Dòng sông tật nguyền
l - Bây giờ đang là cuối đông, những
trận gió mùa tràn về
dứt từng chiếc lá cuối cùng trên cây bàng già nua bao năm đứng trân
trân chịu
trận bên bờ sông. Cây bàng có từ bao giờ tôi cũng không biết, nhưng
quanh năm
suốt tháng, mỗi khi từ đồng về, người ta lại đem bầy trâu buộc vào mấy
cái rễ
trót mọc lồi lên trên mặt đất.
Chỗ đất buộc trâu lúc nào cũng nham
nhở, nhầy nhụa, lở loét,
khai và khăn khẳn mùi phân. Những ngày nắng ráo còn đỡ chứ phải ngày
mưa không
một ai dám đặt chân vào, đất ở đấy sủi bọt lục bục như lỗ trạch lòng
mương
nước. Từ những vũng trâu đằm, mùi khắm, khai, thối, bốc lên theo gió
loang xa
cả một vùng sông nước. Rồi nước từ những vũng trâu đằm ấy chảy xuống
sông, hòa
vào nước mặc người đôi bờ hì hụi gánh về đổ bể lấy nước ăn. Những ngày
như thế,
cha thường bắt tôi chèo thuyền ngược lên hướng thượng nguồn mới cho nổi
lửa nấu
cơm.
Mùa hè, từ mờ sáng cho đến nửa đêm, lũ
trẻ trâu tóc cháy đỏ
hoe râu ngô, người ngập ngụa mùi bùn tanh nồng trèo đầu cưỡi cổ, vặt lá
bẻ hoa,
lần theo mấy cái cành đua ra mặt nước, hò nhau nhảy xuống. Đôi khi lũ
trẻ nhoai
người hái bàng chín, gặp phải cành yếu, rơi từ trên cao xuống, máu mũi,
máu
miệng chảy đỏ ngoe đỏ ngoét theo nước lẫn vào màu da đen cháy. Đối diện
phía
bên kia bờ là bến nhà tôi, nơi cha tôi thường neo thuyền lại nghỉ ngơi
sau mỗi
lần đi xa về.
Nói là bến nhà tôi cho oai chứ thực ra
chả của ai cả, chẳng
qua là thuyền nhà tôi thường về đậu ở khúc sông này, lâu ngày thành
quen rồi tiện
mồm cứ gọi thế cho dễ nhớ, dễ hình dung. Tôi không thể nào nhớ nổi tôi
đã đi
bao nhiêu con sông trong vùng đồng đất mà người ta cứ cho đó là vựa
thóc của
đồng bằng sông Hồng. Ai muốn gọi thế nào cũng được vì nó chẳng ảnh
hưởng gì đến
cuộc sống nhà tôi.
Bản thân tôi cũng không có nơi sinh
chứ nói gì chỗ cắm sào
là của mình. Biết mình không có nhưng ai hỏi vẫn phải nói có. Nhiều khi
tôi
nghĩ, khổ nhất ở đời này rõ ràng không nhưng cứ tự nhận mình có, nếu
không nó
thèn thẹn, xâu xấu thế nào ấy. Những chuyện như thế, cha tôi nghe thấy,
nếu ông
đang ngồi thường nhấc đít lấy tay phủi phủi mông kiểu người ta phủi
bụi, còn
đang đứng, thế nào ông cũng chạy ra mui thuyền vạch quần đái rồi khạc
nhổ quá
bằng có cục đờm to đút nút lấy cổ.
