lmh





 

Những người muôn năm cũ 

 Khi cháy hết đời mình, nến sẽ lịm dần, và từ đó, một tia khói sẽ vươn lên, sẽ thoảng một mùi hương. Rất nhẹ, rất lành hiền, tựa hồ quên lãng.

Có những cuộc đời như thế.

Có một cuộc đời như thế.

 Ngân biết tên ông từ lâu, như một người tham dự, như một người làm chứng, làm chứng cho một thời kì, làm chứng cho một lớp người con Việt, ở một xứ sở đã để lại cho chúng ta hôm nay dấu ấn không thể tàn phai, về máu, về nước mắt, về một cách gào thét, thở than. Bản thân ông và đồng chí của ông, trong một nghĩa nào đó, cũng chính là lịch sử.

 Ngân quen ông chưa lâu. Số phận đã chọn ông thành người phù trợ cho Ngân, trong một khoảng đời cay đắng. Điều ông và Ngân mong muốn rút cục không thành. Nhưng Ngân không quên tấm lòng ông, ngây thơ, bao dung và nhẫn nại vô cùng tận trước đời sống này.

Ngân gặp ông chỉ một lần. Thời gian chỉ đủ cho Ngân nói đôi lời hỏi thăm sức khoẻ của ông và kể về chuyến đi cập rập của mình. Nhưng đủ để Ngân giữ mãi trong lòng nỗi bùi ngùi trong buổi sáng Paris ấy.

 Sự sống dường như chỉ còn là một mạch nước sắp kiệt ở ông. Làn da nhăn nheo, trắng bợt, giọng nói yếu, nụ cười mong manh, đôi bàn tay đầy gân vịn trên thành ghế. Đấy là ông. Ông ngồi đối mặt với bức sơn dầu ngồn ngộn hai khối tròn nóng ấm và tươi sáng mà chính ông đã vẽ. Bức tranh thu toàn bộ sự sống trong nhà. Còn lại: chỉ là ông và bụi nắng.

 Căn hộ của ông ở Paris giống như một cái bến mà đồng hương từ Việt Nam qua hay tấp thuyền vào. Đã bao nhiêu người ngày ngày vào ra nơi đó. Đã bao nhiêu người ngày ngày ngày đi qua ông để tới với cuộc đời hăm hở ngoài kia. Có phút nào, có ai nghĩ đến ông lão đang leo lét sống và đợi. Có ai, một lần ngồi lại, nói với ông về Tổ quốc ông yêu? Có ai, một lần hỏi ông về cuộc đời ông? Có ai biết vì sao ông lại quyến luyến con người như thế?

 Đâu phải vì cô đơn.

 Đã hơn một lần Ngân tưởng ra rằng ông và đồng chí của ông là người chiến thắng trong cuộc đấu tranh thuở ấy. Nếu thế thì những bài lịch sử mà bọn Ngân đã học phải ra sao? Những bài ca cho tuổi măng non ngày ấy sẽ ra sao? Và cách xưng hô của một thời đã ra sao, nếu không phải là 'chúng ta, đồng chí'? Và liệu có không nỗi ngày Bắc đêm Nam? Liệu có không máu thịt Việt Nam trải khắp những cánh rừng già bên mưa bên nắng?

 Tất cả chỉ là giả định. Có cái gì thật vô vọng trong cuộc chiến đấu mà ông đeo đuổi cho tới lúc tàn hơi. Ngân không nghĩ mình sẽ bị thuyết phục bởi lý tưởng của ông. Lớn lên nơi ấy vào thời buổi ấy, nơi những gam màu sáng chỉ hội trong bóng cờ và khẩu hiệu tưng bừng, Ngân đã tự miễn dịch được rồi trước những lời kêu gọi, sau những tin yêu rồi choáng váng hoài nghi. Nhưng gặp ông, thỉnh thoảng nghe tiếng ông qua điện thoại, Ngân lại ngạc nhiên thấy mình xúc động. Có cái gì vừa bất khuất vừa bi thảm trong toàn bộ cách thế sống của những con người ấy.

 Ngân biết mình cũng không mê văn chương của ông. Ngôn ngữ ông dùng trong văn chương giống như là di tích vậy. Nhưng chính điều đó làm Ngân cảm động. Ông đã giữ cho mình bao nhiêu năm ròng tiếng Việt ấy của làng quê nghèo ấy ở thời buổi ấy. Bao nhiêu năm rồi? Ông kể cho Ngân về sáu mươi năm thương nhớ quê nhà. Về nỗi đau không bao giờ gặp lại người ruột thịt. Và ông khóc. Tiếng khóc vọng từ đầu kia đường dây điện thoại, xuyên qua không gian đầy cảm biến tới Ngân chỉ còn là khúc điệu nghẹn ngào của những khoảng ngừng chết chóc. Hình ảnh người trai nhà quê Việt Nam mấy mươi năm về trước lủi thủi lê chổi đi về giữa những tinh sương Paris trắng rợn lòng bỏng rẫy một nỗi quê nhà có khác gì đâu hình ảnh mà bọn Ngân suốt một tuổi học trò đã tưởng là duy nhất.

