt diệu và cay
đắng: Biết
ơn tất cả: Ngày tháng cũ. Gia đình. Bè bạn. Vệt nắng vạch một sắc vàng
nồng ấm
trên những thân cây sao thẳng tắp đầu phố. Hay những ban mai nắng sớm
nhảy nhót
trên những vòm lá chưa tan hết sương
đêm. Hay những buổi trưa lòng nôn nao không biết vì sao, không nón mũ
đạp xe
một mình phố vắng. Hương hoàng lan nồng nàn tiếng dương cầm đêm nào
khuya lắm.
Mùi hoa sữa sau mưa. Mùi lá đốt quyện trong sương buông kín chiều trên
phố...
Cả mùi nước cống và rác hoà lẫn mùi hàng hương, hàng lá, hàng hoa đầu
ngõ chợ mỗi
sáng mưa phùn. Cả căn bệnh khốn khổ đã cho Ngân hiểu nỗi buồn khi mất
và khi có
một người bạn, một người yêu.
Chiều
cuối đông con bé Hằng An tìm đến vì
thế với Ngân hoàn toàn bất ngờ. Lâu lắm rồi nó mới lại qua nhà Ngân.
Hai chị em
ngồi trên cái giường ngổn ngang chăn gối. Con Hằng An nghiêng cái túi.
Những
quả táo Thiện Phiến lăn lông lốc, xanh ửng trắng, căng tròn, bóng mỡ.
-
Muối ớt đây chị. Mà có khi chị đừng chấm.
Nhỡ sặc ho thì khổ.
Ngân cố mỉm
cười. Mỗi một hơi thở đều làm
lồng ngực đau thắt lại.
-
Em có việc muốn nhờ chị - Con Hằng An
cắn rau ráu hết quả táo này đến quả táo khác - Chị xem này. Em có một
lá thư.
Một lá thư.
Một lô tem be bé xinh xinh dán cả mặt sau mặt trước cái phong bì xanh
nhạt. Bức
ảnh một người đàn ông trẻ, tóc nhạt, đường nét xốp xộp như củ cải, đặc
trưng
cho vẻ hồn hậu Bắc Âu. Lời tỏ tình cùng đề nghị rành mạch về một cuộc
sống
chung. Đấy! Mơ ước không dám thốt thành lời của mấy cô bạn dã đeo đuổi
cùng
nhau mấy năm đại học. Chỉ có một đứa dám nói ra quyết tâm thực hiện mơ
ước đó.
Đứa thông minh nhất, ghê gớm nhất, xấu nhất mà lại lắm chàng mê nhất và
đã bị
đuổi khỏi trường vì tội được tuyên bố chính thức: lười. Ngân bất giác
mỉm cười,
một nụ cười méo mó vì mệt mỏi.
Con Hằng An
lắng nghe Ngân hổn hển dịch, mặt mũi hoàn toàn vô cảm. Táo đã hết và nó
thò
ngón tay chấm muối ớt, mút ngon lành. Vẻ thỏa mãn của nó làm Ngân giật
mình.
Chợt nhớ bao nhiêu trang tiểu thuyết. Chợt nhớ lời bàn vụng đã nghe nơi
bể nước
của mấy cô mấy chị về những lúc long thể bất an: Mắt rừng rực, lông mày
dựng
ngược, bạc phếch, dáng cứng lúc đi đứng nằm ngồi, thèm chua thèm ngọt
loạn xị,
lại hay gắt gỏng...
Cô bé hàng
xóm tỉnh queo, không cần biết đến
vẻ hốt hoảng của Ngân:
-
Em có bầu mà chị. Chỉ thèm ăn thế này
thôi. Chị muốn biết ai không? Hàng xóm nhà mình đấy. Năm ngoái còn lọt
tọt theo
em. Vừa rồi biết có con nó rúm tứ túc lại đến thảm.
-
Thế em định...?
-
Em định lấy chồng. Thằng Tây này chị
bảo trông có tin được không? Bình thường em cũng chẳng nhớ thằng nào ra
thằng
nào. Lúc mất điện. Lúc hết dầu. Có nhìn ra được thì không tóc đen mũi
tẹt răng
vẩu chân vòng kiềng lại mũi gồ mắt rỗng y như nước
lã ấy mà. Nhưng mà thằng Tây này thì em nhớ.
Đến tìm em suốt hồi nó
còn ở Việt Nam mình, hiền lắm, buồn cười lắm. Thằng cu hàng xóm nhà
mình cũng
buồn cười. Dành dụm tiền từ khi nào chả biết, gõ cửa nhà em, lại còn
lịch sự đi
vòng qua đê, run như cầy sấy bảo yêu em. Bao nhiêu năm chả nói, lại nói
đúng
vào cái lúc em có còn là em nữa đâu. Kì khôi nhất đã mê gái còn hãi mẹ.
Có cái gì đầy
thất vọng vang lên trong giọng thẳng thừng bất cần của con Hằng An. Vậy
là Ngân
biết rồi. Thằng cu ở nhà đầu hồi phía nhà cô Tam, bố ở phòng tổ chức mẹ
ở phòng
tài vụ, lại vừa xin được đất đầu ngõ đang chuẩn bị xây nhà. Bố mẹ nó
thì ghê,
coi mẹ con cô Tam như muỗi. Thằng bé lại hiền lành, da nhợt và tính còn
hơi ái
ái nữa. Tính thế mê con Hằng An là phải. Mà có khi con Hằng An tính nết
thế
cũng mê nó không chừng. Thảo nào thằng bé học được, trượt Bách Khoa với
điểm số
xuýt xoát mà bố mẹ nó không để nó ở nhà thi lại đại học, cuống cuồng
tống lên
máy bay cho sang Đức xuất khẩu lao động vừa tháng trước. Ngân e dè:
- Mẹ em
nói gì không hả Hằng An?
- Mẹ em
thì có thể nói gì chị. Chỉ khóc là
khóc- Con Hằng An cười - Mắng em đâu có được chị.
Ừ phải. Cô
Tam làm sao có thể mắng nhiếc đay
nghiến gì con bé khi nó chỉ bước lại đúng dấu chân mẹ ngày xưa. Mà ít
nhiều gì
thì cũng có thể nói rằng nó làm vậy cũng vì cô. Người mẹ ấy dù đau khổ
đến thế
nào chăng nữa cũng sẽ chỉ có thể sống và yên lặng.
- Nhưng
mà... nó đi mất rồi. Em tính sao
đây.
Con Hằng
An đứng dậy, lặng lẽ thu dọn đĩa
muối và hạt táo, lo ngại nhìn Ngân:
- Chị khó
thở lắm à. Đừng nói nữa. Giá mà tự
đọc được em sẽ không cho chị biết làm gì. Sống như chị sẽ chẳng thể
khuyên gì
em được đâu. Thôi chị nằm xuống đọc sách đi. Mà chị có nằm được không?
Em cuộn
cái chăn lại cho chị ngồi tựa nhé. Bọn em ban ngày ngủ chán cũng đọc
đấy chị ạ.
Nhiều khách để lại những cuốn hay phết. Nhưng mà sách nơi ấy em không
thể nào
đưa cho chị được. Cũng chả thể mượn sách chị mang vào nơi ấy được. Chị
Ngân nhớ
không, ngày xưa...
Xoay tấm thân
vẫn rất thon, con bé nhìn qua vai Ngân ra ngoài khung cửa sổ:
-
Khổ thân chị. Thời tiết này... Mưa phùn liên miên thế này... Người ta
bắt đầu
bán đào rồi đấy chị. Hoa chân chim thì đầy đường. Chị gắng khoẻ mà còn
ăn tết.
Chị bảo em cứ lên chỗ Hai Bà Trưng à? Chỗ giáp Triệu Quốc Đạt chứ gì?
Đúng rồi!
Dạo này em thấy gần nơi bán đồ thùng có mấy ông già đeo kính ngồi gõ
máy chữ
trên vỉa hè. Chị bảo họ cũng nhận dịch và viết những thư kiểu này à?
Trước lúc
khép cánh cửa lại sau lưng, con Hằng An đứng cúi đầu, sau đó ngẩng lên,
rất
buồn:
Lúc nãy chị hỏi em... Đứa bé... Chắc
là em sẽ... Chị Ngân
biết rồi mà. Ngày xưa mẹ em có bỏ em đâu chị.
Buổi chiều chạy đến cuối trời
bằng
những dấu chân trần trên tuyết
Trăng non
Nhớ ơi
những ngày gió bấc
Em đã đến
và đi
Ta đã quên
và xa
Từng không
biết sẽ bay cao tới đâu
Giờ không
biết sẽ rơi sâu tới đâu
Mười năm hơn
đời nào không lối rẽ
Nhưng chiều
nay trăng non soi những dấu chân trần trên tuyết
Tuyết đầy
những dấu chân
24.
Trong căn
phòng nhỏ ở nhà hộ sinh ngay sát gốc đa già, nơi mười chín năm xưa mẹ
cô sinh
cô, người con gái đã khóc ròng khi đứa bé của mình tuột vào đời. Bà y
tá già
nắm hai cái gót bé xíu của đứa bé, nhấc lên phát
đét đét vào hai bả vai bé bỏng của nó, rồi quay
sang người mẹ.
- Thôi khóc
khóc mếu mếu nỗi gì. Nó tuột ra rồi là nhẹ bụng. Sướng thì phải biết có
lúc khổ
lúc nhục chứ. Nghe này, nghe thằng cu nó cười này. Bác bảo này, mai này
ra
viện, ôm con về xin bố mẹ. Còn cái giống nhà thằng bé, nếu là nhân đức
thì họ
sẽ nhận cháu nhận con, mà nếu bạc ác thì có van có cầu cũng chẳng được.
Mặc mẹ
chúng nó. Gốc gác con người bao giờ chẳng từ cái lỗ tè của mình mà ra
hả con.
Đẻ thì nuôi. Rồi thì biết phận mà bóp bụng nuôi con. Thời bây giờ, các
mẹ trẻ
mặc váy ư, mặc quần kéo phéc mơ tuya ư, rẹt một cái là váy lên quần
xuống, hoá
chẳng bằng thời các bà đây mặc quần dải rút, muốn gì cũng phải giữ cái
dải rút
vài ba phút để nghĩ tới chuyện sẽ bị chửi bị nhiếc thế nào.
Con
Hằng An khóc không dừng nổi. Bà y tá
già mắng xa xả:
- Đã bảo im
đi. Gái đẻ máu non, khóc lóc cho lắm vào rồi sản hậu thì đời ra tóp. Đã
làm cái
kiếp đàn bà rơi vào cảnh này thì càng phải biết giữ lấy thân con ạ. Mày
có tiền
không đưa bác chạy ù sang đường mua cho bát xôi dằn bụng. Đẻ xong là
bụng trống
lắm. Khổ. Giá ngay tình thì có phải giờ này kẻ hầu người hạ rồi không.
Thằng bé
đẹp như thế này. Tao đang giờ làm, làm sao giúp mày được bát nước rau
ngót trục
cho hết rau bây giờ, lại còn bảy quả trứng luộc nữa, lấy đéo đâu ra
tiền lo cho
mẹ trẻ. Ngu chửa. Có nằm ngửa ra thì cũng phải biết bộ lòng thằng ấy nó
nặng
nhẹ ra sao. Bây giờ nó biệt tích. Mà nhà nó kiểu này cũng chả cần đếch
gì đến
thằng bé đâu. Cứ ngẫm lời tao. Mẹ mày có giận con sợ chồng thì giờ này
cũng
phải vào mà nhòm nhỏ con cháu xem sống chết thế nào rồi chứ.
*.
Con Hằng An nằm ngửa, hai bàn chân bắt chéo theo đúng lời
chỉ
dạy của bà cụ tốt bụng
đến thăm cô cháu dâu vừa sinh con đầu lòng nằm giường bên cạnh, từng
lúc lại
nghiêng mặt cho nước mắt thấm vào vai áo. Nó không để ý tới mùi máu,
mùi mồ hôi
xông lên từ chính mình, từ giường chiếu xung quanh. Nó không nghĩ tới
thằng bé.
Trong trí người con gái lúc này là hình ảnh của chính cô, mười chín năm
về
trước, bé xíu, đỏ hỏn, mi mắt nhắm tịt, húp lên, đôi môi mỏng cong lên
vì khát
sữa. Không hiểu sao cô lại hình dung rõ ràng như thế, và những câu
chuyện người
lớn nửa kín nửa hở kể trước mặt về cái hồi mẹ cô điên điên khùng khùng
trèo lên
cây đa trước cửa nhà hộ sinh hát suốt một đêm, về người đàn ông đã chăm
chút cô
khi người mẹ tưởng sẽ chết sau khi đẻ vì sót rau, đã cho cô một cái tên
như một
nguyện cầu công khai về hạnh phúc, một cái tên không như cuộc đời của
cô... tất
cả, trở về, sáng rõ, thực và xa vời. Người con gái khóc, không thể nào
dừng
được, không phải vì thương mình, mà là thương đứa bé ấy, đứa bé đã được
sinh ra
như thế, đã sống qua bao nông nỗi vượt quá tuổi mình mà vẫn ngỡ là bình
thường.
Bà y tá già tốt bụng hỏi đi hỏi lại:
-
Mày định đặt cho thằng bé tên gì? Chọn
cho nó cái tên đèm đẹp vào mày ạ, biết đâu đời nó mai sau sáng láng.
Đừng có vì
hận thằng bố nó mà thành ra suốt đời gọi con lại là réo hận trong lòng
mình
lên.
-
Cháu gọi nó là Thường An. Bố nó là Bình,
cháu là An. Bố Bình con Thường chắc rồi yên bác nhỉ.
Bà y tá già bỏ
đi, thở dài. Thằng bé Thường An và mẹ nó không biết rằng bên kia gốc đa
già
trong khu tập thể chiều qua có một cuộc gây lộn lớn. Bà nội và bà ngoại
nó,
những người đàn bà hàng xóm gia cảnh khác nhau, vốn đã không ưa nhau,
vào buổi
chiều thằng bé ra đời đã suýt đánh nhau.
Chính vì cuộc
chửi mắng nhau dậy trời ấy mà Ngân vốn vẫn được hai người đàn bà quý
hoá mang
ra làm tấm gương sáng cho con cái trong nhà đã không dám bước qua phố
sang nhà
hộ sinh thăm con Hằng An. Từ buổi chiều con Hằng An tìm tới nhờ dịch hộ
bức thư
tình của thằng cu Tây tăm tia nó, Ngân rất ngạc nhiên vì mình không hề
áy náy
gì khi nghĩ tới chuyện của nó, không cảm thấy ghê ghê vì cuộc sống lấy
lỗ làm
lãi của nó, không thấy khinh bỉ vì những tính toán trắng trợn của nó.
Thật lòng
Ngân còn mong cho nó túm chặt được thằng Tây mũi củ cải si tình và hiền
hậu đó
để ra đi, để khỏi phải sống lại tất cả những nông nỗi khổ ải của cô Tam
bao
nhiêu năm về trước khi không chồng mà chửa. Con Hằng An đáo để và cứng
rắn hơn
mẹ, nhưng đứa bé sẽ ra sao nếu mẹ nó nuôi nó bằng cái nghiệp lấy đêm
làm ngày.
Chỉ nghĩ đến thế đã thấy rùng mình, quặn cả lòng vì cảm giác bất lực,
khinh
ghét mình vì bất lực.
Sẽ không bao
giờ Ngân nói được một lời ân hận với Hằng An. Buổi sáng rời nhà hộ
sinh, ôm con
qua phố giữa tiếng gào thét chửi rủa của bà nội bà ngoại đứa bé, giữa
những con
mắt đầy vẻ tò mò độc địa, cô gái đã không tìm ánh mắt Ngân lúc đó đứng
ngay đầu
ngõ. Giá người đến đón Hằng An không phải là một cô điếm đồng nghiệp
của nó,
liệu Ngân có đủ can đảm giơ tay đỡ lấy đứa bé giữa thanh thiên bạch
nhật, giữa
tiếng xì xào không thèm giấu giếm của đám người bán người ăn quen biết?
Không
bao giờ Ngân dám trả lời câu hỏi này. Có những điều người ta sẽ phải ân
hận một
đời vì không bao giờ làm được.
Con Hằng An
mặt vàng như nghệ, trao đứa bé cho bạn, đi vào ngõ. Khuôn mặt nó, quen
thuộc
với Ngân biết bao nhiêu qua cái lối hơi hơi cúi, đuôi mắt dài nhìn
nghiêng
nghiêng, cặp môi cong cong như nũng nịu như giận dỗi, từ bé trông đã
rất đỗi
đàn bà và là nỗi sợ hãi không lời của vô số bà trong khu tập thể... giờ
ngẩng
cao. Đuôi mắt ướt lúc nào cũng như đang bị hút đi trong một cái nhìn
nghiêng vì
thẹn thùng kia giờ rướn lên, căng thẳng, kiêu hãnh và thê thảm. Cô Tam
vừa chửi
con gái, vừa giằng lấy cái bọc đùm thằng cháu, vừa cười: 'Cha con mẹ
mày. Bà
lại cứ tưởng tòi ra thị mẹt thì bà cháu mẹ con khổ không biết đến bao
giờ.' Đám người ăn người bán vừa nãy còn
tò mò nhìn ngó, xì xào bình phẩm đột nhiên cười râm ran:
- Mẹ Tam lên
chức sướng nhé. Bà ngoại muôn năm.