Năm nay trời lạnh cá cũng không chịu
đi ăn đêm, và khi người
khôn của lại hiếm. Cứ như hiện nay, các loại cá sông có đẻ hằng đêm thì
cũng
khó mà duy trì được giống. Để đánh bắt con người không từ bỏ một thủ
đoạn hay
phương pháp nào. Trước kia, những gia đình sống bằng nghề sông nước tuy
không
ai quy định nhưng mọi người đều ngầm thống nhất các loại vó lưới dày
mau không
dùng vì còn để cá lớn. Nhưng nay thì khác, vó lưới dùng loại dày, rồi
kích
điện, đánh mìn, hóa chất. Cộng thêm vào tệ đánh bắt không cần biết hậu
quả về
sau, thuốc sâu từ đồng ruộng chảy xuống, nước thải từ các nhà máy công
nghiệp
chảy vào, từ các khu dân cư vô tư đổ đến. Một thời sông trong trẻo, thơ
mộng
cho những ai yêu văn thơ tha hồ sáng tác, còn nay sông một màu đùng đục
xam xám
đen tang tóc. Hầm cá trong lòng thuyền nhà tôi ngày xưa lúc nào cũng
nhung
nhúc, chiếc sạp lát sàn đêm đêm cá quẫy nước bắn ướt đầm phải lên mui
mới ngủ
được, còn bay giờ hôm nào nhiều chục con, ngày ít hai ba con.
Ngày ấy, khi cá còn dễ đánh bắt, kho
nấu cá bao giờ cha tôi
cũng chặt vứt bỏ khúc đầu, đuôi chỉ lấy khúc giữa. Ông thường bảo tôi
rằng, ở
đời ăn uống từ đầu chí cuối mất cả phần con cháu, đồ phàm phu tục tử,
không
đáng sống. Mặc ông nói thế nào tôi cũng kệ, thực ra tôi nghĩ chẳng qua
là do
ông làm nghề chài lưới, kiếm con cá con tôm không vất vả khó khăn như
những
người khác nên thế thôi. Mà lạ lắm, tất cả các món ăn chế biến từ cá
ông thích
nhất là món kho mể. Món kho mể chẳng có gì cầu kỳ phức tạp, người làm
cá chỉ
mỗi việc mổ cá, để nguyên cả máu rồi cho vào nồi đất, đổ nước xăm xắp
cho lên
bếp đun, bao giờ cá chín nhừ là bắc ra ăn, múc cả khúc cá với nước cá
kho còn
nóng nghi ngút khói. Nước kho cá chan cơm ăn còn ngon gấp mấy lần nước
mắm đầu
nong đầu nia, nước mắm cất. Thích thế nhưng dẫu có ngon đến mấy, ông
chỉ ăn một
bữa còn lại đem đổ hết xuống sông, không bao giờ để lại ăn bữa thứ hai.
Có một
lần tôi thấy cá ngon, tiếc của giời đem cất đi tối lấy ra. Vừa nhìn
thấy, ông
chẳng nói chẳng rằng quăng luôn cả nồi cá xuống sông, xong chửi, bảo
tôi là đồ
khốn, giống hệt tính cái con mẹ đẻ ra tôi. Những gì ông không thích,
những khi
ông bực, ông lại chửi tôi như thế. Lúc ấy tôi rất sợ, nghe giọng ông
chửi,
tiếng rít qua kẽ răng, người tôi cứ co rúm lại, chân tay tự nhiên run
bần bật,
không thể nhúc nhắc, chẳng khác gì người ta đem dây trói chân trói tay
tôi lại.
Tối qua trước khi đi ngủ cha tôi nói
như giao hẹn:
- Sáng mai nhổ neo, liều liệu tính
toán cơm nước mà đi sớm -
Ông lầm bầm - Cứ thế này rồi không có cả cứt mà đổ vào miệng.
Chả cần biết mọi người có nghe thủng
việc không, ông lấy vò
rượu, đổ đầy bát tô, uống cạn một hơi rồi chui vào khoang thuyền trải
chiếu nằm
ngủ.
Nghe ông nói, tôi hãi im thin thít làm
theo, không đám ho he
gì. Cô Hến cũng thế, cun cút dọn dẹp các thứ cho vào cái hòm đựng đồ
bằng sắt
tây đã hoen gỉ. Biết tính ông chỉ nói một lần, không nhắc lại, sáng nay
mọi
người dậy sớm để chuyển thuyền lên khúc sông trên.