 Khác chăng: ông phải mượn quê người để kí thác cả cuộc đời đã sống cho quê hương.

 Nhiều năm ròng sống cho một quê nhà chưa bao giờ được một lần nhìn lại là bi kịch của bao nhiêu con dân Việt đã tự vãi mình ra trên thế giới này? Ngân kinh ngạc vì tưởng tượng của ông về quê hương: một gốc đa đầu làng, (đã hẳn), những người đàn bà xắn váy quai cồng gồng gồng gánh gánh; những hàm răng đen hồn hậu; bầy trẻ nghèo mới tí tuổi đầu đã phải xốc vác nuôi thân, và những con đường làng lầy lội, những mái tranh đã ải, nắng trên sông xa, sương khói buồn buồn. Hình dung của ông vừa cũ kỹ vừa sát thực. Chẳng phải những cảnh đời đau khổ thuở ấy vẫn còn nguyên đó hay sao? Có khác gì đâu một đôi mắt đói, dẫu là trong thời nào. Ông không biết những hồi ức của ông làm Ngân đau khổ. Không phải vì cảm thương cho ông. Ông đâu cần điều đó và Ngân đâu dám. Nhưng nỗi đau khổ là có thật. Khủng khiếp xiết bao khi đột nhiên nhận ra rằng tám mươi năm đời ông không phải là sự kết nối những ngày sống và những cùng cực mà người ta vẫn tưởng chép miệng một cái là xong, vì rút cục thì đã đi qua, dù sao cũng phải đi qua. Gần một thế kỉ ấy là trùng trùng đau khổ của mấy thế hệ Việt Nam, trong đó có thế hệ Ngân. Một lần nhìn lại đủ để Ngân kinh sợ, khi tưởng ra rằng đó có thể vẫn là số kiếp của thế hệ con mình.

 "Tại sao anh không về?'

'Đâu có được về hả em. Người ta...!'

Ông trả lời sau một hồi lâu im lặng.

 Tại sao?

Tại sao?

 Ngân muốn gào lên chỉ một câu hỏi ấy. Ngân không thể gào lên câu hỏi ấy. Tại sao? Tổ quốc đã chẳng độc lập hơn nửa thế kỷ rồi đó sao? Tổ quốc đã chẳng thống nhất một phần tư thế kỷ rồi đó sao? Không Tổ quốc nào cấm cửa con mình. Một người con như ông, Tổ quốc nào không thương quý.

  Tại sao?

 Tại sao?

  'Mấy năm trước họ bảo anh là có thể về. Nhưng già yếu quá rồi, đường xa...' Tiếng ông khẽ khàng qua đường dây điện thoại.

  'Người ta...Họ...'

  Giọng ông bình thản quá. Còn có bao người như ông?

 Ông nội của Ngân nằm lại ở môt góc rừng Việt Bắc. Khi toàn quốc kháng chiến, ông dặn bà đưa bốn con dại về quê nương tựa họ hàng. Bố, đang thảnh thơi đi học, phải sáng sáng cắp sách vở cùng thúng xôi lang thang các phố, thay cha giúp mẹ nuôi em. Còn ông, quần nâu túm ống, hì hục khuân vác máy móc đưa lên Việt Bắc. Bố kể buổi nắng và gió lạnh, bố cắp thúng xôi còn lưng lưng qua đó ngóng, gặp ông trong đoàn quân đang tập hợp chuẩn bị ra đi. Niềm tự hào làm cổ cậu bé học trò mười hai tuổi nghẹn lại không gọi người cha thành tiếng được. Ông nhìn thấy bố, rời hàng quân chạy qua phố, đỡ thúng xôi đặt xuống vỉa hè, vét đưa anh em mỗi người một gói, rồi lần túi đưa nốt cho con mấy đồng bạc lẻ, nắn hai bả vai gầy của đứa con còn chưa vỡ giọng, dặn nói với mẹ đưa em về quê ngay. Rồi ông đi. Không bao giờ về lại. Chưa bao giờ Ngân thấu hết những âm vang trong tiếng gọi đã giục ông đi ngày ấy, dẫu vợ yếu và con dại còn vướng lại giữa thành phố sắp bỏ ngỏ. Người vệ quốc trong đoàn quân chân đất quần nâu đó khi còn làm lính thợ đã một lần tưởng phải xuống tàu, qua Pháp. Nếu ông đi? Thì biết đâu ông chẳng đã sống một cuộc đời tranh đấu âm thầm và quyết liệt như người lính thợ năm xưa, người cộng sản không hợp thời vừa gửi vào gió Paris hơi thở chót. Rất nhiều năm sau này, rời nơi sơ tán trở lại trường xưa, bao nhiêu chiều Ngân đã cắp sách đi lại con đường xưa của bố và ông, bao nhiêu chiều Ngân đã dừng lại ở cổng nhà máy ấy, cúi nhìn những tấm đá xanh vạm vỡ và bóng lên như nước ở quãng phố ấy, cố gắng tưởng tượng người ông chưa bao giờ biết mặt phong phanh trong bộ áo quần nâu, cố gắng tưởng tượng Hà Nội mùa đông xưa rạo rực bước chân âm thầm quyết liệt của những người dân một niềm quyết tử. Cho Tổ quốc quyết sinh. Ông mất, không bao giờ tìm thấy mộ. Ngày cải cách ruộng đất, cả nhà dân Hà Nội tản cư không ruộng không vườn nhưng vẫn lao đao vì lời vu dữ, rằng ông đi lính cho Pháp, rằng ông là việt gian bị ám sát ở thành. Bà, gồng tấm thân gầy yếu cho đàn con đang vừa phẫn uất vừa hoang mang hãi hùng nương vào, nhất quyết đòi lại cho chồng một lời chứng đã chết vì Tổ quốc. Lời chứng ấy, bao nhiêu năm sau mới tới với cả nhà, qua tấm bằng Tổ quốc ghi công, mà trong đó tên ông bị viết sai. Bà, rằm tháng bảy, thở một hơi dài: 'Không sao cả. Nếu chỉ cầu sống, ông đã không đi kháng chiến. Vậy có sống lại, chắc ông cũng chả đòi gì. Chỉ tội cho ông, chết chả biết ngày nào mà làm giỗ giờ phải về cùng ma đói'. Rồi bà khóc. Rằm tháng bảy năm nào cũng khóc. Suốt nửa thế kỷ. Từ thuở ngoài ba mươi. Cho tới ngày xuôi tay.