- Rậm người
rồi ra rậm của chị Tam ơi. Về giúp con nuôi cháu, mai sau nó cúng vái
cho.
- Nhà Hải
Phương không ra nhìn mặt cháu đích tôn à. Giờ chửi bà nó, oán mẹ nó,
ruồng bỏ
nó, biết đâu sau này thằng bố nó không tòi ra thêm được con củ nào cho
ông bà
nội thì lại ngồi đó tiếc mà chả làm gì được.
Ba người đàn
bà và đứa bé tiếp tục đi sâu vào cái phần đuôi chuột của ngõ, thản
nhiên. Bà
nội đứa bé mới ra đời đưa tay thít chặt lại cái khăn mỏng choàng trên
đầu, cúi
mặt bước. Ngân đứng đối diện nhà hộ sinh dưới gốc đa, xe cộ nườm nượp
qua lại,
mấy chiếc lá vàng tần ngần rơi, gió vô ưu trên cao lắm. Bất chợt nhớ.
Gốc đa
này, những ngày sau chiến tranh, một xác trẻ không tên. Gốc đa này,
cũng những
ngày tháng đó, cô Tam hết bình thảo lại sa mạc chênh, rồi cò lả. Gốc đa
này,
con Hằng An đã theo bọn Ngân đi dính ve và tè trộm. Và bây giờ, ở đó,
nó sinh
ra một cuộc đời, một cuộc đời không biết rồi ra thế nào. Ngân nghĩ lan
man về
đám bạn vừa mới cùng một giảng đường với nhau nay tứ tán, về mình, về
những
quyết định phân công công tác không thể nào thực hiện được, về cái sổ
gạo trong
đó hai chữ sinh viên cùng dòng với tên mình đã bị gạch bỏ, và con số 15
kg đã
bị sửa thành 13, 5 kg. Không biết rồi ra thế nào!
Đâu rồi những
cuồng điên, đam mê, gào thét
Đâu rồi những
vật vã, chia li, hoảng hốt, lo âu
Đâu rồi tất
cả đâu rồi
Những ngày
cháy khát bên nhau?
*
Tuổi đã ngoài
bốn mươi
Thấy đời
toàn chắp vá
Như mối tình đang say đắm này đây
Có thể nàng sẽ bỏ hắn để theo
Ngưòi đàn ông khác
Có thể hắn sẽ bỏ nàng để theo
Người đàn bà khác
Có thể chỉ chán mà buông nhau
*
Những mẩu vụn thơ
Như những mẩu vụn bánh mì
Không đủ nuôi ta sống
Nhưng dù sao...
Một năm sau, con Hằng An để con lại
cho cô Tam, đi Tây. Cả
khu tập thể ú ớ trước đám cưới của nó, có một không hai. Cậu rể Tây,
râu quai
nón cạo nhẵn, mắt nhạt tóc nhạt lông mày nhạt và mặc dù tuổi còn trẻ đã
lâm vào
tình trạng rửa mặt thì lâu gội đầu thì chóng khom người chui ra từ cái
xích lô
gọng vàng rèm đỏ, hùng dũng đi vào nhà cô Tam, thân hình cao to ngó
chật cả
ngõ. Con Hằng An bé nhỏ đứng bên cạnh nhắc vở và người đàn ông Bắc Âu
khó nhọc
nói những câu tiếng Việt rời rạc không dấu. Cô Tam cuống quýt khi ông
rể Tây
khom người, chắp tay:
- Con chao me. Con xin lam con re me.
Con yeu em Hang An cua
me. Con xin cuoi em Hang An. Hom nay con dua bo me con den tham me.
Sau này Ngân
nghe cô Tam kể lại rằng một trong những điều kiện mà con Hằng An đưa ra
với cậu
chàng Tây là phải làm đám cưới đàng hoàng, có mặt bố mẹ chồng. Ông bà
cụ người
Thụy Điển mặt mũi phúc hậu bước vào ngõ nhỏ đầy rác và ruồi mà không hề
nhăn
mặt. Ông con rể tương lai, không biết đã thụ giáo tiếng Việt từ bao giờ
lần này
không khom lưng mà cúi cổ về phía bà mẹ vợ:
- Bo me con
noi nhan dan Viet Nam song kho qua. Kho nhu the nay ma chien thang
America.
That anh hung. Bo me con noi ong ba rat kham phuc.
- Thế cô nói
gì với họ? - Mẹ.
- Thì bác
bảo em biết nói gì? Nhà cửa con
Hằng An đã gọi thợ tới sửa, đã mua sắm đồ đạc lỉnh kỉnh. Nhưng mua về
bày đấy
nó lại bảo em là thằng chồng nó bảo ở bên xứ chúng nó tủ lạnh để trong
bếp chứ
không bày ra như mình. Nhìn ảnh nhà cửa bố mẹ nó em nghĩ ông bà ấy phục
mình
thì phải quá. Chị tính bao nhiêu năm em ở trong cái xó đấy, ngửi đủ thứ
cứt
người cứt lợn cứt gà, ngửi nhiều đến nỗi bây giờ mà đi vào ngõ không
thấy cái
mùi ấy khéo lại đâm sợ có chuyện gì mà vẫn sống thì đúng là giỏi còn
gì. Giờ đã
đến nước này, thôi thì cũng chỉ còn biết mong con bé sang xứ người yên
ổn với
thằng ấy rồi rước nốt con nó đi. Em cứ nghĩ thương thằng bé con chị ạ.
Giá mà
đằng nhà thằng bố nó biết quý người, em sẽ khuyên con Hằng An để con
lại cho
bên nội... Thì em còn có chỗ đi về thăm nom máu mủ mình.
*.
Cô Tam khóc.
Bao nhiêu lần nước mắt đã chảy trên gò má giờ có da có thịt nhưng đã
đến tuổi
nhão kia? Thời gian ấy là thời gian Ngân nhận phân công công tác về Hà
Sơn
Bình, về đúng Hà Tây cửa ngõ Thủ đô. Chạy chọt thêm một chặng nữa mới
được dạy
ở trường huyện gần miền quê Ngân đã về sơ tán những năm bé tí. Tuần
tuần Ngân đạp
xe hơn ba chục cây từ trường về nhà. Đoạn đường chẳng bao xa nhưng cứ
như dẫn
tới một thế giới khác. Khi đi, là những ngôi nhà kiến trúc vừa phô
phang vừa
đơn điệu của mấy thị trấn thị xã, là những đầu hồi lởm chởm gạch vỡ
chìa ra sát
đường, mùi rạ mục và mùi chuồng lợn, những dáng xoan vừa xanh lại giữa
chiều
xuân. Khi về, mặt trời xiên khoai sau lưng, Hà Nội lên đèn, thoáng mùi
hoa loa
kèn ngày chớm hạ, trăng trong mưa lạnh đêm mất điện, lòng không buồn
không vui,
rỗng. Dù mỗi dịp về là lại tụ bạ cùng bạn bè nói cười mỏi hàm.
- Hằng An
sống thế nào hả cô? Cô có thư cho em nói cháu gửi lời thăm nó với nhé.
- Em nó mới
làm giấy tờ cho cô với thằng bé cháu ạ. Chắc ít ngày nữa cô đi. Thế mày
có cưới
sơm sớm lên cho cô dự được không cháu? Chứ không bà lão đi chẳng biết
bao giờ
về được.
Cưới? Ai? Chỉ
nghĩ đến chuyện sẽ phải chung giường chung mâm mỗi ngày với một người
mình
không yêu dẫu rằng mình được mê đắm, chỉ nghĩ đến chuyện sẽ phải vật vã
hơn nữa
vì cơm áo, đã hoảng hồn. Hoảng và buồn, bởi biết vậy và cũng biết rằng
rồi cũng
phải qua bước ấy như bao nhiêu cặp vợ chồng bạn bè. Những ngày đó cô
gái đã
thôi không còn nghĩ được tiếp rằng chỉ cần biết có một tình yêu đích
thực, dẫu
không bao giờ có cho riêng mình, thế đã là hạnh phúc. Bao nhiêu cuối
tuần từ
nơi làm việc trở về cô gái đã dừng xe ở một quán nước chỗ Ba La Bông
Đỏ. Quán
nước vô duyên. Mấy cái kèo cái cột nứa, sau trước chẳng xanh chẳng đỏ
một bờ
rào râm bụt hay cúc tần ô rô. Trước mặt: đường cái. Sau lưng, con đường
lổn nhổn
gạch đá dẫn vào trại lợn giống. Người đàn ông ngồi sau cái chõng tre
bày mấy
cái thẩu thủy tinh đựng kẹo dồi chó, kẹo vừng kẹo lạc, bánh rán tẩm
đường. Anh
ta còn trẻ, lại đẹp trai, chỉ nội đôi mắt biết cười đã đủ níu chân
người, chưa
nói bánh rán hàng nước này ngon dễ sợ. Đôi mắt...
*.
Có cái gì
quen lắm trong cái nhìn. Ngân sẽ nhận ra vào một buổi chiều, khi ngồi
sau cái
chõng tre rót nước cho Ngân là một người đàn bà:
- Anh đâu
rồi chị? Mọi lần em đều thấy anh
bán hàng.
- Cái cẳng cô ạ. Nó lại đau. Chả hiểu
sao. Thời tiết mấy hôm
nay thì có mưa gió ẩm thấp gì đâu.
Người đàn bà nhã nhặn, nhưng không mặn
mà.
- Thế...
Chắc chị phải giúp anh hàng ngày
dọn hàng từ trong làng ra đây chị nhỉ? Cũng xa...
- Không cô
ạ. Cô có ăn thêm cái bánh rán
không? Nhà tôi ngay trong trại lợn kia kìa. Tôi làm việc trong đó cô ạ.
Chỉ đến
lúc đó Ngân mới để ý dáng dấp của
chị chủ quán. Mắt hiền và sáng. Búi tóc mượt và dày, không có những sợi
xơ xơ
vì cháy nắng. Cả cách ăn mặc. Là của người nhà nước, sơ mi, quần lụa,
lại còn
đôi guốc nhựa dưới chân. Nói năng chừng mực, khác hẳn kiểu vồn vã cởi
mở của
mấy chị nhà quê giỏi xoay xỏa việc nhà.
- Em
hay ghé hàng nhà ta. Mọi ngày chỉ có
anh bán hàng. Không hiểu sao em nhìn anh thấy quen ghê lắm.
- Cô
chắc người Hà Nội? Vợ chồng tôi không
phải dân vùng này cô ạ. Anh ấy quê trong Vân Ngoại. Tôi thì xa hơn một
chút. Ở
gần Khu Cháy. Phải rẽ Vân Đình hay qua quê nội các cháu tới Ba Thá, qua
cầu rồi
xuôi theo đê. Cô có nghe mấy cái tên ấy bao giờ chưa?
-
Chị là... Chị có phải là chị Thục nhà ông
Lẫm? Ôi giời ơi chị Thục! Bây giờ thì em biết sao trông anh quen thế
rồi. Em là
cháu bà Khoản ở làng đây chị. Ngày xưa em về sơ tán, chị nhớ không? Chị
vẫn dẫn
em đi xem chèo ngoài bãi, vẫn cho em mượn Trích giảng văn học của chị
để đọc
ấy. Ôi trời! Sao em lại không nhận ra chị ngay nhỉ? Thế nhưng mà ngay
hôm đầu
ghé hàng em đã thấy anh quen quen. Có phải ông đại đội trưởng của chị
ngày đấy
không?
Người đàn bà sững sờ nhìn khách:
- Mày là
con Hà Nội ngày ấy đấy hả?
Nụ cười nụ
mếu, người đàn bà chủ quán hối
hả:
- Làm
gì mà hay ghé hàng nhà chị hả em? Giá hôm nay chị không ra trông hàng
đỡ anh
thì chả bao giờ chị em gặp nhau. Đúng chú bộ đội của mày đấy. Hồi ấy
anh ấy
đóng quân ở làng mình. Chao ôi! Ngày đó mày còn như cái kẹo mút dở...
Để chị
gọi cháu ra trông hàng... Nhà ngay phía trong đây thôi, ở đây ăn với
anh chị và
các cháu bữa cơm. Giờ mới xế xế, năm sáu giờ đạp xe ra Hà Nội cũng
không sợ muộn,
càng đỡ nắng
- Thôi thôi
chị. Để tuần sau đi chị. Em còn qua lại đường này luôn mà. Em dạy học
trong đó
mà chị. Bên kia sông là Ba Thá, trường em bên này sông, chỗ chợ Thá
đấy. Em có
vô khối học trò bên sông, cả dân Vân Nội Vân Ngoại nhà chị nữa. Thế chị
làm gì
bây giờ chị? Hồi hết đánh phá, ra Hà Nội rồi, thỉnh thoảng về làng, em
nghe chị
đi học xa. Bà em chẳng biết trường nào, sau này bà em cũng ra Hà Nội,
thành
ra...
- Chị học
Nông nghiệp. Đại học Nông nghiệp 1 ở Gia Lâm ấy. Chị là kĩ sư chăn
nuôi, giờ
làm trại giống ở đây. Tao nghe dân Hà Nội giờ tăng gia sản xuất như
điên. Ra
nhà bà chị chồng ngoài ấy, ở khu gì nhỉ? - Giảng Võ Thành Công gì ấy,
đi vào
nhà xí còn phải vác theo cái roi xua lợn. Em
lấy chồng chưa? Nhà có chăn nuôi thêm thắt gì thì
khi nào qua đây chị
chuẩn bị cho đôi lợn giống nghiêm chỉnh mà đèo về.
*.
Một đôi lợn
giống nghiêm chỉnh đến thế nào chăng nữa cũng chưa bao giờ có trong
chương
trình sống của Ngân. Quá đủ với Ngân cái mùi phân lợn phân gà, mùi thức
ăn cho
lợn cho gà bốc hơi nồng nồng chua chua từ những năm tháng ấy, phảng
phất đầu
phố cuối ngõ, hùng hổ xộc thẳng vào mũi khách khi gõ cửa một căn hộ lắp
ghép.
Hàng xóm không có chỗ chăn nuôi hoặc không muốn chăn nuôi thêm thắt
kiểu đó
sống dở chết dở vì cái mùi đồng quê không mùa ấy giữa thành phố. Ai
cũng biết
đấy là chỗ dựa vật chất và tinh thần của mỗi nhà những lúc gia đình có
việc: ốm
đau, tết nhất, giỗ chạp, ruột thịt ở quê gặp phải kì thất bát thóc cao
gạo kém.
Nên chẳng thể nào than vãn hay trách cứ gì nhau. Nhưng không làm sao
Ngân dẹp
đi nổi nỗi hoang mang khi tạt qua nhà cậu bạn trai từng nhòm ngó mình,
vừa câu
trước câu sau bà mẹ bạn đã ra nhắc ông con lúc nào rảnh rỗi thì đi đèo
nước vo
gạo về cho lợn làm cả hai cùng lúng túng. Hay khi buổi trưa buồn tình
tới nhà
cô bạn học cũ thấy bạn cúi mặt thái rau cho gà. Bạn vốn kĩ sư công
trường thủy
điện sông Đà, lấy chồng đồng nghiệp và mới rủ nhau bỏ việc về lại Hà
Nội, loay
hoay chưa biết sống ra sao. Cái xoong nhôm móp mất vung, dáng bạn nhếch
nhác
trong bộ đồ mặc nhà đã tàu tàu, và câu chuyện miên man tiếng cười giữa
những
người trẻ tuổi chưa có việc hay vừa bỏ việc làm cho Ngân nhiều lúc vừa
sợ vừa
nản. Phan đã thôi không thư từ lâu rồi. Vĩnh, sau buổi chiều ngỏ lời
cay đắng
đã thôi không đến thường xuyên nữa. Chỉ còn Việt, nhẫn nại, bình thản,
như đam
mê chiều nào đã vĩnh viễn qua rồi, lúc đến, lúc đi, bao giờ cũng kịp
thời đúng
kiểu một người bạn thân thiết. Phan, không ai biết thực ra đang sống
như thế
nào ở đất nước xa xôi kia. Vĩnh, đã yên thân ở một chỗ làm tại bộ ông
bố đang
là thứ trưởng. Việt, không có một ông bố và bà mẹ mạnh nhưng may mắn
được giữ
lại trường, chúi đầu học ngoại ngữ tính đường xuất ngoại làm phó tiến.
'Để cân
bằng lực lượng.' Việt đã cười cười trả
lời Vĩnh khi cả lũ tụ tập nhân ngày sinh của Ngân. Cân bằng lực lượng?
Với ai?
Cả lũ cười ầm ầm, căn vặn. 'Thì tại là vì mấy đứa cùng năm ở lại trường
đều hơn
mình ấy mà. Toàn cháu ông, không thì cũng là con mấy ông thầy cả. Thầy
dạy khoa
này thì con lại ở khoa kia, rút cục bố con đồng nghiệp cả.' 'Vậy mới
sướng, chứ
như Ngân hồi nào ngâm ngợi cha vẫn trong chiến trường con đã xin nhập
ngũ một
hòn đá Trường Sơn cả hai cùng gối ngủ nghe mãi nẫu hết cả người' - Một
cậu bạn.
Cô bạn gái cậu ta rụt rè lườm bồ: 'Thế sao bố em bảo anh làm hồ sơ xin
về viện
Kĩ thuật quân sự anh hớn ha hớn hở làm ngay?'
Ngân dàn hòa:
- Bố vợ
con rể đồng ngũ thì cực kì còn gì.