Tôi quên không nói, nhà tôi hiện tại
có ba người. Tôi, cha
tôi và người đàn bà cha nhặt ở bến Trầm, còn người đàn bà sinh ra tôi
đã bỏ
dòng sông cùng những chuyến phiêu bạt gió sương đi đâu không rõ. Việc
bà bỏ tôi
và cha ra đi có một phần lỗi thuộc về tôi, còn cha tôi, từ ngày bà bỏ
đi, cứ
uống rượu là ông chửi mặc dù không hề nhắc đến tên ai nhưng tôi biết,
người ông
nguyền rủa, thâm thù, cay đắng không ai khác chính là bà, người được
ông nhặt
lên từ mó bỏ mồi cá ngày nào. Cũng sau ngày bà bỏ đi, đến bến nào, nghỉ
ở khúc
nào, miễn là nơi chiếc thuyền có thể cắm sào, gặp người đàn bà nào có
thể nhặt
được là ông nhặt. Rồi như con thuyền, cắm sào một chốc một lát nhổ neo
đi,
người đàn bà ông nhặt ấy sau một vài ngày cũng bị ông vứt trả lại bờ
không
thương tiếc.
Mờ sáng tôi dậy thu xếp chài đem buộc
lên cái cọc cắm ở đầu
thuyền như cây nêu để phơi, công việc này trước đây là của mẹ tôi, còn
bây giờ,
tất cả những người đàn bà kia, những người ông nhặt sau bà đều không
được làm.
Khi tôi lụi cụi phơi chài, cô Hến hì hụi nhóm lửa phía cuối thuyền thổi
cơn.
Tôi đang đứng trên mui giũ chài thì thấy loảng xoảng rồi tùm tũm xoong
nồi, rổ
rá và cả chiếc kiềng gang ba chân theo nhau rơi xuống sông. Đuổi theo
tiếng đồ
vật rơi là tiếng chửi của cha tôi, tiếng chửi nhằm nào cô Hến chứ không
vô chủ
như mọi lần, lời chửi gay gắt và độc địa.
- Đồ ngu, nhóm bếp thế thằng bố mày
ngủ được à. Không biết
làm sao gì hơn việc cong tưỡn cái mông lên hay sao?
Khốn nạn. Sự khốn nạn đến tận cùng,
nhưng người đàn bà cha
tôi nhặt trên bến sông Trầm vẫn không hé răng nói lấy một lời, cô nhẫn
nhịn
chịu đựng, nem nép chui qua khoang nhà thuyền ra phía đầu mũi ngồi lặng
lẽ lấy
vạt áo chấm chấm mắt. Khổ quá, ở thuyền sáng mai ra đàn bà con gái
không bao
giờ được ra mũi thuyền ngồi, vừa ăn chửi xong lại ra đấy không chừng vớ
cái đạp
lộn xuống sông bây giờ. Nghĩ thế tôi bỏ dỡ công việc len lén tụt xuống
kéo cô
lên mui ẩy về cuối thuyền trong khi cha tôi chui lại khoang trùm chăn
ngủ tiếp.
Cô Hến không biết rằng, khi ngủ, bao giờ bố tôi cũng cắm hai sào, một
phía mũi,
một ở cuối để phòng khi đêm trở gió thuyền không xoay ngang xoay dọc
làm mất
giác. Sáng ra, khi nấu cơm phải nhổ sào tháo dây phía cuối thuyền để
cho thuyền
ngược hướng gió thì khói mới không vào khoang.
Vì không biết nên cô Hến đã để khói
bay vào khoang, mà
khoang nhỏ thì có khác gì hun chuột. Bài học vỡ lòng đời thuyền không
xong chắc
không sớm thì chày cô Hến lại được cha tôi vứt lên bờ như những người
đàn bà
khác.
2 - Những người đàn bà đi qua cuộc đời
cha tôi đều là những
người ông nhặt được trên sông và trên bờ từ nhữmg chuyến đi kiếm ăn
lênh đênh
sông nước. Người đàn bà đầu tiên và cũng là người sinh ra tôi là người
ông nhặt
được từ một mó bỏ mồi cá.