 Ngân tin lời bà. Nhưng Ngân đã bao lần tự hỏi ông đã nghĩ gì khi ông bị thương nặng rồi nằm lại vĩnh viễn ở góc rừng ấy, ở tuổi bốn mươi, như chồng Ngân bây giờ. Ông có nhớ một thành phố mà ở đó ông đã lớn lên, đã lấy vợ sinh con, đã sống một kiếp âm thầm nhưng bình an cùng với nó và đã đột nhiên hiểu ra rằng nó có thể thuộc về mình? Ông có nhớ chăng buổi lên đường theo tiếng gọi của sông núi? Ông có nghĩ tới một làng quê đang bao bọc và rẫy bỏ vợ con mình? Ông có nghĩ tới một cuộc sống khác ông mong mỏi cho con mình? Và ông có biết...

 
...Và ông lão vừa khuất bóng ở Paris? Với ông, cái gì là hình ảnh cuối về cuộc đời đã qua hiện lại trong trí phút tàn hơi? Những năm dài sống âm thầm ở Paris sau những buổi dấn thân? Hay chính là những ngày trẻ trai tranh đấu? Gương mặt đồng chí một đời? Vợ và con? Con đường xưa về làng xưa và mờ nhân ảnh bao người ruột thịt đã chết đói nửa thế kỉ trước mà ông đã từng khóc với Ngân là ông rất khó hình dung lại?

  Ngân đã nhắc mình đừng nhớ nữa, đừng nhớ nỗi bùi ngùi ấy nữa. Nhưng không thể. Không thể nào xóa nổi hình ảnh ông lão đồng hương ngồi trong bóng sáng Paris, giữa căn hộ ở tít cao một ngôi nhà lớn. Không thể xóa nổi hình dung dấu bàn tay đứa con hai tuổi của chị để lại trên lớp bụi quanh ông lúc lẫm chẫm bước trong phòng. Ông đã ngồi như thế bao lâu rồi, đã cô độc cùng trí nhớ của mình, dẫu có bao người lao xao vào ra nơi đó. Mỗi bình minh. Mỗi ban trưa. Mỗi hoàng hôn. Mỗi đêm dài khó ngủ. Ngôi nhà chon von như một ngọn núi mà ông không thể nào tự lần xuống được nữa, để đến với ngoài kia hừng hực vô tư lự Paris. Đêm. Núi. Mưa. Nỗi sầu cố quốc. Bao nhiêu lần ông đã sống cảm giác ấy trong cuộc đời dằng dặc biến cố của mình?

  'Vẫn biết chết rồi là hết chuyện - Chín châu chưa chút được sum vầy - Ngày nào thu lại miền trung thổ - Cúng bố đừng quên khấn bố hay...' (*)

  ...Có một nỗi sầu biên tái như thế rầm rì vọng lại từ xưa, xưa lắm, xa, xa lắm. Vì Tổ quốc không còn. Hiểu được! Ông, thế kỉ này, cũng một niềm xứ sở. Biết khấn ông như thế nào, nếu có thể thắp cho ông một nén hương. Ngân chạnh lòng. Tàn tro một nắm...

Vẫn biết chết rồi là hết chuyện! Mà sao...

  Chú thích:

*. Thơ  Sầm Tham (Trung quốc)

    Trích Gió tự thời khuất mặt

    Lê Minh Hà