Tuấn cũng ở lại trường chứ gì? Khiếp! Học gì không học lại học Vũ khí.
Nếu anh
Tuấn không về được viện bố Thu thì làm sao hàng tuần từ Hương Canh về
đưa Thu
đi chơi được.
Cô bé phụng
phịu em đến chơi với chị. Không hiểu Tuấn nghĩ gì mà thấy bàn tay ông
bạn kín
đáo cầm lấy những ngón tay người yêu. Vĩnh lặng im từ lúc nghe Việt
tuyên bố
học để cân bằng lực lượng và Ngân ngần ngừ không dám kể cho các bạn
nghe một
chuyện buồn nóng hổi của mình. Vừa buổi trưa nay thôi Ngân nhận được
lời từ
chối tiếp nhận của một trường đại học mà trường Ngân giới thiệu sang
xin việc.
Cậu cán bộ giảng dạy ranh con, có lẽ chỉ hơn Ngân một hai tuổi, nhìn
Ngân
thương cảm rồi hỏi:
- Thế bạn về
đây thì ai đỡ đầu?
- Không ai
cả. Anh biết không? Không ai cả - Ngân cười - Chỉ có mỗi cái cổ tôi đỡ
cái đầu
tôi thôi anh.
Phải, chỉ với
cái cổ đỡ cái đầu, Ngân làm sao cạnh tranh được với những người như cậu
ta. Thi
trượt đại học ở Hà Nội thì xin về học ở một trường đại học địa phương
mới thành
lập, rồi lại xông ra Hà Nội với một tờ giấy viết tay gửi cho đồng chí
hiệu
trưởng: 'Cháu... đã tốt nghiệp đại học, có nguyện vọng làm việc ở chỗ
anh. Anh
xem có cách nào giải quyết thì báo cáo gấp.' Ông trưởng khoa báo chí
từng nhận
là bạn học với mẹ từ hồi Quế Lâm Trung Quốc kể cho Ngân nghe hành trình
xin
việc của cậu ta, rồi chìa vào mặt Ngân đơn xin việc của một cô bạn quen
nhưng
học khoa khác: 'Chú rất tiếc. Thôi cháu thông cảm... Cô này về đây thì
không
đúng chuyên môn, nhưng mà lại là con ông... Chú cứ nghĩ việc cháu coi
như xong,
cháu về làm việc sẽ đỡ được bọn già như chú nhiều lắm đấy. Nhưng bây
giờ...
Nhận cô này thì lại mất mấy năm cho đi đào tạo tiếp đây...'
- Bọn cháu
vẫn dặn nhau kẹo ngậm đến miệng
còn rơi mà chú - Ngân chặn ngang lời rên rỉ ỉ ôi rất thật lòng của ông
trưởng
khoa suýt nữa thành sếp - Dù sao cháu cũng cảm ơn chú đã hết lòng.
Mười ba cây số
đạp xe trong trưa. Nắng tháng tám mắt đổ hoa cà hoa cải. Nằm bẹp như
gián hơn
tiếng đồng hồ rồi lại lóp ngóp đi tới tòa soạn báo mà Ngân đã đặt đơn
xin việc
theo lời giới thiệu của một bà giáo sư nổi tiếng về cả tài năng và đức
độ.
Không hiểu sao lúc đó lòng Ngân bình thản thế: không lo sợ, cũng không
hi vọng
gì, mặc dù Ngân hoàn toàn tự tin mình sẽ làm việc tốt qua mấy tháng đi
viết
thử. ' Thật là tiếc' - Bà trưởng ban nhìn Ngân qua cặp kính trễ mũi -
Chúng tôi
rất hài lòng về các bài viết của cô. Có phong cách lắm. Chúng tôi ai
cũng chung
nhận xét như thế. Nhưng năm nay báo chỉ có một chỉ tiêu. Nếu mà cháu
chờ được,
sang năm nhất định chúng tôi sẽ nhận cháu.'
- Ai được về
năm nay hở cô? Có phải trong đám thử việc chúng cháu không cô?
- Thì... đấy.
Xem nào, cô Liên, cháu cũng biết chứ?
Biết quá. Chị
sinh viên cùng năm nhưng đã ba nhăm ba sáu tuổi, dân khoa Lý, cán bộ
địa phương
đi học, có ông chồng quan chức ở tỉnh mới được điều về bộ, nói ngọng lờ
nờ và
viết thỉnh thoảng lại lẩm bẩm nờ cao hay nờ thấp nhỉ. Nắng ngoài kia đã
dịu đi.
Hàng sấu bắt đầu gió nổi. Toà báo này ở góc phố này đẹp quá. Nếu mình
làm việc
nơi đây? Ngân cười, chào bà trưởng ban:
- Thôi cháu
về... Cảm ơn cô về lời hứa. Nhưng cháu không thể chờ cô ạ. Nhỡ sang năm
lại một
người khác có những điều kiện như chị Liên hay có khi hơn chị Liên xin
về, cháu
chắc cô có ưng ý cách làm việc của cháu bao nhiêu cũng không thể nhận
cháu.
Đúng không cô?
Bà trưởng ban xếp lại mấy tờ giấy
trong khi mắt vẫn nhìn
Ngân. Bà gật đầu khe khẽ. Ngân có nghe lầm chăng: Hình như bà khe khẽ
thở dài?
Gặp sông Lahn một quãng vắng trong rừng
Thấy sóng trên sông chở nắng
Chở
gió,
Và
tiếng chim
Trôi lên
phía trước
Mỗi ngày sống - mỗi ngày xxa
Mỗi ngày xanh trong cỏ biếc
Gập ghềnh qua
Gặp sông Lahn một quãng vắng, trong rừng
26.
Người đàn bà
trẻ con nhớ bạn. Nhớ xót xa. Có lẽ bạn không sai chăng khi quyết định ở
lại đất
nước ấy. Về để làm gì? Liệu có thoát được hành trình khổ ải này không
nếu cũng
chỉ như nhau, không có linh kiện phụ tùng gì đi kèm cái bằng đã tu
luyện bao
lâu mới có. Bất chợt phì cười. Ừ, bố mẹ thì ai đầu tư được. Bàn là,
phích nóng
lạnh, tủ lạnh, xà phòng thơm... Có thể... Cần có bao nhiêu dữ liệu như
thế để
dán lên cái bằng đỏ của bạn nếu bạn học xong về nước đi xin việc? Và
nếu như
thế, cơn ác mộng của bạn có trở về?
Đấy là sinh nhật
cuối cùng có đông đủ bè bạn
của Ngân. Tíu tít chuyện. Những câu chuyện không đổi: Tốt nghiệp và
chưa tốt
nghiệp. Đi làm và chưa đi làm. Một lô một lốc bạn gái cưới chạy để hợp
lí hóa
chuyện phân công công tác. 'Các bà đi lấy chồng ở tuổi này thì có lí,
nhiều
chiều có lí. Chồng càng già càng dễ xin việc. Chứ bọn này mới ngoài hai
mươi đã
cưới vợ, mà lại phải cưới vợ thật già để họ gồng gánh cho mình thì sẽ
đi từ phi
lí này tới phi lí khác mất' - Một cậu bạn. Chưa một ngày sinh nào người
đàn bà
trẻ con thấy mình cô đơn đến thế. Tất cả vừa xảy ra hay đang diễn ra
đều thành xa
xôi. Xa, như một ngày, đã xưa. Mà hồn vẫn nôn nao bao nhiêu khao khát,
vẫn như
bị thúc hối bởi một điều lưng chừng giữa hi vọng và bất lực. Như một sự
tự kiểm
tra mình, Ngân cầm từ nhà bạn về cuốn 'Thép đã tôi thế đấy'. Không đọc
lại nổi.
Chỉ mươi trang đầu lật qua đã biết không cách gì đọc tiếp. Một tấm
gương như
thế sẽ chỉ có ích khi người ta không phải đem soi vào từng ngày sống
buồn nản
và hoang mang của mình. Thật lạ lùng, chính lúc ấy người đàn bà trẻ con
nhận ra
mình thấy được ân tình trong bao nhiêu nông nỗi. Với con Hằng An. Hay
chị
Thục... Ngân không thấy ghê ghê như đã từng tưởng là mình sẽ thế lúc
con bé
ngồi ghé bên giường. Hôm nó đến nhờ dịch thư... Buổi chiều ấy xám...
Ngân cũng
không còn nhớ nữa cái cảm giác lờm lợm khi cùng bọn ranh con đi nhòm
qua lỗ
tường thủng sang nhà hàng xóm và nghe thấy những tiếng hổn hển y hệt đã
từng
nghe trưa nào, khi đứng dưới gốc khế đầu hồi nhà chị Thục. Cái kết cục
có hậu
của một mối tình thời chiến tranh giữa chị Thục và anh Khá, giữa một cô
gái
làng có học và một anh sĩ quan trẻ về đóng quân làm Ngân thấy tin yêu
tất cả
nhiều hơn. Chỉ có điều sau đó cũng buồn hơn mỗi lần tạt vào quán nước
nhà chị,
bắt gặp anh Khá, nạng gác trên ghidong xe đạp, tươi cười chào Ngân và
giục con
ra hạ hàng họ vừa mua về xuống. Cảnh gia đình của anh lí tưởng như
trong tiểu
thuyết. Có đam mê thời đạn bom. Có yêu thương chờ đợi người ra trận. Có
yên ấm
ngày sum họp. Vợ trí thức nông thôn. Chồng thương binh vừa ngồi bán
nước vừa lo
sổ sách chi bộ. Những đứa trẻ ngày ngày sáng đi học chiều đứa nào việc
nấy tuổi
nhỏ làm việc nhỏ tùy theo sức của mình đỡ đần bố mẹ. Nhưng chị Thục
gầy, anh
Khá gầy, bọn trẻ gầy.
*.
- Gầy mới
là lương thiện, mày còn đòi gì -
Chị Thục cười - Chí Phèo ngày xưa học giảng văn mày nhớ không, tự giết
mình
cũng chỉ để đòi cho được có cái ấy thôi đấy.
- Chị thì
chỉ... Ai lại làm một dấu bằng kì
cục thế.
- Kì thật
em nhỉ. Nhưng mà mày có nhìn thấy
mày bây giờ không? Con gái tỉnh mà có khác gì bọn tao dân nhà quê.
- Da em
bắt nắng lắm chị ạ. Tuần đạp xe đi
đi về về một lần thế này là y như vừa đi biển về. May mà trời nắng còn
có hứng
về Hà Nội chứ trời mưa thì đành thu lu ngồi lại trường.
- Nhìn cái
cảnh mấy cô giáo nhà xa ở lại trường nó nẫu người lắm mày ạ. Xem thế
nào rồi mà
xin chuyển chứ không khéo rồi ê sắc đấy. Đứa nào chạy vào quảy cho mẹ
thùng
nước ra đây nào. Kìa kìa, xùy con gà đi chứ không nó bới tanh bành ra
bây
giờ... Hay là ở quách lại đây rồi chị tìm cho một tấm chồng. Có tay phó
giám
đốc sở ở gần gần đây, mới vào tỉnh ủy. Mày chịu không?
Hai chị em cứ
nửa đùa nửa thật. Thành thì rồi xin một phát là bắn về được trường thị
xã ở đây
ngay. Tiếng rằng không phải Hà Nội nhưng lại là cửa ngõ Thủ đô thật,
còn có
mười cây số là tới phố. 'Chả hơn gấp vạn về Hà Nội nhưng lại phải lên
tận Hà
Nội can, những Kim Anh Mê Linh Sóc Sơn ấy à, chờ đến ngày toài về được
tới nội
thành thì cũng đã sắp đến tuổi nhận sổ hưu.' Chị Thục săm sắn lên ngay
một kế
hoạch giới thiệu đối tác. Ngân cười cười. Ai biết ngày mai thế nào?
*.
Biết ngày mai
thế nào. Con Hằng An đã đón mẹ đi Tây. Hai mươi năm trước ai dám nghĩ
rằng cái
người đàn bà dở dại leo thoăn thoắt trên chạc đa, xoã tóc ngồi vẽo vọt
dân ca
cổ truyền kia sẽ cưỡi máy bay đi xa hơn tất cả đám đàn bà trong khu tập
thể?
Thằng Phi nhà chú Phúc cô Thủy bỏ nhà đi sau vở hài kịch mẹ nó dàn
dựng, ngày
bố từ chiến trường ra cũng không về, nghe nói nay đã là một đầu gấu
đáng nể mới
chuyển địa bàn từ ga về khu vực Giáp Bát. Phan đi học và ở luôn lại đất
nước xa
xôi kia, giờ ra sao? Việt cũng phấn đấu đi. Chú Thái, bố kể, có hai
thằng con
cũng cho đi xuất khẩu lao động cả hai và giờ đã yên thân ở một nơi nào
đó trên
bản đồ thế giới sau khi Liên Xô sụp đổ, rất chịu khó gửi tiền về. Giờ,
chú Thái
ra ra vào vào ngôi biệt thự xây bằng tiền của mấy đứa con trogn cái ngõ
ngang
dành cho kẻ ăn người làm một thuở, trông người vợ dại. Vĩnh thì bình
yên trong
sự sắp đặt của bà mẹ, hàng ngày đi đi về về cơ quan bộ... ở cái phố đẹp
nhất
nhì Hà Nội, dưới quyền ông bố vẫn thứ trưởng nhưng đã vào trung ương.
Còn cái
ngõ đầu khu tập thể thì ngày một teo lại vì đủ thứ bàn thứ gánh của các
hàng ăn
mà chủ thường là các bà các cô người trong khu không mất sức thì mất
việc. Cái
ngõ có cơ biến luôn thành một chợ cóc khiến các nhà quanh đó háo hức
mừng rỡ vì
ở mặt đường dễ buôn dễ bán, còn Ngân thì bực dọc trong lòng bởi hàng
tuần từ
trường về lại phải chen chen chúc chúc để vào nhà, và mỗi bận bạn ra
về, cũng
vì sự phát triển của cái ngõ, người đàn bà trẻ con đã bỏ luôn thói quen
tiễn
bạn ra tận phố. Thôi những buổi chiều lững thững dẫn nhau đi, dừng chân
đầu ngõ
tiếp tục câu chuyện còn dang dở, lắng nghe tiếng vòm đa gió chuyển,
hỉnh mũi
trước mùi hương khói lan khắp mặt phố những ngày rằm mồng một. Từng
ngày một,
những thói quen mất dần, có vẻ chẳng khó khăn gì. Chỉ có điều không
hiểu sao
lòng bứt rứt không sao chịu nổi. Bứt rứt trong ngày nắng. Bứt rứt trong
ngày
mưa. Bứt rứt vì những điều mình khát khao sao mà vô nghĩa.
*.
- Nhiều lúc
chị chả biết mình mong mỏi cái gì nữa mày ạ. Vô lí thật. Ngày xưa thì
khác. -
Chị Thục chỉ anh Khá đang loay hoay sửa lại dây nịt cái chân gỗ - Ngày
xưa gặp
cái ông này rồi thì chỉ sợ ông ấy đi B chết mất xác, chỉ mong ông ấy
lành lặn
trở về. Ông ấy về, cụt, nhưng dù sao thế cũng là hơn khối người, lại
còn có cái
thẻ thương binh đỡ gia đình khối đấy mày ạ. Chứ nghĩ như bao nhiêu
người...
Chị Thục rót
cho Ngân một bát nước chè tươi ủ vừa ngấu. Ngân ấp hai bàn tay lạnh
cóng vào
bát, nhìn dọc con đường ven thị xã lơ thơ mấy ngôi nhà tường gạch mái
rạ. Một
chiếc xe tải gầm gừ lăn qua. Bụi ngày hanh ngột ngạt.
- Chị nhớ
chú Trong không? Chú Trong nhà cô
Xanh ấy.
- Sao
không? Bọn chị học chung mười năm. Cả
làng năm ấy có chị với anh Trong về tận Kinh Đào học cấp ba đấy. Vậy mà
người chết
cũng mười mấy năm rồi. Cái Thầm ngày xưa nhà bà Trong đã mang trầu cau
dạm ngõ
cũng cùng nghề với em, dạy mấy đứa trẻ nhà này đây này. Dạy môn thể
dục. Con
gái nhà quê ngoài ba mươi rồi vẫn chưa chồng con gì cả, mày tính... Vừa
rồi
tỉnh có kế hoạch giúp đỡ giáo viên, ai có sức cho mượn đất mà tăng gia,
nghe
đâu nó cũng được một sào. Phải vậy không anh? Nước vừa ủ, buông tay
uống một
bát với cô Ngân này anh.
Anh Khá
thít lại cái dây da, cười:
- May mà
vợ con rồi, chứ cẳng gỗ nối cẳng thịt
thế này mà đi tán gái nhỡ vớ phải bà mẹ cay nghiệt thì bà ấy có chửi
cũng đành
phải đi chậm mà nghe cho hết. Cô Ngân đi đi về về thì không cần, chứ
chắc
trường cô cũng xin hợp tác xã chia đất cho giáo viên nhỉ? Cô Thầm được
một
khoảnh. Thỉnh thoảng có việc tới ủy ban thị xã, đi ngang vẫn thấy cô ấy
cặm cặm
cụi cụi.
Chị Thục
thở dài:
- Chị em
cùng làng, lứa trên lứa dưới biết
nhau cả. Mà ít gặp nhau lắm. Có vẻ cô ấy không thích qua lại. Quá lứa
rồi thành
tính khó lắm... thành thử chị cũng không dám mặn chuyện. Mà hôm rồi về
làng chị
gặp cái Xanh nhà bà Trong. Mày gọi nó là cô đấy hẳn?