Người làm nghề chài lưới trên sông
không phải ai cũng có
nghề như nhau mà thực ra mỗi người, mỗi vạn chài có một nghề riêng. Có
người cả
đời sông nước chỉ sống độc một nghề thả câu, có người buông lưới, có
người
quăng chài, có người đi te hay đóng đăng, đóng túi. Cũng như cha tôi,
cả đời
chỉ có một nghề đánh chài mò. Trong các nghề sông nước, nghề chài mò là
nghề
vất vả nhất.
Người làm nghề chài mò phải có sức
khỏe, khả năng lặn sâu,
lâu, chịu được sức ép của nước, ai không có sức khỏe làm nghề này rất
nguy hiểm
đến tính mạng. Đã có một vài người tưởng nghề chài mò dễ kiếm ăn lao
vào, hôm
trước hôm sau phải bỏ vì không chịu được. Độ sâu để đánh chài mò thường
phải từ
hai mét trở lên. Mỗi khi quăng chài, người đánh phải lặn xuống, dùng
chân dận
cho bốn xung quanh mép chân giềng chài ngập sâu vào bùn mà phải làm
nhanh nếu
không cá sẽ theo mép chân giềng chui ra ngoài. Người chịu được không
sao, người
nào yếu, khi làm xong việc đó, lúc nổi lên mặt nước ộc máu mồm máu mũi,
nếu ai
chảy máu tai coi như cầm chắc cái chết.
Trước đó, người đánh phải lặn xuống
sông lấy tay hoặc chân
gạt lớp bùn non, đào một cái hố sâu (gọi là mó) khoảng hai mươi đến ba
mươi
phân, rộng bằng cái thúng lồi bỏ mồi vào. Mồi để đánh thường làm bằng
cám rang,
trộn với thóc, phân người tươi, phân trâu bò và các loại xác giun, cào
cào châu
chấu. Sau khi đã trộn các loại đó với nhau, người la lại đem trộn với
bùn rắn
hoặc đất thật cho thịt nhuyễn rồi chia ra thành nhiều phần, mồi phần to
bằng
cái ấm chuyên pha trà bỏ xuống một mó. Ngày còn bé, mỗi khi cha tôi làm
mồi
thường bắt tôi phải ị vào cái vại sành để lấy phân trộn mồi. Hôm nào
không muốn
đi phải rặn đến đỏ cả mặt nổi gân nổi guốc. Những lần như thế ông
thường chửi
tôi là đồ toi cơm, vô tích sự rồi đuổi tôi ra và kéo quần ngồi luôn vào
đấy làm
công việc cung cấp nguồn nguyên liệu làm mồi. Mà cũng lạ, cái giống cá
chép
sông sao thích loại mồi có phân người tươi thế không biết. Mồi gì thì
mồi, có
làm thơm đến đâu mà không trộn phân tươi là không hấp dẫn được nó.
Năm ấy mùa đông như kéo dài hơn, rét
nhiều hơn, cá mú dường
như cũng ít hơn và con người sống cũng ít tốt hơn. Âëy là theo cha tôi
nói thế
chứ tôi lúc đó còn đang ở bờ tre gốc dứa nào chưa biết. Sau khi đã uống
cạn bát
nước mắm trước khi xuống nước, ông quăng chài, nhưng chả hiểu sao, đáng
lý phải
quăng chài bẩy, nghĩa là chài dài sải ba (bẩy thước bắc bộ, mỗi thước
bốn mươi
phân, chài bẩy chiều dài bằng hai mét tám) ông lại quăng chài chín. Vì
chài
chín quá dài, cá dễ lặn xuống bùn chui qua giềng ra ngoài nên ông quăng
chài
xong sực nhớ ra vội vàng xuống sông ngay. Sau khi lặn dận chân giềng
ông có cảm
giác không có cá, vì như mỗi lần, khi lặn dận chân giềng là thế nào
cũng chạm
cá sao ra. Giống ca chép, khi bị động thường tìm một chỗ bùn lõm để ép
mình vào
đó tránh. Đánh chài mò, quăng chài xong phải xuống dận chân giềng để cá
khỏi ra
ngoài và cũng là để cho cá rúc xuống chỗ chân vừa đi, chính chỗ đó đã
có các
túi lưới, cá vào đó rồi thì không thể nào ra được. Đấy cũng chính là
thói quen
chết người của bầy cá chép sông, cứ tưởng tránh được cái chết ai ngờ tự
chui
đầu vào chỗ cho người làm thịt.