- Thì bà em
bảo thế nào bọn em gọi thế. Cô Xanh từ trong Nam ra cũng gần một tháng
rồi chị
ạ. Mắt cô ấy giờ kém lắm, bảo chạy chữa mãi mà không khỏi. Tuần trước
giỗ họ,
bố em dặn em nhân thể từ trường về làng đóng giỗ luôn, em gặp, cô cháu
nói
chuyện vui lắm mà rồi sau cứ buồn buồn. Chị với cô Xanh ngày xưa ở làng
thân
nhau lắm phải không
- ...Kể ông cũng
chu đáo quá. Chứ cụ mất rồi
thì phiên phiến cũng được. - Chị Thục không dưng bỗng lảng.
- Không phiên
phiến được chị ạ.
*.
Không phiên
phiến được. Vì người được giỗ là chị họ, chị dâu họ thôi, nhưng lại là
bạn gái
thân thiết của bà Ngân những ngày nhà gieo neo nhất. Người chị họ người
quê
Kinh Bắc, dạt về Hà Nội làm nghề hát ả đào mà rồi gặp ông anh họ của bà
Ngân.
Ông vốn là chức sắc, nhưng trải những ngón ăn chơi đất Hà Thành hơn là
trải
việc ôm con dấu bóp nặn đám dân ngu trong làng trong tổng. Được cái nhà
có máu mặt,
sẵn tiền của cho ông thỏa chí ăn chơi. Thế nên một tháng thì phải có
tới hai
tám ngày ông ngồi xe kéo của nhà đi từ nơi hút thuốc phiện qua nơi có
tiếng đàn
tiếng phách.
- Ấy ông
chánh hội thì ngón nào chả biết. Nhà giàu nứt đố đổ vách thật đấy nhưng
mà
không hợm. Chơi bời là thế nhưng khi nào ghé nhà mình là chỉ xin ăn cơm
với
canh cải nấu cá rô, thêm bìa đậu kho tương. Đất Hà Nội người ta ăn đậu
rán om
cà chua rắc hành mùi, ông ấy lại đòi đậu kho tương mới chết.
Bà ngồi
trên phản, chân duỗi chân co, trong
lòng là cái âu trầu. Mùi trầu cay ấm. Ngoài sân ngô đỏ óng lên dưới
nắng. Bà
nhìn tàu chuối lật phật trong gió, đưa tay vuốt vuốt lá giầu không:
- Bà Chánh bé
gặp ông ấy hồi ấy đấy. Gớm sao lại có người đẹp thế. Hôm ông Chánh đưa
bà ấy
tới nhà mình lần đầu, ông ấy bảo ông nhà mình thế này: 'Người đâu gặp
gỡ làm
chi - trăm năm biết có duyên gì hay không... Tôi không có dại như chàng
Kim
Trọng chú ạ, tôi cưới liền tay. Hôm nay chị em nhận nhau, qua lại chơi
với nhau
cho thân càng thêm thân'. Ông với bà lúc đầu cũng ngại bị bà Cả ở làng
oán,
nhưng mà bà Chánh bé có cái nết tốt ơi là tốt. Thành ra thân thật. Gớm
sao có
người khổ thế. Mình đã thậm khổ rồi mà bà ấy còn cơ cực hơn. Ngày mới
theo ông
Chánh, nhà ông Chánh giàu, có nhà có cửa ở Hà Nội thì còn sướng. Chả
được mấy
ngày thì bà Cả biết, bà ấy bảo ông Chánh đưa bà bé về làng.
*.
Bà nghẹn
ngào. Nông nỗi của chính mình, của người chị họ trong chốc lát lại ào
về. Toà
ngang dãy dọc phần ông Chánh nằm sát khu vực Tây xây lô cốt, cháy sạch
trong
một đêm khi bộ đội về. Ông Chánh mất ngay ngày đầu kháng chiến. Cũng là
may vì
thoát được cải cách ruộng đất, không bị đem ra đấu tố như mấy anh em
trong nhà.
- Bà đưa bố
mày với các cô chú về làng theo lời ông dặn. Tiếng
là có quê có quán, nhưng mình làm gì có nhà
cửa ruộng vườn gì ở
quê đâu. Thế là bắt đầu cấy thuê gặt mướn. Bà Bé nhà vẫn còn có của,
nhưng mà
cũng khổ y như bà, làm lụng hệt con ở cho bà Cả. Ông ấy chết rồi, chả
trông cậy
vào đâu được. Mà cũng chả thể về quê. Làng mình là làng tề. Quê bà ấy
nghe nói
cũng bị chiếm. Mẹ con đầu tắt mặt tối suốt ngày mà còn bị chửi bị đánh
bất kể
lúc nào. Thằng con đầu của bà ấy, mùa đông đi chăn trâu không có lấy
nắm cơm,
độc một bọc khoai khô mốc. Gặp bà ngoài đồng, bà phải bẻ nắm cơm cho.
Bà đưa khẩu
trầu vào miệng, thủ tay vào bọc, rung rung đôi đầu gối gầy, Ngân thích
nằm sát
đùi bà, lắng nghe, sờ sờ hai đầu gối củ lạc của bà. Đấy là lúc rảnh rỗi
của bà,
những ngày bà cháu đùm túm đi sơ tán. Bà kể như là không cốt kể, như là
chỉ tự
nhắc lại với mình. Và nếu lúc đó có bà hàng xóm nào hắng giọng đi vào
ngõ là sẽ
bắt đầu một câu chuyện dài.
- Bà Chánh cả
ác thật bà nhỉ. Ba mẹ con bà Bé làm quần quật suốt ngày, tối về ăn cơm
thầm
trong xó bếp. Khổ. Hồi tôi còn sống ngoài tỉnh, có bao giờ thấy bà ấy
phải mặc
cái áo ngắn đâu. Nghe rằng thì là bà ấy là con hát, nhưng cũng có bao
giờ biết
bà ấy hát xướng ra thế nào. Chỉ thấy người nền nã lắm. Mà cái nết thì
thật tốt.
Có lần nhà có việc, tôi không hỏi, bà ấy đến chơi thấy mình bần thần cứ
gặng,
rồi móc bao lưng đưa luôn. Món ấy thành ra tôi nợ bà ấy suốt kiếp bà ạ.
Sau này
cơ hàn, chị em sống cùng làng, gần nhà xa ngõ vì còn bà cả, mà hồi đó
thì khổ
quá, chả làm cách nào đưa lại được cho chị ấy. Vậy mà có hôm đi gặt
đồng trũng,
chị ấy lần cạp váy đưa tôi hai quả trứng vịt nhặt ở bờ ruộng, bảo mang
về bác
với tương cũng được bữa cho mấy cháu. Hỏi sao chị không cầm về, chị ấy
khóc,
bảo làm sao làm thế được trong nhà bà cả. Thấy thì nhặt rồi cho thôi.
- Ừ bà nhỉ.
Chả gì bà Bé cũng là bạn đầu gối tay ấp với ông Chánh. Thế mà lúc ông
Chánh còn
nằm đấy, bà Cả cứ xa xả chửi con ả đào, lại còn bắt bà Bé vén váy ngồi
dạng
chân giữa sân để bà ấy vác chổi xể đâm vào chỗ ấy. Ông Chánh thì tốt
tính thật,
nhưng mà vô tích sự, càng khi có việc càng chả nên cơm nên cháo gì chứ
chả phải
vì ốm đau nằm đấy đâu. Còn bà Bé thì chẳng qua bà ấy hiền quá. Chứ ngẫm
như bà
cả, về với ông ấy đẻ lên đẻ xuống có được thằng con giai nào đâu. Phải
nhà khác
con vợ lẽ có con giai rồi thì nó chả gang họng ra cho ấy à nếu mà chửi
nó. Mà
tôi nghĩ vậy chứ nhà ông Chánh vẫn còn có phúc, nhà giàu thế mà đến đận
cải
cách lại mất của mất nả gần hết, ông ấy lại ốm sắp chết, thế là thoát.
Chứ như
ông nhà tôi, làm quần quật cả đời, ăn thì... bà chả thể nào biết...
phải hôm
bão cây đu đủ đổ, ông ấy lấy cả lõi cây đu đủ kho tương ăn dần. Vừa
dựng được
cái nhà, tậu thêm được ba cái chân trâu, có thế mà bị đem đấu tố đến
nỗi phải
thắt cổ tự tử.
*.
Hai bà lão rì
rầm trò chuyện. Sau này nhớ lại, Ngân lạ lùng vì không bà nào khóc dù
toàn
chuyện khổ. Mẹ chú Trong lại còn cười khi nhắc chuyện đẻ cô Xanh, ông
cụ ưu
tiên cho vợ toàn thịt gà kho tương với gừng, kho cả cái đầu là cái bà
nhìn thấy
đã sợ muốn rơi đũa, bảo cho thằng cu Trong ăn ké, còn phần ông bữa nào
cũng chỉ
rau cỏ ăn quanh. Bà cũng cười:
- Tôi thì may
bà ạ. Sinh các cháu ngoài tỉnh, nhà chẳng giàu có gì nhưng cũng cơm
trắng giò
chả đầy đủ. Chỉ khổ lúc ông ấy lên Việt Bắc, tôi nhà cửa chẳng khuân
theo được,
một mình đem con về làng, tay trắng. Đến hồi thằng bố con này trốn đi
này, ông
anh chồng không cho ở nhờ nữa, khổ thêm. Nhưng khổ nhất thì cũng như
bà, là cái
hồi cải cách. Nhà cửa ruộng vườn chẳng có lấy một tấc mà người ta lại
đem chồng
mình ra đấu, bảo là việt gian, bảo có tủi có ức không.
Bao nhiêu năm
nước chảy. Ông vẫn nằm đâu đó giữa rừng Việt Bắc. Bà một mình thành bà
lão, từ
thưở ngoài ba mươi. Về già, ra Hà Nội, ít người trò chuyện, bà cũng
thôi không
kể chuyện xưa, nhưng lại dặn dò rất kĩ về sự giỗ chạp trong làng trong
họ. Có
lần bà bảo Ngân:
- Bà Chánh bé
người đâu vùng Kinh Bắc ấy cháu ạ. Thế mà rồi chết ở làng mình. Cả một
đời...
Khổ quá... Vậy mà lại sống dai nhất trong nhà. Ông Chánh với bà Cả nằm
xuống
rồi chứ không chết sau bà cả khéo cũng chẳng được chôn cạnh chồng. Hồi
bà ấy
ốm, bà qua thăm, bà ấy khóc bảo chết đi thì chả có ai họ hàng ruột thịt
ở cạnh,
con cái từ bé cơ khổ, có biết gì quê ngoại đâu, sẽ chả ai là họ hàng
hay bạn
gái xưa thắp cho nén hương. Bà đã hứa thầm với bà ấy...
Khi yêu đương
đang thành mốt như chiếc quần jeans
em
có còn chung thủy?
Anh
trút hết mồ hôi trên chuyến xe khách
người và
người ồn ào khó chịu
em có còn dịu dàng?
Cơn
gió bụi tháng ngày
Cuốn
phăng đi bao niềm hoài ước
Trôi
nổi ngang đời bao nỗi hoài nghi
Vận
người đổi thay nào ai đoán trước.
Anh
không tự hiểu mình
Em
không hiểu nổi anh
Một
lần xa hóa ra vĩnh viễn
Chiếc
quần jeans bạc gối
Chuyến
xe bus cuối cùng bỏ khách đợi
ngang đường.
27.
Ngân có mặt
trong đám thay áo cho bà Chánh bé vì nhiều cớ. Giỗ họ, bố sai về góp
giỗ, trùng
dịp cải mộ ông bà Chánh, may có dịp thực hiện lời hứa thầm giùm bà. Ba
nấm mồ
sát nhau, ngày chiến tranh đánh phá con cái ông bà tứ tán không tiện
sang cát,
loay hoay thế nào bị lạc, thuê người thuốn nát
mấy khu ruộng mới tìm thấy. Mở ván thiên, Ngân
suýt ngất: Ba gương
mặt còn nguyên hình, phồng lên, đỏ hoe hoe phẩm điều phai, chắp tay nằm
nghiêm
chỉnh nhìn trời. 'Mộ kết!' Tiếng thầm thào. Tiếng tụng niệm của các bà
già. Hơi
sương và hương phớt qua mặt Ngân. Đến lúc nhìn lại: không còn gì cả.
Những tám
ván thôi đã được quăng lên miệng hố. Một cái mùi khó tả: mùi hương
khói, mùi
sương đang bốc trắng cánh đồng, mùi đất mục, mùi băng phiến từ những
tấm áo dài
của các bà lão đứng sát bên Ngân, mùi nước cốt trầu, mùi rượu rửa cốt,
tất cả,
làm Ngân thấy hồ như sức lực mình bị rút dần dần. Đằng kia là con đường
đồng
dẫn vào xóm nhỏ năm xưa Ngân sống với bà, nơi ba con người nằm đây đã
từng đi,
nơi Ngân theo bà chiều chiều ra múc nước ao nhà chị Thục tưới rau, nơi
bố mẹ
đạp xe về thăm Ngân ngày đánh phá.
*.
- Thấy bảo mộ
thế là kết, là con cháu sẽ phát lắm đấy. Nhưng mà Ngân sợ quá. Nhoáng
cái tất
cả tan đi. Tưởng như là cả một cuộc đời vừa bắt đầu vừa kết thúc trong
nháy mắt
ngay trước mũi mình. Cái cảm giác ấy...
- Thế có thực
là con cháu các cụ đó phát không? Uống đi này. Bé ơi, thay cho bạn anh
bát nước
nóng khác đi.
Cô bé con chị
chủ quán bê lại bát nước sôi mới, nhấc cái tách cà phê của Ngân đặt vào
đó,
lạnh lẽo quay đi. Việt chờ Ngân xong hớp cà phê đầu tiên, thông báo:
- Tháng này
tháng mười. Ngân nhớ nhé! 22 tháng mười hai, ngày thành lập quân đội,
Việt cưới
- Việt cười cười - Cho dễ nhớ ngày thành lập gia đình.
Sau này nhớ
lại Ngân ngạc nhiên thấy mình choáng váng. Y như buổi chiều nào biết
tin Phan
và nghe lời tỏ tình của Việt. Từ lâu rồi người đàn bà trẻ con đã quen
với tình
bạn của người con trai, không áy náy vì một tình yêu không thành, tin
cậy.
Nhưng bây giờ... Lại vẫn là cảm giác ấy, chiều nào, cà phê, mưa, phố
hớt hải
người xe, Trịnh Công Sơn, quán vắng. Không còn ai cho ta ngồi lại lặng
im như
thế này sao? Không còn không còn ai - ta trôi trong cuộc đời... Thứ bảy
vừa rồi
Vĩnh tới. Lâu lắm Vĩnh mới lại tới. Ngồi đọc hết đống báo, Vĩnh mở cặp
rút đưa
Ngân thiếp mời: - Ngân là người đầu tiên đấy. - Cảm ơn. Ái chà. Thiếp
in đẹp
quá. Ngân sẽ phải kể cho mọi người biết mình được là người đầu tiên
nhận thiếp
của Vĩnh. - Người đàn bà trẻ con vui vẻ trả lời, như rất đỗi vô tâm.
Lòng băn
khoăn tự hỏi lời đáp vô duyên của mình sẽ giúp gì cho bạn, và bạn sẽ
nghĩ gì,
có biết mình sẽ không thể nào đến mừng, sẽ không thể gặp lại bố mẹ bạn
trong
ngày bạn cưới. Đã Phan. Đã Vĩnh. Giờ là Việt. Và sang xuân thôi là
Ngân. Ngân
lắc đầu nhè nhẹ, nhớ cái đơn xin thuyên chuyển công tác vừa xin dấu
hiệu trưởng
để đưa cho người đàn ông mà Ngân đã quyết định lấy. Thôi đừng nói vội.
Bất chợt
rùng mình. Phan ở nơi xa, đã hẳn không thể đưa bạn gái tới giới thiệu.
Nhưng
Vĩnh, nhưng Việt, và cả Ngân... Ai cũng biết dù sao mỗi người vẫn có
một cuộc
đời riêng, đã có người để đưa đón thăm nom mỗi cuối tuần từ lâu, nhưng
chưa bao
giờ hỏi nhau về điều đó. Như thể sự lặng im bình thản này sẽ là lời thì
thầm
với nhau rằng có một khoảng đời riêng cho nhau, cho tình bạn. Hình như
tất cả
đều nhầm.
*
- Nào, Việt
giao Ngân làm gì trong ngày cưới của Việt? Đừng bắt bạn rót nước cho
khách nhé.
Thứ nhất là không đủ trẻ trung, thứ hai là Ngân sẽ không đeo kính ngày
hôm đó
để trông cho thêm phần xuân sắc, nhỡ rót nước vào đùi khách của Việt
thì tàn
đời.
- Chớ, chớ
thế. Phải đeo kính, và nếu cần thì thay kính mới để nhìn Việt hạnh phúc
ra sao
chứ. Không cần Ngân làm gì cả ngoài việc giữ sức để không ốm đúng vào
hôm đó
thôi.
- Thế... có
thể tặng gì cho Việt, à không, cho cô bạn của Việt nhỉ? Cô ấy thích gì?