Linh tính mách bảo thế nào, nếu như
mọi lần, sau khi lặn dận
chân giềng xong thường phải lên thuyền ngồi chờ mươi mười lăm phút, đợi
cho cá
rúc chân giềng mới xuống mò thì ông lại xuống mò ngay. Lặn mò hết cả
một vòng
chân giềng không thấy cá lao ra động chân giềng ông bèn lặn vào kiểm
tra mó
mồi. Và ông đã thấy người đàn bà sau này sinh ra tôi nằm cuộn tròn
trong mó.
Chẳng nghĩ ngợi gì, ông để chài đấy đưa bà lên bờ, dốc ngược hai chân
vào vai,
đầu chúc xuống đó chạy huỳnh huỵch mấy vòng.
Tuổi thơ của tôi là những ngày lênh
đênh sông nước, nay đây
mai đó, không có điểm dừng. Nơi cha tôi thả mồi và nhặt được bà từ mó
cá không
bao giờ ông cho thuyền về đó đậu. Đêm đêm ngày ngày tiếng cá quẫy lòng
thuyền
là niềm vui của gia đình, nhiều khi cái âm thanh tù túng, vây hãm của
bầy cá
trong khoang làm tôi toét miệng cười. Tiếng cười, nét mặt tôi khi đó
như thế
nào không rõ nhưng mỗi khi như thế tôi thường nhăn mặt có vẻ khó chịu.
Năm tôi
lên bảy tuổi, có một lần mẹ rắng với cha.
- Con nó năm nay đến tuổi đi học rồi
đấy, ông xem gửi con
vào đâu cho nó học kiếm cái chữ kẻo rồi lại vất vả cả đời như cha mẹ,
nó lại
oán trách sau này.
Vẫn giữ nguyên nét mặt đầy khó chịu,
cha bảo, giọng rít qua
kẽ răng.
- Thằng bố nó không học có chết đâu,
vẫn sống nhăn răng ra
đấy thôi. Học vào rồi mà nứt mắt tý tởn. Không ăn mới chết chứ không có
chữ
chưa thấy ai chết bao giờ.
Nghe ông nói, nét mặt mẹ đang tươi như
hoa bỗng xịu xuống
chẳng khác gì gặp trận gió quét, rũ xuống, bã bời, tơ tướp. Không phải
đi học
tôi càng thích. Tôi nhảy cẫng lên, để nguyên cả quần áo tôi lao rầm
xuống nước,
lặn một hơi bơi ra rõ xa mới ngoi đầu lên. Túm tóc đuôi gà bết nước
cuốn chặt
lấy cổ. Mẹ tôi thấy thế giấu mặt vào sau tay áo.
Cuộc sống nhà tôi cứ thế, đều đặn diễn
ra. Sáng mẹ lấy vợt
xúc cá dưới khoang thuyền mang đi chợ bán đong gạo, mua rau dưa, dầu
đèn và các
thứ linh tinh khác. Chiều cha làm mồi rồi chờ chập choạng mang ra bỏ
mó, đợi
khi trăng lên hay gió nổi hây hẩy, mẹ chèo thuyền cha đứng đầu mũi nhẹ
nhàng
lướt đến chỗ chiều cha bỏ mồi. Bao giờ mũi thuyền cách mó bỏ mồi chừng
sải tay,
mẹ dựng mái chèo cho thuyền đứng lại. Cha trên đầu mũi, hơi xoay, vặn
người về
sau rồi cũng rất điệu nghệ, ông tung chiếc chài lên nở bồng trên mặt
sóng,
đường chân giềng đã được kẹp chì bung đều vòng tròn, chụp xuống chỗ đã
bỏ mồi.
Tiếng chân giềng chạm mặt nước chỉ nghe cái rụp. Chỉ bằng một cú quăng
ấy lũ cá
trót dại vào ăn trong mó khó lòng thoát khỏi bàn tay của cha. Trong khi
chân
giềng chìm dần từ mặt nước xuống chạm lớp bùn dưới đáy, nếu là mùa
đông, cha
bưng bát nước mắm đặc sánh uống một hơi rồi nhẹ nhàng như con rái cá
ông lao
xuống sông. Bao giờ đường chân giềng chắc chắn đã được giấu sâu trong
bùn khi
đó mới thấy ông ngoi lên mặt nước.
Mỗi lần quăng như thế cha thường phải
lặn lên lặn xuống từ
năm đến sáu lần. Một đêm, cha thường bỏ ít mười mó, hôm nào thấy có
nhiều tăm
ông làm mười bốn mười lăm mó. Những hôm như thế, tiếng cá tranh phần
nước lấp
sấp trong lòng khoang thuyền lục cục cả đêm. Và tôi phải lên trên mui
ngủ, còn
cha tôi sẽ lên trên mũi, mẹ tôi, bà phải xuống ngủ phía đuôi, nơi cạnh
bếp để
sáng mai cơm nước sớm cho cha và chuẩn bị đi chợ. Chẳng biết có phải vì
làm
nghề chài mò lặn nhiều hay không mà ngực cha tôi vồng lên, những thớ
thịt căng
đầy cuồn cuộn những cơ là cơ. Vồng ngực căng đầy của cha tôi theo năm
tháng làm
nghề chài mò lép dần, lép dần không gì níu giữ được.
3 - Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn
ước giá không có cái
buổi chiều khốn khó đó thì đã không mất mẹ, cuộc sống của cha con tôi
cũng có
khi vẫn chung niềm vui ăm ắp tiếng cá quẫy hằng đêm trong lòng khoang
thuyền
rộn rạng. Mẹ tôi sáng sáng vẫn te tái cơm cơm nước nước lo cho cha và
tôi cùng
lời nhắc nhở trước khi cắp chiếc rổ lên bờ đi chợ. Rằng hai cha con ở
nhà chờ
bà chợ về cơm nước, đừng sợ muộn mà tự nấu nướng lấy rồi cả nhà lại
phải ăn cơm
sống. Và tôi, từ lúc mẹ bước lên bờ sẽ leo lên mui ngồi ngóng bà chợ về
mua cho
bơ bò hạt dưa người ta nhuộm phẩm nhấm nhắt cho đỏ môi. Còn cha, bà sẽ
mua cho
lạng thuốc lào. Nhận gói thuốc từ tay bà, ông vân vê, vuốt vuốt từng
sợi, viên
viên hạt bi đặt nhẹ nhàng vào chiếc nõ đã được lấy mũi dao nhọn khoét,
gọt, gạt
những bớn khói thuốc bám đen xung quanh, tay gẩy gẩy chiếc đóm ruột tre
ngâm
phơi khô, hơ hơ trên miệng điếu rồi hút một hơi thật sâu, tiếng nõ nổ
tanh
tách. Đoạn, ông ngửa cổ, chụm môi nhẹ nhàng nhả từng sợi khói phơ phất
bay mỏng
mảnh như dây chỉ trắng lên trời. Cha quay ra khen: Hôm nay bà nó mua
thuốc lào
của ai mà hút có hậu thế. Nói có khi chưa xong câu, ông đã nằm quay ra
sàn
thuyền lơ mơ nghĩ những gỉ những gì không biết và bật cười. Mẹ nghe thế
nguýt
cha một cái rõ dài, tủm tỉm cười theo. Tôi thuộc lòng chẳng hiểu đầu
đuôi thế
nào cũng lăn xuống sàn, giơ hai chân lên trời giẫy giẫy cười hùa theo.
Đêm ấy
không có gió, thuyền nhà tôi cũng bồng bềnh, dập dềnh nô giỡn với sóng,
trăng
và nước.
Ấy là ước giá thế thôi chứ cái cảnh đó
bây giờ nó đã quá xa
với tôi rồi. Tôi cũng không còn nhớ là đã phải xa nó năm năm hay sáu,
bẩy năm
gì nữa, xa như tiếng cá quẫy lòng khoang thuyền của cha con tôi bây giờ
vậy.