- Thích tất
cả những gì mà các cô gái thích. Vợ Việt không có những ý nghĩ quái dị
như Ngân
.
*.
Quái dị? Chẳng
lẽ thế lại là quái dị? Nhưng vẫn có một người đàn ông đang muốn cưới
mình?! Vậy
là tất cả chúng mình sẽ yên ấm. Chỉ không biết là ngày sống của Phan
thật ra
thì sao... Sau này, khi đã quen loay hoay vun vén cái tổ ấm của mình,
quen với
mùi đủ thứ mắm tập pha tập chưng theo khẩu vị của nhà chồng, quen với
công việc
mới chồng thu xếp cho trong cơ quan bộ, quen đêm về có bờ vai rộng
nghiêng
xuống, đôi mắt chồng nhìn nửa tin cậy nửa quyền uy, người đàn bà trẻ
con vẫn
không sao quên được băn khoăn cũ. Không biết là Phan...
Khoảng cách
giữa đám cưới đầu tiên đến đám cưới thứ hai của Việt chỉ là ba năm.
Thật không
thể ngờ hạnh phúc từ bỏ con người nhanh đến thế. Cô gái trẻ và đẹp giật
mình
trong bộ áo cưới mong manh như một con bướm trắng khổng lồ, như mây
thôi giang
hồ, tựa nhẹ vào vòng ôm hờ của chồng bước đi trong tiếng cười, tiếng
chúc. Một
đứa trẻ ra đời. Người mẹ bỏ chồng, bỏ luôn con trở về nhà mẹ đẻ, và lại
sống
cuộc đời một cánh bướm, một làn mây. Ngân chưa bao giờ có dịp gặp mặt
vợ Việt
lâu lâu, nên những băn khoăn về sự đứt đoạn trong đời sống vợ chồng của
Việt
không bao giờ tự giải đáp nổi. Chỉ thấy Việt chẳng có vẻ gì một người
chồng bất
hạnh. Việt đưa con tới những cuộc tụ bạ, đến nhà Ngân chơi, âu yếm bón
cho con
từng thìa cơm, đưa đứa bé đi ị đi tè, mặt mũi đầy vẻ hài lòng đến nỗi
bạn bè
không một ai dám hỏi. Ngày cưới Việt lần thứ hai, Ngân sinh đứa con
đầu. Cái cớ
tốt đẹp để khỏi gặp bạn bè, gặp lại Phan, nghe nói sẽ về đúng dịp đó.
Biết nói
gì với nhau lúc ấy, rằng mình hạnh phúc ư? Hạnh phúc là thế chăng? Một
người
chồng điềm đạm, chu đáo, kiếm được. Một căn hộ đủ điện đủ nước. Một chỗ
làm
nhàn nhã, không dính với trách nhiệm trực tiếp nào. Một đứa con ra đời,
không
quá muộn quá sớm sau ngày cưới. Nếu lúc đó Ngân không bận bịu với con
thì chắc
Ngân sẽ hoang mang lắm, bởi vì tất cả, đúng như mong mỏi của Ngân về
một cuộc
sống bình ổn, nhưng sao mà bấp bênh. Người đàn bà trẻ con hiểu rằng sự
bình ổn
này phụ thuộc hoàn toàn vào mình, và tránh tất cả mọi lí do để phải cật
vấn
mình. Nhưng tránh làm sao mãi được. Đã ba năm, sau khi cưới và chuyển
công tác,
Ngân không gặp lại vợ chồng anh Khá chị Thục, thôi không phải vã mồ hôi
trên xe
khách hay trên cái xe đạp tàng đi đi về về mỗi cuối tuần, chiều chiều
chấm bài
và soạn giáo án xong thôi không qua cầu về thăm lại ngõ nhỏ ngày xưa
trên bến
sông, nơi có căn nhà của bà, gốc rơm dưới chân lùm tre, cái chuồng gà
cuối vườn
sát cây xoan gầy, tiếng những người đàn bà hàng xóm chao chát sau phiên
chợ.
Song những chuyện từ đời tám hoánh nào lại còn hiện rõ ràng hơn, phủ
một sắc
xám mờ trang trọng lên ngày đang sống.
- Mẹ Chick
con có còn nhớ nhà bà Trong cách vườn nhà bà mình ngày xưa không? Tội
nghiệp
cái cô Xanh con bà ấy thế nào mà giờ thong manh hẳn rồi.
-
Thật ư ông. Mấy năm trước còn
dạy trong ấy, con có gặp cô Xanh một lần. Cô ấy mắt cũng đã nhìn kém rồi. Mà cô ấy
chỉ hơn con mười
mấy tuổi. Thế ông về làng hôm nào?
- Tuần rồi.
Gặp đủ mặt. Ông Thồng vào tù ra tội vậy mà thọ quá. Hơn tám mươi rồi mà
vẫn đêm
đêm ra lều vịt ngủ với thằng cu cháu. Ông Thồng bảo bố anh nhìn chú đây
này,
tao còn sống thêm mười tuổi trời nữa là ít xem chúng mày ra sao. Tao
chỉ cần
như hòn đá xanh dưới bến kia thôi. Mấy chục năm nước chảy người dẫm, có
mòn đi
tí tị nhưng vẫn nằm thù lù đấy không suy xuyển. Bố nhớ hòn đá xanh ấy
có từ hồi
bố đi tản cư cơ đấy. Từ bấy đến giờ, từ năm bốn sáu đến giờ...
- Thế ông
bảo cô Xanh
- Gặp bố
cô ấy khóc
quá con ạ. Bảo muốn đón bà Trong vào, vì mắt mũi giờ ra thế không thể
về làng
năm một được, mẹ thì già quá rồi ở một mình, lo lắm. Bà Trong nhất định
không
chịu, vì còn mộ ông ấy và chú Trong.
Chú Trong chết
trẻ thế, vợ con chưa có, lấy ai hương khói thay bà. Ngân hình dung cô
Xanh lần
cuối cùng gặp mặt, đôi mắt trong như mắt giả nhìn thẳng về phía trước,
nụ cười
ngơ ngơ, từ đôi mắt của cô, hai dòng nước mắt bò ra. Người con gái con
địa chủ,
người con gái học hành và hát hay nhất làng một thời giờ chả khác gì
một bà
già. Giá mà ngày ấy cô lấy chồng gần, liệu có sung sướng hơn không?
*.
- Nó không
nghe em bác ạ. Bao lâu nay em thắt lưng buộc bụng động viên cháu gắng
học rồi
tìm đường thoát li. Cũng chả mong nên vương nên tướng gì, chỉ mong cho
nó đỡ
lấm mặt như mình. Vậy mà nó rằng thì là giá được thế thì chắc anh Trong
đã
chẳng phải trích máu viết đơn xin đi bộ đội rằng thì là người ta đâu có
thiết
cái lí lịch nhà mình. Mấy lại nó bảo rằng thì là có đi đâu cũng chả yên
tâm để
em một mình. Thật thì em cũng không chê gì thằng ấy bác ạ. Kể thì nó
nói cái
giọng tận đẩu tận đâu, nghe cứ như tiếng Ngô tiếng Lào, nhưng đâu thì
cũng đồng
đất nước mình. Mấy lại cứ nghĩ mấy thằng thương binh miền Nam như nó dữ
lắm,
chứ xem ra cũng người thế này thế khác. Thằng này có vẻ hiền, mà biết
việc đồng
việc áng ra phết bác ạ. Con Xanh bảo ở nhà nó cũng dân ruộng, có điều
trong đó
đất rộng hơn ngoài mình. Em sai con Xanh viết thư cho cháu Trong xin ý
kiến
thằng anh, chả gì thằng Trong cũng là đàn ông đàn ang trong nhà. Mà chờ
mãi chả
thấy thư từ của nó. Dễ bom đạn thế này, em cũng phải cho con Xanh nó tự
lo đời
nó thôi, bác bảo thế có được không?
- Đời cua cua
máy đời cáy cáy đào, dì nghĩ làm gì cho mệt. Nó đã không có đường thoát
li, mà
cũng chả muốn thoát li, ở làng thì làm được gì. Tôi bảo thật dì, gả
quách. Chứ
giờ nó cũng đã sắp hăm mốt rồi, gái hát hay cày giỏi, nhưng mà dì nhìn
quanh
xem có thằng nào xứng với nó không, có thằng nào đem giầu cau đến xin
dì ra
đuổi chó cho không. Thằng tử tế thì đi B hết cả rồi, còn toàn cái bọn
sứt môi
lồi rốn trốn nghĩa vụ, chỉ tìm đường nhót cho nhanh khỏi làng. Còn
thằng nào
đường được thì... cơ khổ, nội cái việc dì cho con học hết cấp ba đã làm
cho con
Xanh nó khó rồi, lại còn thêm tội con địa chủ... cưới nó về phấn đấu ra
làm
sao.
Bà Trong
khóc. Bà lão chủ nhà thở dài. Mấy người đàn bà ngồi hóng chuyện, nghĩ
vẩn vơ,
sợ sợ. Nhìn người điên ở bệnh viện thần kinh cuối làng đi rều rễu trên
đê không
hãi bằng nghe chuyện thương binh miền Nam ở làng bên sông. Họ cũng đi
rều rễu
quanh làng, người cụt tay người cụt cẳng, lúc nào cũng say sưa, lôi
thôi là họ
dí ngay cái thẻ thương binh vào mặt và ục luôn. Mấy tháng vừa rồi xe
khách từ
Hà Nội về bỏ bến xe bên kia sông không vào làm mấy bà đi buôn chết dở.
Nguyên
do cũng chỉ vì quý vị thương binh. Họ đứng dàn hàng ngang giữa đường,
huy hiệu
thương binh cài trên ngực, lên xe không có vé đã đành, nổi xung lên là
khua
nạng đập vào mặt người đối thoại và mấy tháng trước đánh chết luôn cả
lái xe.
Ai có việc ra tỉnh cũng phải cuốc bộ chờ cơ vẫy xe tải tới Vác rồi mới
đón được
xe khách, từ tỉnh về cũng chỉ tới được Vác là dừng, đến khổ. 'Họ là anh hùng khùng mà bà, ai chả sợ. Thật
ra cũng tội. Vào sinh ra tử, giờ bị bó cẳng ở cái xó này, ai biết đâu
mà ơn với
huệ, vợ con không có, tiền bạc cũng không, mất chân mất tay nhưng mà
vẫn là
thằng đàn ông đã vào sinh ra tử, chịu làm sao nổi hả bà.' Ông chủ tịch
xã ghé
thăm mấy bà cháu nhân ngày thương binh liệt sĩ vui vẻ giải thích' - 'Bà
bảo cái
Xanh sắp lấy một thằng trong cái trại thương binh đó à. Tội nghiệp.'
Thế mà thật
ra có lẽ cô Xanh lại hạnh phúc nhất trong đám bạn gái quanh làng. Chả
gì chồng
cô cũng đóng góp xong cái phần xương máu, giờ yên tâm mà quanh quẩn bên
vợ. Đêm
đêm cô Xanh thôi ra bến sông hát với chúng với bạn kể cũng làm lắm
người nhớ
giọng. Riêng con bé thì không. Suốt ngày nó đã nghe cô lích chích hát
một mình.
Hết đường cày đảm đang bài ca năm tấn lại nổi trống lên rừng núi ơi,
hết Hà Tây
cửa ngõ Thủ đô lại tiếng ai hò trên quê hương ta đó Nghệ An với ở tận
sông Hồng
em có biết quê hương anh cũng có dòng sông ơi Vàm Cỏ Đông ơi hỡi dòng
sông. Nơi
con sông xa tít mù ấy là quê chú Hùng chồng cô. Bà hồi đầu cứ lầm thầm
chê cái
thằng mặt như hai ngón tay úp chéo, sau lại nắc nỏm khen thằng ấy thế
mà lành
mà tử tế. Chỉ cần len qua chum nước và cối đá lúc nào cũng lõng bõng ít
rau
chuối trộn cám lợn của nhà bà Trong là con bé có thể đứng ngó vào buồng
cô
Xanh. Chiếu mới, gối trắng thêu chim bồ câu, lá xanh
hoa hồng, vỏ chăn vải chéo hoa Trung Quốc.
Đến là đẹp. Rồi cô Xanh hay sang hàng xóm xin tương, múc đầy bát còn
đứng húp
tại chỗ khen tương ngọt. Bà Trong mặt mũi tưng bừng thì thầm với bà
hàng xóm.
'Em để ý nó tắt kinh hai tháng nay rồi bác ạ.'
*.
Đứa con đầu
lòng của cô Xanh sẽ ra đời không đúng ngày. Buổi trưa đi làm cỏ lúa về,
cô Xanh
cầm cái cào xuống sông rửa chân tay, cái nón lá ngửa lên đựng đầy rau
tập tàng
dựa ở góc bậc thang cuối bến. Cô cúi người khỏa nước, mỉm cười vì cái
bụng đã
bắt đầu càng ràng, ngẩng lên nhìn quanh và hét lạc cả giọng. Quẩn sát
chân cô,
một con người bé nhỏ, trần truồng, rốn còn chưa cắt nổi lập lờ. Năm
tháng ấy
lại bắt đầu những ngày căng thẳng nhất của cuộc chiến đang đến hồi kết.
Lâu lâu
lại có những đơn vị bộ đội đi dọc triền đê, dừng lại ở các làng, đóng
quân rải
khắp nhà dân, nhanh thì một hai tuần rồi đi, chậm thì tháng hơn tháng
ngót. Có
những người con gái chửa buộm một mình vật vã. Những bào thai hoang dạt
vào bờ,
mắc lại chân tre, rễ sung rễ ngái. Đấy sẽ chưa phải là lần cuối.
Cô Xanh ngã
dụi ở bậc thang sát mép nước, mặt úp vào cái nón lồng phồng rau. Bụng
cô quặn
lên, tưởng chừng như có một cánh tay rất dài thò vào, quấn hết ruột gan
mà rút.
Đứa con ra đời ngay tối đó. Không phải là một con người dù đã sắp đủ
ngày đủ
tháng, chỉ là một cục thịt có mắt mũi miệng, không chân tay. Người mẹ
ngất xỉu
một lần nữa. Người cha ngồi ở đầu hồi nhà suốt một ngày, trừng trừng
nhìn vườn.
Cô Xanh sẽ
còn đẻ tiếp, liên tiếp. Đứa thứ hai, lông lá như khỉ, mắt dính tịt,
không có
chóp mũi. Ông em rể bà Trong, tợn tạo nhất làng, xách chân đứa trẻ chả
biết
sống hay chết ra bờ sông, xả một nhát dao bầu vào thân hình bé nhỏ đó
và quăng
ra giữa dòng, bảo để hồn ma bóng qủy không lộn lại bụng cháu gái. Đứa
thứ ba,
cô Xanh không nhìn, nhắm mắt nửa ngày. Chú Hùng vái ông chú vợ: 'Xin
chú cho vợ
chồng con chôn cháu. Tội nghiệp, nó không được sống làm người, tất cả ở
như
con.' Mấy người thương binh miền Nam chống nạng lọc cọc đi theo cái
quan tài bé
nhỏ trên vai đồng đội, nước da đen sạm giờ tái ngắt.
Cả làng ồn ĩ
vì chuyện nhà bà Trong bị ma ám, vì những tội nghiệt từ đời kiếp nào.
Không ư?
Ông Trong phải thắt cổ. Chú Trong bị sét đánh. Cô Xanh đẻ bận nọ đến
bận kia
toàn những hình nhân chưa thành người.
Chú Hùng đưa vợ rời làng, ra trại thương binh sống. Con bé con chỉ gặp
lại vợ
chồng chú một lần, ngày nó sắp được bố mẹ đón ra Hà Nội, về lại trường
cũ. Vợ
chồng cô Xanh theo bà Trong sang thăm mấy bà cháu. Bà mở tấm chăn, moi
ra một
thân hình trẻ con khiếp đảm, đầu to tướng, mũi huếch, mắt lồi, khắp
người từ cổ
tới nách khuỷu chân khuỷu tay đeo toàn bùa. 'Mẹ cháu đi xin ông thầy
tận trên
Yên Cốc đấy bác ạ.' - Cô Xanh hổn hển. 'Mày có bị sản hậu không mà nói
năng lào
thào như người ốm liệt thế cháu? Có được thằng bé này rồi khéo trời
thương, sau
lại chẳng con một bầy như cua. Xem mà lo bồi bổ, rồi ngừng chửa đẻ một
hai năm
hãy tính tiếp. Chứ như mấy năm vừa rồi, tao nghĩ mà hãi cho chúng mày
quá. Để
bà xem thằng bòi của bà dài ngắn thế nào nào?' Chú Hùng nhận lại đứa
bé, mỉm
cười: 'Đệ tử Cái Bang sáu túi đó bác. Ba xem bé con của ba đã sắp tè
chưa nhé.'
Chả ai hiểu đệ tử Cái Bang là gì, cùng cười theo chú trong khi đầu óc
vẫn theo
đuổi ý nghĩ riêng. Thằng bé đầu nặng đến nỗi bỏ qua mọi giai đoạn quá
độ lẫy bò
trườn, được cái chả khóc mếu gì, nằm lặng lẽ dù mọi người vần như vần
quả bí.
Đến gần bốn tuổi nó mới lẩy bẩy bước được bước đầu tiên. Có điều nói
ron rỏn.
Khôn phát kinh. Nhưng quả đúng như lời bà, tựa hồ nó được sống là để
gánh mọi
sự khó cho gia đình. Đến cái ngày người làng ra Hà Nội tới thăm bà, kể
chuyện
cô Xanh theo chồng vào Nam, nó đã có một bầy em ba đứa.
- Bà Trong ấy
hả bà. Có mà xe công nông cũng chả cày được bà ấy ra khỏi làng. Hôm bà
ấy ngồi
với bọn em ở đám con nhà Thiện, hỏi, bà ấy bẩu giờ chỉ còn con Xanh, ai
chả
muốn có mẹ có con, nhưng nó là bề gái, theo chồng là phải, mình chả đỡ
được cái
khổ cho nó, theo làm gì thêm bận. Kể cũng phải. Chứ đem thân vơ váo vào
quê
thằng con rể, chả biết thổ ngơi tiếng tăm ra thế nào, sống làm sao bác
nhẩy?
Rồi lại còn mồ mả ngoài này.
- Cái kiếp đàn bà... Bà có để ý không?
Con bé ngày xưa nhanh
mồm nhanh miệng thế, mà khoẻ... đứng giã cối bèo nặng nhọc thế nó vẫn
còn hát
được, giọng lanh lảnh lanh lảnh. ấy vậy mà sau này y như dải khoai héo,
nói
cười gì mặt cũng chả tươi được lên.
Người đàn bà
trẻ con im lặng nghe và sẽ tự hỏi trong nhiều năm sau đó rằng không
biết bà có
nghĩ tới chính mình khi nói thế. Cô Xanh, ngay trong lúc cay cực nhất
vẫn còn
có mẹ, có chồng. Còn bà, ông lên Việt Bắc năm bà mới chỉ ngoài ba mươi
tuổi,
con một bầy bốn đứa, tay trắng chạy từ Hà Nội tiêu thổ kháng chiến về
làng. Mấy
chục năm trời, bà như mẹ mái già, ủ dưới cánh mình hết con đến cháu,
gặp sự khó
thì xù bộ lông xơ xác, xoè móng cục ta cục tác đến chồn đến quạ phải
khiếp.
Trên đất nước này, ở đâu cũng những người đàn bà như thế. Ai đo được
bao nhiêu
giông bão đã thổi qua tấm lưng mỏng của họ, khi nhìn họ cặm cụi một
mình, vẻ
rất đỗi an nhiên.
Và cuối chiều
Dòng sông
chảy dưới chiếc cầu gỗ
Không thể
không dịu dàng
Và cuối chiều
Rừng bạch
dương đã trở vàng trong nắng
Lẽ nào
không nỗi nhớ
Và cuối chiều
Biết ngày
xuân đã đi rất xa
Bao điều,
thôi đành lỡ
Và cuối chiều
Ngôi sao
nào sáng xanh lấp lánh
Có chăng
là đắm say?
28.
- Kinh nhỉ.
Chắc là do ông chồng từng đóng quân ở vùng rừng bị Mỹ rải thuốc khai
quang đấy
mà. Mà mày có nhìn thấy tận mắt không hay chỉ nghe đồn.
Người đàn bà
nhỏ nhẹ
- Chuyện hàng
xóm nhà mình mà, hồi sơ tán ấy. Bé tí chả biết gì, chạy theo bọn trẻ
con xem
cảnh ông già chém đứa bé sơ sinh, về mê hoảng mấy tháng không hết. Bà
mình đêm
nào cũng phải đặt con dao phay ở đầu giường cho mình đỡ sợ.
Từ phòng
trong, bà mẹ chồng ôm cái túi len đan dở bước ra, giọng lạnh:
- Đang bụng mang dạ chửa... Vợ Thịnh
thiếu gì chuyện không
nói lại đi nói cái chuyện nghe sái thế. Thật là các chị thời nay sướng
chả biết
sướng, ngồi băn khoăn chuyện thiên hạ đâu đâu. Làm người ở đất nước
này, sống
thì tránh sao khỏi buồn khỏi khổ, cứ ngồi đó mà úi với ái thì có làm
được gì
cho hết buồn khổ hộ thiên hạ không?
Mấy người đàn bà trẻ ý tứ nhìn nhau,
cười xòa:
- Chúng cháu vô ý quá thật. Nhưng như
nhà bác đây thì buồn
khổ ở chỗ nào bác? Bố mẹ chúng cháu ở tuổi bác mà được thế này thì...
Nhà bác
các anh các chị ai cũng thành đạt hiếu thuận. Cái Ngân vào làm dâu cửa
bác thật
là sướng. Chúng cháu thì nằm mơ chưa ra.
Bà cụ thu xếp
chỗ ngồi, tay bắt đầu ngoáy đôi kim đan, mắt ngước nhìn qua gọng kính:
- Ai bảo các
chị là bác sướng? Sướng khổ là tự mình thôi các cháu ạ. Vợ thằng Thịnh
mới về
làm dâu, mẹ trông cung cách, chắc chưa bao giờ hỏi chồng cặn kẽ về gia
cảnh,
phải không nào?
Người đàn bà giật mình. Bà cụ vô tình
hay thật ra hiểu rõ
lòng cô con dâu trẻ? Quả Thịnh chưa bao giờ kể cho vợ nghe nhiều về
cảnh nhà.
Và Ngân không định biết thêm, hoàn toàn hài lòng về quan hệ trong nhà
chồng. Bố
mẹ chồng già mà còn khoẻ, ở riêng trên phố. Anh chị em tất cả đều học
hành
nghiêm chỉnh, có nhà có cửa riêng, đặc biệt kính trọng bố mẹ , yêu
thương nhau
mà không bao giờ làm phật lòng nhau vì những quan tâm quá đáng. Thịnh,
khoẻ,
điềm đạm, kháu lão và kính vợ như bọn bạn vẫn đùa, lại có địa vị và
tiền bạc.
Ngân luôn luôn có cảm tưởng rằng với một người đàn ông như thế người
đàn bà sẽ
chẳng phải băn khoăn gì chuyện cơm áo lễ nghĩa, miễn là tròn trách
nhiệm với
nhau.
*.
Trách nhiệm?
Thế nào là trách nhiệm? Lại một câu hỏi khó. Từ trong thâm tâm, người
đàn bà
luôn cảm thấy bất an, có gì không phải với chồng. Cảm giác bất an cứ
mỗi ngày
một lớn, khi mà người đàn ông không bao giờ căn vặn vợ về một tiếng thở
dài bất
chợt, về những phút bần thần khi mở một trang sách cũ, cũng không bao
giờ kể
cho vợ nghe về những gì một người vợ lẽ ra phải biết nhưng đã không bao
giờ
hỏi. Bà mẹ chồng chỉ thỉnh thoảng gọi xích lô đến thăm, vậy mà dường
như bà đã
cảm ra ngay cái êm lặng lạnh lẽo trong đời sống của hai vợ chồng.
- Các chị
nhìn tôi không nghĩ là tôi đã có thời điêu đứng đâu nhỉ? Cứ thử hình
dung, nhà
bảy đứa con, đánh đùng một cái ông nhà nước cải tạo công thương nghiệp.
Có gì
là đem hiến hết. Tôi muốn giữ lại mấy căn nhà, tính cho thuê tiếp mà
nuôi con.
Nhưng ông nhà tôi bảo chỉ giữ lại một căn một tầng ở phố Bát Đàn, mặt
tiền có
ba mét, vỏn vẹn hai phòng lợp ngói, được cái sâu hút vào phía trong cả
vườn
tược cả giếng cả sân gạch rộng. Ông nhà tôi, lúc thường hết giờ dạy học
thì đi
ra đi vào, mà đến lúc đó... Tôi thì cuống, không biết phải làm gì, anh
chị bên
chồng di cư hết rồi, bố mẹ chồng già nhất quyết sống mãi với Thủ đô,
con một
đàn, hiến hết thì lấy gì mà đổ miệng. Thế nhưng ông nhà tôi bàn với các
cụ xong
đánh một câu: Hiến! Chuyển về Bát Đàn, tôi tính còn ít của nả bỏ ra cơi
cao lên
cho các cụ và bọn trẻ đỡ chui rúc chật chội, nhưng mà ông ấy bảo muốn
yên thì
chịu lún ở thấp, đừng có động cựa gì. Thế là bảy con, thêm hai cụ với
vợ chồng
tôi, chỉ độc hai phòng, mà phòng ngoài đã là cửa hàng chất đầy hàng họ.
Còn ông
ấy thì xung phong đi làm nhà nước, mấy chục năm ngày nào cũng kèo kẽo
cái xe
đạp tàng qua cầu Long Biên... Đấy, cô gì nói đúng đấy, có cái nhà máy
gỗ, ông
ấy nhà tôi làm ở đấy đấy, đầu tiên là làm công nhân, sau biết ông ấy
từng có
thời dạy học thì họ đưa lên làm ở phòng thống kê. Ông ấy bảo tôi ở nhà
ngồi cửa
hàng, lo vật chất. Ông ấy đi làm nhà nước, nhất quyết không nhập nhằng
tơ hào
một mảy gì. Là để đảm bảo cái phần tinh thần cho bọn trẻ.
Ngân ngồi tựa
thành giường, loay hoay gỡ đống len rối cho bà cụ, lòng dậy một nỗi xấu
hổ và
xót xa. Ai ngờ ông bố chồng lù khù thế mà lại là trụ cột tinh thần của
cả đại
gia đình bấy nhiêu năm. Biết bao nhiêu gia đình ở đất Hà Nội này đã rơi
vào
cảnh nhà chồng Ngân và đứng vững được như thế. Bảy đứa con qua tay cha
mẹ, quần
áo đứa bé mặc của đứa lớn, không một lời nằn nèo tị nạnh. Bảy đứa con,
bao giờ
cũng một điều thưa cậu thưa mợ, gặp nhau ngày giỗ ngày tết, chưa bao
giờ Ngân
thấy xưng với nhau là tôi, lúc nào cũng anh cũng chị cũng em như là vẫn
đang
tuổi bé. Bảy đứa con qua đại học, ba đứa đi nước ngoài. Cái gốc nhà
phải sâu
đến thế nào thì gia đạo mới vượng được trong lúc gia cảnh sa sút vậy?
- Người đàn
ông trong nhà là quan trọng lắm các chị ạ. Mà cái uy của họ nó còn là
do mình
biết kính họ. Mấy mươi năm ông nhà tôi đi làm nhà nước, cứ tối mịt mới
đạp xe
về tới nhà, có thời kì đánh phá căng thẳng quá, ông ấy phải ở luôn bên
kia sông
có về được đâu. Thế nhưng con cái chỉ nghe thấy ông ấy hắng giọng là sợ
một
phép. Là bởi vì chúng nó nhìn bố cư xử với ông bà, với mẹ chúng nó, có
khuôn có
phép, là bởi chúng nó biết mẹ nể bố, biết bố vạch đường chỉ lối trong
nhà. Ông
bà cụ tôi lúc đó đã già, mấy anh chị em chúng nó phải một tay lo hết
việc nhà,
đứa học sáng thì đi xếp hàng buổi chiều, đứa học chiều thì ngược lại.
Bao nhiêu
tem phiếu thịt thà cá mú một tay các anh chị ấy lo hết, chứ tôi thì
phải ngồi
cả ngày ngoài hàng. Đến cái hồi vác hai cụ và bầy con đi sơ tán mới gọi
là cơ
cực. Nhà nước bán toàn bột mì, bột nở không có, hồi đầu cụ nhà tôi đem
nhào rồi
lấy lá chuối gói, trong nhồi cục đường bé bé, đem luộc. Bột ngoài thì
nhão trong
thì không chín, rắn y như nắp hầm tăng xê, ném chó khéo chó chết. Sau
tôi phải
đem cán, cắt nhỏ như bánh canh, đem nấu cua. Anh Thịnh chồng cô Ngân
đây, học
trò Hà Nội mà đi móc cua giỏi lắm. Được cái mấy bà hàng xóm nếm thấy
ngon, sau
toàn mang gạo đổi mì. Thế là mẹ con đâm khá. Bà cụ sinh ra ông nhà tôi
đi tắm
ngoài sông, thấy đàn bà con gái trong làng mặc cái xu chiêng tự khâu,
đệm hai
cái bầu vú thật dày, cấy gặt gì mồ hôi đọng đấy nó lâu rách các cô ạ.
Thế là
đang lúc căng thẳng, cụ cứ tháng hai ba lần ra Hà Nội, đặt người may,
đẹp hơn,
dày hơn, nên cũng bền hơn. Cụ giấu trong làn, nhìn, ai cũng tưởng bà
già Hà Nội
đông con cháu sơ tán phải đi thăm nom. Thế mà qua mặt phòng thuế không
lần nào
bị bắt. Buồn cười!
Bà mẹ chồng
được một hôm hay chuyện, hay là cũng làm như vô tình vỡ lòng cho cô con
dâu trẻ
về nếp nhà. Mấy cô bạn gái tròn xoe mắt nghe, cười lăn lộn, phục sát
đất chuyện
hàng xén nào ở mấy cái chợ lớn dọc triền sông ấy cũng treo đầy xu
chiêng của cụ
bà Hà Nội. Thịnh vừa về, nghe mẹ kể cũng cười, góp lời:
- Bà anh giỏi
lắm. Bình thường bà chỉ ngồi trên sập lo rót nước cho ông thôi. Đến mấy
cây
ngâu cây sói ở vườn sau nhà bà mê lắm mà cũng không bao giờ tự tay
tưới. Mà
khác mẹ anh... Bà còn trang điểm rất kĩ mẹ nhỉ. Thế mà hồi sơ tán, cụ
lăn lộn
đến ghê. Không thì nhà mình gay phải không mẹ? Hồi anh An chị Thuận học xong ở Nga về, con kể chuyện nhà mình đi
sơ tán, anh chị ấy ngớ người, cười mãi, bảo không tưởng tượng nổi.
Ngân nghiêng
người về phía chồng, nghe lưng âm ấm hơi người đàn ông. Cái thai quẫy
nhẹ. Một
cảm giác tự hào lan toả làm thân thể người đàn bà bừng bừng. Trong niềm
kính nể
đang lớn dậy rất nhanh trước bà mẹ chồng, Ngân vẫn biết mình sẽ không
như thế.
Sẽ không có niềm tự tin ấy, quyết tâm sống còn ấy. Sẽ lắm nỗi hoang
mang hơn,
cô đơn hơn. Nhưng Ngân sẽ sinh con, sẽ nuôi dạy con, sẽ hết lòng với
con mình,
theo cách của Ngân. Người đàn bà nào trong bất kể thời buổi nào mà
chẳng hết
lòng với con theo cách của thời buổi ấy. Dù sinh ra giữa những năm
tháng gian
nan, tự trong thâm tâm, Ngân biết, chỉ khoảng đời có mặt Phan, Việt,
Vĩnh,
khoảng đời sinh viên và hậu sinh viên mới thực là của Ngân. Sau này
người đàn
bà đã nhiều lần hiểu ra rằng những cảm giác thánh thiện của thời trẻ
trung, cả
những xót xa, tuyệt vọng, khao khát và hoang mang, đã là miền bình yên
nhất để
tìm về khi buồn khổ, để sống tiếp.
Lạ lùng làm
sao, người sống cùng Ngân, người đàn ông cởi mở mà kín đáo, chu tất mà
thờ ơ,
tưởng như chỉ công việc và những kết quả hàng ngày trong công việc, và
một gia
đình yên ổn là điều kiện đủ để hài lòng lại là người hiểu tất. Người
duy nhất.
Ngồi với nhau đây
Hiền như dãy
ghế trong nhà thờ
Còn nhìn đi
đâu
Mưa rơi tàn
đêm trên biển lớn
Mai này em đã
xa
Vắng em trong
thành phố
Vắng em nơi
dòng sông
Vắng em nơi
nụ hôn
Vắng em khi
tiếng hát
Thế nghĩa là
chưa hết
Ngồi với sao
khuya
Hồn như dãy
ghế trong nhà thờ
Ấm tay lời
nước mắt
Bao giờ ta có
nhau?
29.
- Em có đồng
ý vậy không? Một bản nhạc mình mê khi còn đang trẻ thường mình sẽ thích
nghe
suốt đời. Nó khua cả một thời dậy... một thời khá là ngu ngốc phải
không?...
thế mà mình luôn luôn thèm sống lại để lại bước lại đúng những bước ngớ
ngẩn.
Những tình bạn - Thịnh cười, trong khi loay hoay thử cái CD nhạc mới
sang lại -
Những mong chờ. Cả tình yêu nữa. Bơi trong khao khát và tự tin. Chả
hiểu sao tuổi
ấy động một tí là buồn là chán, lúc nào cũng phồng má lên mà tuyên bố,
chẳng
khác gì trẻ con thổi bong bóng, tưởng nó bay lên trời, đánh đùng một
cái nó nổ
ngay mũi mình, ấy vậy mà ai cũng thèm sống qua một lần nữa. Đúng thế
đấy. Mà
chưa chắc tất cả là cao đẹp.
Người đàn ông
vặn to cái loa, bước lùi, đột ngột cất tiếng hát, rồi lắc đầu cười
cười. Ngân
lặng im ngắm chồng, mắt lộ một vẻ kinh ngạc dịu dàng. Có cảm giác Thịnh
nói với
vợ đấy mà lại là không phải. Thật ít khi Thịnh có vẻ cởi mở như thế.
Mọi sự ở
chồng, Ngân có cảm giác đã được chương trình hóa. Ba mươi tuổi: xong
Kandidat.