Nhiều hôm thấy tôi ngồi bần thần ông chửi.
- Nhớ nhớ nhung nhung cái gì. Cái mặt
mày rồi lại như con đẻ
mẹ mày, quân ăn cháo đá bát. Loại người gì sống không bằng loài chó. Mà
chó nó
cũng không bao giờ bỏ con như cái con mẹ mày đâu. Ngồi đấy mà thuỗn cái
mặt rặn
ỉa ra cho ngứa mắt.
Ông chửi thế tôi phải chịu chứ thực
lòng, không phải tôi
không có lúc giận mẹ. Cái ngày đầu tiên tôi có tháng, thấy máu tự nhiên
chảy ra
tôi lo đến thắt gan thắt ruột. Tôi học cách người ta cầm máu, vơ không
biết bao
nhiêu là lá, nhai rồi đắp đến mỏi cả mồm, căng cả bụng nước mà nó vẫn
cứ chảy.
Bực mình, tôi phải lấy cả một vạt áo cuộn nút lại mới được. Tháng đầu
tiên của
người con gái tôi phải mất cả cái áo cánh trắng chĩ chụm chắt bóp mãi
mới có
được. Cũng may, sau đó hơn tuần cha tôi nhặt được một người đàn bà ở
trên bến
Sủi, bà đã bảo cho tôi biết. Người đàn bà này cũng chỉ kịp bảo cho tôi
biết
cách làm thì cha tôi đã lại vứt trả bà lại bờ. Giá tôi có mẹ thì làm
sao tôi
phải
mất oan cái áo như thế, làm sao phải
để một người đàn bà lạ
hoắc dạy bảo tôi chuyện đó. Những lần như thế tôi giận mẹ lắm, chỉ có
điều, tôi
giấu cái giận vào trong lòng. Giận thì giận nhưng tôi vẫn nhớ bà nhiều
lắm.
Giận mẹ một tôi căm thằng chủ cai thầu thợ đấu gấp mười, thậm chí cả
trăm lần. Chính
nó đã làm tôi mất mẹ và cũng chẳng biết bây giờ mẹ tôi đang phiêu bạt
nơi nào.
Sau lần ấy nó đã giũ áo bỏ đi để mặc mẹ tôi gánh chịu. Cũng chính nó
làm tôi
bây giờ nhìn mặt bất cứ thằng đàn ông nào trên đời cũng thấy gian gian,
đểu
đểu, không thể tin được. Tôi luôn cảm thấy sự khốn nạn ẩn chứa sau vẻ
mỹ miều,
ngon ngọt, chả biết có đúng thế không.
Năm ấy khúc sông Ghềnh sao nhiều cá
đến thế, cha tôi đánh cả
tháng mất tăm vẫn sủi lên như bong bóng mưa. Không mấy khi gặp được nơi
như thế
cha quyết định dừng thuyền ở đấy chứ không như những lần khác, chỗ nào
nhiều
nhất cha cũng chỉ cắm sào hai đến ba hôm là cùng rồi lại nhổ neo đưa
thuyền
sang khúc khác. Theo ông, đánh bắt mãi một chỗ cá chẳng kịp lớn rồi ra
chẳng
còn cửa mà làm ăn. Sống nhờ cá mà không biết cho con cá kịp lớn, kịp
sinh đàn
dài lũ thì cũng là quân vô ơn bạc nghĩa. Những chỗ đã đánh bao giờ cha
tôi cũng
phải đợi hai ba năm sau mới quay lại. Có nhiều khúc sông, khi thuyền
nhà tôi
quay lại tôi còn không nhận ra nơi ấy đã từng neo đậu vì cảnh vật thay
đổi quá
nhiều, mặc dù sự thay đổi thường là chán đi chứ chẳng mấy chỗ đẹp lên.