Ba mươi hai tuổi: về bộ. Ba mươi nhăm: yêu, cưới vợ, sinh con. Bốn
mươi: xây
nhà... Tối thứ tư và sáng chủ nhật nếu không đi công tác xa thì đưa vợ
con về
thăm bố mẹ. Câu chuyện về gia cảnh một thời gieo neo của bà mẹ chồng
làm Ngân
thêm trọng chồng, nhưng tựa hồ cũng làm vững chắc hơn trong người đàn
bà ý nghĩ
về người đàn ông. Chính với ý nghĩ ấy mà Ngân nhận lời lấy Thịnh. Ngân
lấy
Thịnh bởi chưa một lần cảm thấy nôn nao trước giờ hò hẹn, bởi những câu
chuyện
giữa hai người bao giờ cũng điềm đạm vậy, không còn gì để phải nghĩ
phải tức
tối với nhau, rồi cười một mình trước khi chìm vào giấc ngủ, biết chỉ
hôm sau
thôi người ấy sẽ lại tới tìm mình, như lẽ ra phải thế ở một quan hệ
khác. Những
lần Thịnh đón đi chơi bao giờ cũng mở đầu có hoa, kết thúc ở quán, rất
êm đềm,
đủ đầy: bữa ăn, lời căn dặn, suy tính. Thịnh hào phóng và tự tin, đầy
vẻ đàn
anh nhún nhường thằng em khi vô tình gặp bạn của Ngân. Thịnh mặc nhiên
chấp nhận
ở Ngân một quá khứ riêng, những mối quan hệ, nếu như đã có. Thịnh không
ghen
tuông và không phải một lần tuyên bố như thế trước vợ và bạn vợ. Thực
ra thì
sao? Đấy có phải là cách tốt nhất để giữ riêng cho mình một dĩ vãng,
không cần
chia sẻ, tự thú. Một cách bình tĩnh, Ngân nhận ra rất nhanh mối quan hệ
giữa
hai vợ chồng vừa bền chặt vừa lỏng lẻo, và vui mừng chấp nhận. Nhưng
bao nhiêu
đêm về, thân thể chùng lại, rũ lả, vừa mệt mỏi vừa dễ chịu sau cơn hoan
lạc,
người đàn bà nằm yên lặng không thể nào ngủ nổi vì cảm giác trống rỗng,
và cứ
vừa thiếp đi là lập tức bị bóng đè. Trong cơn mộng mị, người đàn bà
thấy mình
tiếc những giấc mơ bay, thấy mình rơi, rơi. Sâu hút, tối đen, sền sệt,
chảy vào
trong mắt, trong mũi, trong tai. Sặc sụa.
- Sao vậy?
Em! Dậy đi em. Em lại mệt rồi.
Bao nhiêu lần
Ngân chỉ muốn khóc òa lên khi Thịnh cúi xuống, nước và thuốc trên tay.
Sự khủng
khiếp này có phải là sự khủng khiếp của Phan, trong giấc mơ tuổi mới
lớn? Thịnh
không phải là Phan. Tại sao Thịnh không phải là Phan? Ngân cầm cốc nước
từ tay
chồng, nhấp nhấp, mỉm cười biết ơn. Thịnh tắt đèn, lên giường nằm trở
lại, với
tay xoa lên vai vợ. Nếu người đàn bà nghe thấy tiếng thở dài của chồng,
có ý
định nhìn vào mắt người đàn ông lúc đó, chan chứa những dò hỏi, bất lực
và yêu
thương... hay nếu người đàn ông đủ sức dẹp đi ý muốn giữ đến cùng cho
riêng
mình những ngày đã qua, hỏi vợ, vẫn bằng giọng yêu thương ấy, nhưng là
một câu
khác, không phải về bệnh tật, không phải về cơn ác mộng, liệu cuộc sống
chung
của họ có đơn giản và nhẹ nhàng đi không?
Có nhẹ nhàng
đi không, nếu Ngân là con trai, là Việt, chẳng hạn thế? Sẽ là những
cuộc hôn
nhân nối tiếp những cuộc hôn nhân. Nhưng Ngân không có một tình yêu cụ
thể để
có thể bám víu vào đó trong những quyết định thay đổi đời mình như
Việt. Chỉ có
những tình bạn, những tình bạn không thể sống chết một đời cho nhau,
nhưng rút
cục lại phải mang theo một đời cùng với đủ thứ nghĩa vụ hàng ngày của
một người
con, một người vợ, một người bạn, một viên chức.
*.
- Lần này đi tìm
mộ ông cả nhà để một
mình tôi thôi. Tôi quen thung thổ, với lại còn bè bạn cũ. Mình nhờ vả chuyện hiếu chứ chẳng phải xin xỏ
gì...
Người cha
không nói hết câu. Ông anh bà em im lặng. Những đứa con cũng im lặng.
Họ biết
bao năm chỉ nội chuyện đến gặp lại bè bạn cũ thành đạt đối với người
cha cũng
là chuyện không thể có. Ngần ấy năm người cha nén mình sống lầm lũi,
đoạn giao
với tất cả, ngày tháng trẻ trung gian nan nơi chiến khu, sáng thu về
xuôi tiếp
quản Thủ đô, châu Sơn Dương, bến Bình Ca, ghềnh Quýt, rừng Chiêm Hóa,
Chợ Bờ,
Chợ Rã, những đêm Hà Nội buổi hòa bình lập lại bình an mà xáo xác, và
đồng đội.
Ngần ấy năm ông lấy chuyện gà trống nuôi con thành người là niềm tự hào
thứ hai
bên niềm tự hào đã là người của cơ quan từ thuở mười ba tuổi. Niềm tự
hào không
lời và xót xa đó níu lấy ông, không cho phép ông buông xuôi, dù sống
cực nhọc
và buồn khổ quá.
- Thật ra thì
mẹ hồi còn sống cũng đã dặn thôi đừng tìm mộ bố chứ chả phải vì bom đạn
không
làm được. Đận ấy ở Việt Bắc tôi được tin bố bị thương đưa vào bệnh viện
Chiêm
Hoá, nhưng bệnh viện đến chiều hôm đó bị oanh tạc... Có còn ai đâu...
Nghe anh
em cơ quan bên cạnh bảo bệnh nhân thầy thuốc tất cả đều chôn ở ven
rừng, chả
biết ai ra ai cả. Năm mươi năm rồi còn gì. Nhưng chả hiểu sao năm nay
tôi cứ
thấy nóng ruột quá. Thế nào tôi cũng phải tìm lên đó một lần. Nghe mấy
thằng
bạn ngày xưa làm ở ủy ban tỉnh cũng về hưu cả rồi, già hết cả rồi, chả
còn gì
để làm ra vẻ, chắc lắm thì giờ rảnh rỗi giúp mình.
*.
Trở về nhà
sau chuyến đi, bố bần thần mãi. Mộ ông nội không tìm thấy, dĩ nhiên
rồi. Bãi
tha ma giữa cánh rừng xưa, và cả cánh rừng xưa không còn một dấu vết.
Người
trai trẻ mặt mũi ngơ ngơ, trên áo thổ cẩm dưới quần bò dép tông đi
Minxcơ trả
lời ông. 'Không biết mà. Người vẫn ở đây mà. Bác vào hỏi pò mè, pò mè
biết
nhiều chuyện già lắm.' Cái tiếng Kinh ngòng ngọng của anh ta làm ngực
ông nóng
lên vì nỗi nhớ thằng bạn Thổ đã chung với mình tấm chăn dạ rách anh bí
thư cơ
quan nhường.
- Anh nhỉ,
không hiểu sao mà cái năm đầu ở cơ quan lắm rận thế không biết nhỉ.
Chăn dạ
rận, chăn sui rận. Hồi ấy chả có xống áo gì, nhảy xuống suối bắt cá,
chạy về
lán chui vào chăn thấy ấm sực. Thêm đống lửa cay hết cả mắt cả mũi nữa.
Giờ già
rồi, con cái phế cả chăn bông, biếu bố chăn lông bảo nằm cho nhẹ, mà
lại không
ngủ được như cái hồi co quắp đánh nhau với rận. Cái chăn dạ anh Bảo cho
cũ lắm
rồi, thằng Giủ nằm mê đạp thế nào toạc một lỗ to bằng cái rá, chịu
không sao vá
được. Cái thằng Giủ...
- Cậu có định tìm nó không đấy? Nó
chết lâu rồi, bụng báng
to tướng ốm phật phừ mấy năm rồi mới ngủm được. Thằng ấy nó hiền, chí
tình lắm.
Chả biết tranh giành gì. Được con vợ, cậu biết vợ nó không, con Chít
vẫn lẩn
quẩn bên cơ quan phụ nữ ấy. Vợ thằng Giủ thì khá, hòa bình được cho đi
học, rồi
làm bên phụ nữ tỉnh, lúc chồng chết nó đã là tỉnh ủy viên chuyển qua
làm bên
toà án. Hai vợ chồng nó không bao giờ đói, nhưng mà chả có lúc nào
sướng hẳn.
Tội nhất là lúc thằng Giủ nằm xuống rồi, có thằng con dính vào vụ buôn
lậu qua
biên giới, cò con thôi, nhưng mà không may. Thế là mẹ xử con. Hai năm
tù. Cô
Chít đến nhà tôi khóc chán rồi bảo: 'Chạy ai. Giá mình không ở cương vị
này,
mình còn muối mặt đi xin.' Xử xong thằng con thì con mẹ ốm, cứ lay lắt
thế cho
đến khi về hưu.
- Thế ra vẫn
có người sống y như thời xưa ấy nhỉ! Hồi tôi bị oan, ở tù về tôi bỏ cơ
quan
luôn. Chả đến ai, mà cũng chả ma nào đến mình. Cũng là lẽ đời thôi mà.
Nhưng
hồi ấy thì đau lắm. Cô Chít về Hà Nội họp, đến thăm tôi, kể thằng Giủ
nghe tin
xin nghỉ phép tìm về Hà Nội. đến được nhà tôi nhưng lại vào lúc con bé
con nằm
viện, hai vợ chồng quanh trong đó, thành ra không gặp được nhau. Cậu ấy
là
người duy nhất...
Người đối thoại thở dài:
- Uống đi
cậu. Uống đi mày. Già một chân dưới lỗ hết cả rồi. Nhớ làm mẹ gì. Cũng
là lẽ
đời cả. Mày vừa bảo thế hả? Cũng là lẽ đời. Chả phải không biết nhớ tới
nhau
đâu. Nhưng mà ai cũng sợ cũng ngại. Rồi là công tác, vợ con, chép miệng
vài lần
là mọi sự đã trôi xuôi rồi, đến cả cái áy náy dành cho nhau nó cũng đi
đâu mất.
Tao cũng là người như thế. Mấy năm sau đó tao cũng có lần về Hà Nội
họp, chả ai
nhắc chuyện mày nữa nên cũng không hỏi. Giờ đã ngoài bảy mươi. Có những
chuyện
nghĩ lại muốn ân hận cũng không kịp nữa rồi. May mà cậu có việc lên
ngược mới
có ngày gặp lại nhau. Uống nốt chén này rồi đi nằm. Mai tao đưa mày đi
sớm. Nhớ
xóm Cò không? Ông Muỗi sống đến hơn chín mươi mới chết, lần nào về cũng
cầm tay
khóc nhắc các anh ở cơ quan. Mẹ, có anh nào về xuôi còn ngược về thăm
cụ đâu.
Có hồi cụ đói rách lắm, tao về, cụ khoe cái áo trấn thủ cũ, bảo anh Giủ
biếu,
ấm lắm. Độ này con cháu chạy hàng biên giới, khấm khá lắm rồi. Nhưng mà
mày
không nhận được ra xóm Cò đâu. Ngày trước rừng ở bên hông nhà, giờ có
đi nửa
ngày mới thấy loe ngoe mấy cây nứa tép. Nói dại chứ dân bây giờ có đói
khéo
không bò nổi vào rừng tìm miếng ăn như xưa nữa. Xa quá rồi.
Bà em gái út
nghe chuyện ông anh từ chuyến đi tìm mộ bố về, cười ồn ào:
- Ôi giời ơi
bác. Ngỡ bác đánh đường một chuyến ngược về chiến khu là để cho cái
lòng già nó
nhẹ. Hóa ra các bác gặp lại nhau lại bủi ngủi bùi ngùi. Mấy đứa nhà em
nghe
chuyện khéo bình vụng với nhau là các cụ già lên cơn lởm khởm. Cha bố
nhà chúng
nó chứ! Nhưng mà nhiều khi em nhìn các cháu lại nghĩ... Giá mà ngày xưa
anh em
mình được sống như chúng nó độ vài ba phần khéo đời mình nó cũng nhẹ
rồi. Thằng
cả nhà em hôm rồi dám bảo bố nó thế này bác ạ: Tuổi bố khổ vì đổ vỡ
niềm tin,
tuổi con khổ vì không có niềm tin. Nghĩ đi nghĩ lại đã khổ thì khổ nào
chả như
nhau. Giá phải ngày xưa thì nhà tan cửa nát vì câu nó nói đấy. Nhưng
bây giờ bố
nó lại rót rượu cho con, cười khà khà. Em nghĩ bác cứ cố sống như bố
cháu nhà
em có khi lại sướng.
- Cô bảo...
Có bao nhiêu điều tôi tâm niệm là phải quên mà nó vẫn cứ bám lấy tâm
trí mình.
Càng già càng hay chạnh lòng. Cái tạng tôi giống bà nhà mình. Có điều
cũng chả
nói được với ai. Khổ thế. Vừa rồi đi tìm mộ bố gặp lại anh em đồng chí
cũ, có
lẽ cũng chỉ một lần này. Rủ nhau đi cũng sắp vãn rồi. Tôi ngày ở cơ
quan là
thuộc lớp ít tuổi nhất mà giờ cũng bảy mươi mốt. Có lẽ vì thế mà lại
vạch vòi
lòng dạ được trước nhau.
*.
Bi kịch? Bi kịch của thế hệ? Bi kịch
của mỗi người? Lứa tuổi
nào chẳng có niềm tin thời đang trẻ. Nhưng niềm tin thật khó quy đồng.
Làm sao
tìm được mẫu số chung trong niềm tin của những người như bố, chú Thái
và như bố
mẹ chồng Ngân ở thời buổi đã rất xa xôi kia. Làm sao thấu hết mãnh lực
của niềm
tin đã thúc ông nội từ bỏ Hà Thành lên Việt Bắc và nằm lại đó, cũng như
niềm
tin đã dẫn dắt ông lão Việt Nam một đời bôn ba quê người. Thằng em Ngân
kể cũng
là hơi bạo khi tuyên bố rằng bi kịch của tuổi nó là không có niềm tin.
Có chứ!
Niềm tin sắt đá vào sức mạnh của đồng tiền chẳng hạn. Hay là sức mạnh
của
Version Word n. 0? Mới, mà cũng xưa như là cổ tích. Nếu chúng nó có bi
kịch thì
bi kịch có lẽ là ở đấy. Còn bi kịch của bọn Ngân ở tuổi chúng nó bây
giờ? Là sự
giằng xé giữa lí tưởng của thế hệ bố mẹ, muốn theo lắm, với thực tế
từng ngày,
với lòng ham sống, với ý thức cần phải sống, sống thật sự, cho mọi
người, nhưng
trước nhất là cho mình? Không nếm, làm sao biết dọn cỗ. Hay cũng không
phải
thế? Ngân nhớ mình đã khổ sở bao nhiêu khi không thể nào vui hết mình
được cùng
bè bạn. Càng khổ hơn lúc bất chợt nhận ra niềm sung sướng cay độc khi
có thể
nói ra một lời nhạo báng không động chạm một ai nhưng không ai chịu
nổi. Sau
này người đàn bà sẽ âm thầm tiếc rằng tuổi ấy đã không được quyền nói
với nhau
rằng có thể có một niềm tin khác, rằng có những niềm tin rất khác nhau.
Sao
không, khi Ngân, một buổi sáng đầu mùa hạ thấy mình khoẻ mạnh bất
thường, thấy
sự im lặng tinh khiết đang thống trị hành lang khu nhà tập thể hệt như
ân huệ
không dám cầu, thấy nắng và gió sớm sao mà tuyệt diệu, thấy màu hoa
vàng trên
bàn viết lộng lẫy và mong manh, đã bất chợt buông sách cất tiếng 'chiều
biên
giới em ơi - có nơi nào xanh hơn - như đầu sông ngọn suối- như chiều
quê biên
cương... 'Em ơi có nơi nào đẹp hơn chiều biên giới...' Sẽ đến một ngày
người
đàn bà nhận ra tất cả sự nhẫn tâm vô tình trong tiếng hát của mình.
Biên giới
lúc đó là chiến tranh, là mìn giật sập động Tam Thanh, là biển người từ
phía
Trung Quốc tràn sang. Lúc đó Ngân sung sướng, sung sướng vì được sống
qua một
tâm trạng thời đại cao đẹp báo đăng đài nói liên miên mà không phải
thực sự dấn
mình vào hoàn cảnh chẳng dễ chịu tí nào kia, sung sướng vì được hát như
thế,
giữa thành phố.
Ta mang theo mùa thu
như một niềm mong ước
Em mang theo đời ta
lẽ nào em không biết
Đừng nghĩ rằng tuổi trẻ qua mau
Cả tuổi già cũng thế
Biết không
Trong hắn vẫn một chiếc thuyền
đậu bến em.
*
Trên lá vàng
lại thêm lá vàng nữa
Trên nỗi
buồn lại thêm nỗi buồn nữa
Cuộc đời
ta?
Ta vẫn yêu
mối tình ấy thôi
Ta vẫn đau
nỗi buồn ấy thôi
Thu nay có
lại như thu trước
Non nước
bây giờ năm tháng trôi
30.
- Vĩnh cứ tưởng là hồi ấy bọn mình đã
có thể nói hết với
nhau...
- Thì đúng
thế còn gì. Ngân có giấu gì đâu... những ý nghĩ có trước Vĩnh khi đó.
- Thế
nhưng mà...
- Phải, phải. Có những điều ngày đó
Ngân đã nghĩ, nhưng mà
trước Vĩnh Ngân không nói. Chỉ đơn giản là... Xin lỗi...
...
Không phải vì
những éo le. Chỉ đơn giản là những điều ấy Ngân không thấy cần phải nói
với
Vĩnh. Ở một nơi nào đấy có một người nào đấy... Sau này Ngân biết rằng
cảm giác
ấy gọi đúng tên là tưỏng bở. Tưởng bở đấy thôi. Vô nghĩa thật, khi nhìn
những
cuộc đời đi qua. Chả biết phải phấn đấu ra sao và phấn đấu để làm gì.
Sao mọi
người vẫn bình thản trước cuộc đời trầy trật thế này. Dù sao thì...
Vĩnh nhỉ,
không thất vọng làm sao biết thế nào là hi vọng.
Mưa. Cơn mưa bất chợt. Nguời đàn ông
giúp người đàn bà đứng
dậy:
- Mưa hắt ghê quá. Khéo mà Ngân ốm.
Mình vào trong này ngồi
nhé.
- Thôi Vĩnh. Cũng muộn rồi. Đứng ngoài
này cho nhẹ đầu, chờ
mưa ngớt rồi còn...
Những tiếng
cuối cùng người đàn ông không nghe thấy. Gió đuổi hơi người đàn bà đi
đâu.
Người đàn bà xoè bàn tay ra ngoài mái hiên. Những giọt nước bay xiên
trong ánh
đèn đường vừa mới sáng, vỡ trên lòng bàn tay dẫu tuổi tác rồi mà vẫn
mỏng y như
thời con gái. Lá ướt. Những ngón tay mưa. Da thịt người đàn ông se lại
trong
nỗi nhớ một ngày trẻ tươi và lặng lẽ. Người đàn bà quay sang nhìn bạn:
- Ngớt rồi.
Vĩnh về được rồi. Bình thường có về muộn thế này không? Handy của Ngân
hết pin,
cho Ngân mượn gọi mấy câu về nhà để bọn trẻ khỏi nóng ruột.
Giống như là
một dấu lặng để chuyển qua những gào thét âm thầm khác. Người đàn bà
nhìn theo
bóng xe người đàn ông thoắt cái đã biến mất ở chỗ ngoặt đầu phố. Chợt
nhớ mình
bao năm xưa. Đã bình thản vô cùng khi nhận thiếp mời của bạn, đã vui
mừng cho
nhau, nhưng lòng đau đớn mãi. Không biết vì sao. Có thể vì biết rằng dù
có
chung bao nhiêu là hồi ức và thông cảm, với bạn, mình tuyệt nhiên không
phải là
hạnh phúc. Nhưng buổi chiều muộn này đã là của mười mấy năm sau. Trong
trí, một
hình dung cứ dần dần hiện rõ. Đêm nay thôi, sau bữa cơm tối, lúc những
đứa con
yên giấc, người đàn ông sẽ nằm xuống, ôm lấy vợ, thì thầm: "Chiều nay
về
anh gặp cô bạn học cũ, mải chuyện, lại mưa, em có nóng ruột không?'
Những động
cựa và âu yếm. Không hiểu vì sao hình dung ấy lại làm người đàn bà yên
tâm, ấm
lòng. Và kinh ngạc nhận ra lòng mình yên ổn lại không chỉ vì ý nghĩ về
bạn, mà
vì ở góc phố ấy, trong khung cửa ấy đang có một người đàn ông chờ mình.
Mưa
ngớt hẳn. Từ bốn phía lại dậy mùi hương cũ. Hoa sữa. Đầu đông. Người
đàn bà lên
xe. Vòng bánh xe quay đè nát những giọt mưa mồ côi vừa vỡ trên mặt
đường. Ngày
trước, Ngân thường thận trọng lắm để không làm vỡ những giọt nước như
thế đọng
trên lá gió mưa vừa rứt khỏi cành khi bước đi trên phố.
*.
- Việt chờ em vừa mới về. Các con với
Osin ăn rồi. Còn anh
đợi em. Anh rủ Việt ở lại chờ em rồi bọn mình ra quán mà cậu ấy đòi về,
bảo sốt
ruột vì con bé. Bạn em buồn cười thật. Bỏ vợ lia lịa nhưng mà với con
thì dính
như keo.
- Bọn em biết mà. Cô vợ mới nào cũng
tha hồ làm nũng cậu ấy,
nhưng đừng có tính chuyện gì với con bé con. Em đã bảo Việt đừng có
chiều con
quá mà cũng đừng đòi hỏi nó nhiều quá.
- Có mà giời bảo. Em cứ nhìn em xem
nào. Nhiều lúc anh sốt
hết cả ruột vì cái cách em tha con chạy quanh cái guồng dạy và học bây
giờ.
Nào, đi ăn đã. Đã về nhà một mình một mâm là anh không tài nào ăn nổi,
nhưng
chờ vợ đến giờ anh hết cả đói rồi đây này.
- Em gặp Vĩnh. Lâu quá mới gặp nhau.
Lại mưa. Lúc mưa anh
đang ở đâu.
Trên đường. Phóng như điên. Trời mưa
nên không tắc. Cứ nghĩ bà
nó ở nhà rồi. Ngày xưa mà biết gia đình một chồng một vợ hai con cùm
mình chặt
thế này thì anh sẽ thi hành chế độ...
- Chế độ gì? Em ủng hộ cả chế độ đa
thê lẫn đa phu đấy.
- Biết rồi. Biết rồi. Biết vợ của anh
rồi...
Người đàn ông cười cười đưa tay nhận
bát cơm vợ mới xới.
'Vĩnh có được vợ chờ cơm không?' Bất giác Ngân cũng mỉm cười.
Sông con chảy
Trong vàng thu
Yên ắng
Mù sương giăng
Che một vầng trăng
Xa vắng
Thảng thốt đau
*
Và mịt mờ trong sương
Chopin
Và ngọt ngào bi thương
Chopin
Đâu cũng như quê
Đâu cũng như không
Chopin
31.
Đứa bé gái đứng trên ngôi mộ giơ tay
về phía trước. Bầu trời
như một tấm vung thiếc khổng lồ úp chụp lấy nó trong một vùng tối ướt
sũng. Mưa
rụng những hạt to và nặng, bỏng rát, bám lấy da mặt nó. Đứa bé gái muốn
bước về
phía trước. Nhưng không thể. Đôi chân gầy của nó lún xuống nấm mồ. Có
gì dưới
ấy giống như là bùn, như là cỏ ướt bíu lấy hai bàn chân nó. Con bé con
rướn
người, giơ hai bàn tay hướng về phía trước. Từ đôi môi trẻ con bầm tím
vì ánh
trời quái gở của nó thoát ra tiếng thì thào khẩn cầu vô vọng: Mẹ!
Đấy là một giấc mơ khủng khiếp. Nó đến
với Ngân ngay đêm đầu
tiên đi đưa mẹ về. Nó đến với Ngân năm con bé mười ba tuổi và thỉnh
thoảng lại
quay về. Không có điềm gì báo trước rằng giấc mơ đó sẽ quay về. Nó về,
đơn giản
vậy, sau một buổi chiều dường như rất vui tự bạ cùng bè bạn. Nó về,
trong những
ngày người đàn bà sung sướng thấy mình hoà hoãn được với cuộc đời. Nó
về, khi
một đứa con bỗng dưng ốm. Nó về, vào lúc người đàn bà từng ngày chu
toàn mọi
việc, và dù thế, vẫn biết mình khát khao gì. Đấy là một giấc mơ khủng
khiếp.
Mẹ phía trước. Trên nấm mồ của mẹ. Mẹ
không héo hắt như
những ngày cuối cùng trong mùa hè nhiều sự kiện vừa phấn chấn vừa buồn
thảm ấy.
Mẹ, mái tóc trong ánh trời xám sùng sũng nước vẫn toả một vầng sáng
nồng ấm.
Mẹ, dáng lẳn và môi mọng. Mẹ, nhưng đôi mắt mở to, căng thẳng. Hai hàng
lông
mày vạch một đường đậm, rướn cao. Đấy là đường nét của người không biết
nhân
nhượng và đấy là nét duy nhất mà Ngân thừa hưởng được từ mẹ.
Mẹ đứng đó. Trên nấm mồ của mẹ. Tay mẹ
cũng giơ cao, hướng
về Ngân. Đôi mắt mẹ trong một nét nhìn căng thẳng cuối cùng chuyển hẳn
thành
đau đớn. Mẹ cũng không thể nào bước được. Đôi chân mẹ đã cắm sâu xuống
mồ và
cái khoảng rỗng dưới đó hút chặt lấy mẹ. Hai mẹ con nhìn nhau, cố với
lấy nhau.
Mưa vẫn rơi, bỏng rát. Bầu trời phù thũng sập đến nơi rồi. Những nấm mồ
nhấp
nhô khắp nghĩa trang lún dần. Con bé cũng lún dần. Nó còn cố nhìn mẹ
vẫn ráng
bám chân trên nấm mồ, giơ tay về phía nó trong một cố gắng hoảng loạn,
tuyệt
vọng.
*.
Người đàn
ông không tìm cách đánh thức vợ dậy như mọi lần, chỉ ôm xiết tấm thân
đầy đặn
đang run bần bật của người đàn bà, cố lọc lấy từ đôi môi run của vợ một
âm
thanh có nghĩa. Người đàn bà đã tỉnh, không tìm cách toài ra khỏi vòng
ôm của
chồng, khóc nức lên như trẻ nhỏ. Có thể giải thích được chăng nỗi đau
đớn khủng
khiếp không giảm bớt theo thời gian của mình khi mơ lại giấc mơ nghiệt
ngã.
Ngân quay người, hít mạnh. Hơi ấm nồng nồng từ thân thể người chồng làm
lòng
người vợ bình thản lại. Nỗi tuyệt vọng rút dần như lũ mùa.
- Tỉnh hẳn chưa em. Em uống nước
không? Để anh dậy rót nhé!
Ngân nhìn lưng chồng quay về phía
giường. Người đàn bà không
hề biết rằng phút ấy lòng người đàn ông tan hoang thế nào.
- Mình thức nhé. Đằng nào cũng khó ngủ
lại. Em này, anh có
một tin mới cho em
- ?
- Anh qua kì tuyển rồi đấy. Thì vẫn
nghề mình. Có điều bây
giờ mình không là đại diện cho Việt Nam mình mà ăn lương của FAO và sẽ
làm việc
ở nước ngoài. Sang năm bắt đầu.
- ?
- Anh không nói với em. Nhiều bọn trẻ
lắm cũng xin. Mình
chững tuổi rồi, nghĩ khó. Ở nhà làm ăn đang được. Nhưng mà anh thấy mệt
mỏi quá
rồi. Chúng mình sẽ đi cùng nhau chứ? Anh nghĩ em dừng một thời gian
cũng là
điều tốt. Dạo này em ngủ thấy khổ sở quá.
- Nhưng còn việc học của các con? Đi
có thời hạn, liệu có
khó cho các con không?
- Mình sẽ thu xếp được...
- ...
- Còn chuyện này nữa: Đề án anh đang
làm với công ti của
Phan sắp kết thúc. Có một phần việc phải làm bên kia. Đoàn gồm Phan,
anh với
một cậu cùng cơ quan, mấy ông lãnh đạo địa phương. Và Vĩnh. Vĩnh không
nói với
em là làm đề án cùng anh à? Phan bảo muốn làm giấy mời cả em, nhân thể
thôi.
Mình sẽ tự chi, coi như một chuyến đi nghỉ. Em thấy thế nào?
*.
Một chuyến đi nhọc mệt. Chen giữa
những giờ ngồi một mình ở
khách sạn trong khi chồng làm việc là những chuyến tham quan chớp
nhoáng theo
yêu cầu của mấy ông cán bộ lãnh đạo địa phương cùng đoàn. Từ khu đèn đỏ
ở
Amsterdam lại lồng qua Louvre ở Paris, rồi lại nhảy bổ tới Rom. Chỉ tội
cậu
nhân viên Phan giao cho việc lái xe, dịch dọt và rước xách. Thịnh ái
ngại nhìn
vợ. Phan thì đầy vẻ băn khoăn.
- Mai Phan định đưa đoàn đi thăm thành
phố nơi nhà mình sẽ
sống năm sau. Em có mệt quá không?
- Không sao đâu anh. Em đi được. Còn
mấy ngày nữa đã về. Đi
chứ? Đi cho biết.
Ấn tượng sâu đậm về thành phố châu Âu
mà Ngân sẽ sống một
khoảng đời bắt đầu từ buổi đó. Nếu không có cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên đó
liệu nó
có được trong lòng Ngân không? Mùa thu. Con đường chạy giữa hai hàng
sồi già
ngời ngời lá đổ: Tía, vàng, nâu, đỏ thắm. Màu lá kì diệu, hồ như sắc
nắng trong
mưa.
Người đàn ông bối rối dừng chân:
- Ngân đấy à? Ngân không ở trong đó
xem tiếp nữa à?
- Ở ngoài này thích hơn Phan. Sang năm
Ngân lại đến nơi này.
Bảo tàng thì vẫn còn đấy, xem sau. Nhưng cái khoảnh khắc này thì chỉ
một phút
nữa thôi là người ta đã có thể không thể hình dung lại nổi. Phan nhìn
xem: Lá
như là nắng đầu thu vậy. Trong khi mây xám như một ngày đầu đông ở nhà
mình.
Còn bầu trời thì mới rộng làm sao. Liệu bao giờ tuyết nhỉ?
Người đàn ông tắt cái walkman, quay
nhìn vòm cửa viện bảo
tàng:
- Còn lâu Ngân. Bây giờ mới mùa thu.
Rồi sang năm Ngân sẽ
phát nản vì tuyết. Nhất là những ngày tuyết sắp rơi. Lạnh kinh khủng.
Lạnh méo
cả miệng. Còn bầu trời thì giống như cái bụng của con tằm bệnh ấy, vàng
úa úa
và phù ra ở chân trời. Kìa, anh Thịnh nhà Ngân với Vĩnh cũng ra rồi.
Giờ thì
phải đi tập hợp mấy vị lãnh đạo kia lại. Các vị đó ra lâu lắm rồi.
Người đàn bà chìa tay, cầm lấy cái
walkman từ tay bạn, ngoắc
ống nghe lên tai:
- Phan đang nghe gì đấy?
- Bình thường toàn classic. Hôm qua
thấy cái CD Trịnh Công
Sơn của Vĩnh. Lâu lắm rồi nghe lại... thấy...
Tiếng người đàn ông nhỏ dần theo bước
chân Ngân rời đi, xa
vời bên ngoài headfon đang thả từng lời chua xót, '...Rừng đông rơi
chiếc lá -
ta cười với âm u... Trên quê hương còn lại ta đi qua nửa đời không thấy
một
ngày vui đường trần rồi khăn gói mai đây chào cuộc đời...' Người đàn bà
ngửa
mặt. '...Nhìn lại nhau con mắt lo âu xin vỗ về muôn yêu dấu... Nhìn lại
nhau
che những cơn đau...' Bầu trời xứ lạ
mênh mông như những ngày đã qua nơi quê nhà. Thời gian giống như chuỗi
vòng pha
lê vỡ dần từng viên trong lòng người đàn bà khi sau lưng bước chân của
chồng và
bạn lạt xạt gần lại trên lá ướt. Người đàn bà mỉm cười. Nước mắt ứa ra
mằn mặn.
Hạnh phúc! Hạnh phúc là năm tháng này còn được nghĩ về nhau
*.
Nơi ấy, những cô bé con trở thành
thiếu nữ, qua tháng ngày
đứt đoạn, rồi thành đàn bà.
Nơi ấy, rất lâu sau có một người đàn
bà trở về. Ngõ nhỏ ồn
ào. Người đàn bà đứng bên này đường ngước nhìn vòm đa cổ thụ. Những
chiếc xe
máy lồng lộn, nhả khói khét lẹt cùng âm thanh rợn óc. Một chiếc lá vừa
rời cành
đang nóng nảy vật lộn với gió. Người đàn bà ghìm mình không bước dấn ra
giữa
phố, xoè tay...
Ngày hôm sau
người đàn bà ra đi.
Trở lại quá khứ gặp nhiều người quen
hơn bây giờ
*
Không phải là quá khứ chung chung...
Quá khứ của hắn
Mà dùng súng
lục để bắn
Là chết
*
Vầng trăng nhỏ bé
Đêm ta về
Chìm dưới đáy sông sâu, lặng lẽ
Nước chảy, theo thời gian, và gương
trăng khi mờ khi tỏ
Buồn hay vui, ai có hỏi một lần
Này vầng trăng
Người có quá khứ không?
(*): Thơ: Đỗ Quang Nghĩa
Lê Minh Hà
2001
22' 9 - 29.12 2003