Chỗ thì
làng mạc tiêu điều xơ xác, cây cối chẳng còn xanh tốt như ngày đến. Chỗ
thì bãi
lở vào sâu nhôm nhoam, ghẻ lở. Nơi hàng chục chiếc tàu hút cát hùng hục
đào bới,
tiếng máy nổ rồi khói, váng dầu xả ra đen đặc cả khúc sông. Cái sự mưu
sinh của
con người cũng ghê gớm, tham lam vô cùng, chẳng biết thế nào cho đủ.
Gặp những
cảnh như thế, cha tôi thế nào cũng chửi đổng vài câu rồi mới cho chèo
thuyền đi
khúc sông khác.
Cũng vì nhiều cá cha tôi cho thuyền
neo lại lâu nên việc
sáng sáng mẹ tôi đi chợ cũng thành thói quen của nhiều người gần bến.
Có một
lần mẹ cho tôi theo đi chợ. Từ bến đậu thuyền nhà tôi đến chợ cứ theo
con đường
nhựa chả biết làm từ bao giờ nhưng đến nay nó đã trốc mặt, những hố là
hố, có
nhiều cái to hơn cả mó bỏ mồi của cha tôi. Hai bên đường, dọc theo con
ngòi,
người ta thi nhau đẩy thuyền, những chiếc thuyền nan đầy đất quật thành
từng ô
vuông vức lấp mấy đoạn ngòi. Mẹ bảo tôi người trên bờ đất chật người
đông nên
không còn đất để ở phải lấy đất dưới lòng các con ngòi rồi quật cao làm
nền
nhà. Sống mỗi người mỗi nhà nhưng chết phải chung nghĩa địa, cái lý của
người
trên bờ là thế. Mẹ thở dài.
- Bao giờ nhà ta mới có tấc đất cắm
dùi. Sống không có đất
ở, chết không có đất chôn.
Nghe mẹ than thở nhưng thực lòng lúc
ấy tôi chả hiểu gì chỉ
nghĩ nhà tôi cần gì đất làm nhà. Cả nhà sống trên thuyền, ăn nước sông,
uống
nước sông, sống nhờ sông. Khúc sông này còn cá thì ở, hết cá thì đi,
nhổ con
sào đẩy một cái là đến chỗ khác. Ở nhà thuyền, mùa hè thì mát, mùa đông
thì ấm,
con cá con tôm lúc nào cũng tươi, nhẩy tanh tách chả sướng gấp mấy lần
trên bờ
phải chen nhúc chật chội hay sao. Mẹ tôi ước làm gì cho khổ. Nhìn những
người
lặn ngụp, ngâm mình dưới nước vác từng tảng đất vất lên thuyền rồi lại
phải
quật cao thành gò thành ụ để làm nhà sung sướng nỗi gì. Mẹ bảo tôi
những người
ấy là thợ làm đấu. Những người này ăn khỏe lắm, vì thế mới có câu ăn
đấu làm
khoán. Cả ngày ngâm mình dưới nước nên lúc nào cũng đói. Chả trách cha
tôi mỗi
bữa ăn bẩy tám bát vẫn kêu đói. Tôi len lén nhìn những người thợ đấu,
người nào
người nấy vâm váp, bắp tay, cơ ngực cuồn cuộn như dây chão, dây lèo
giằng chèo,
kéo cột dựng buồm.
Khi hai mẹ con tôi đi qua chiếc lều
bạt dựng cạnh đường, nơi
có chiếc xe máy mầu đỏ dựng bên cạnh thì có ai đó gọi:
- Này cô chài, có cá tươi bán cho mấy
mớ.
Nghe tiếng gọi, mẹ tôi tong tả đến
trước cửa lều, đặt rổ cá
xuống đon đả:
- Hôm nay em có mấy mớ cá còn tươi
lắm. Mấy anh xem mua cả
giúp em cho gọn.
Từ trong lều đi ra là một người đàn
ông cao ráo, khuôn mặt
vuông vức, hàng râu mờ mờ xanh bao kín cả hai bên má xuống cằm. Đi sau
anh ta
là ba bốn người nữa. Một người trong đám nghe mẹ tôi nói thế cười, sán
đến,
ngồi xuống bên cạnh.
- Cá của em thì tươi rồi nhưng có lạ
không em?
Mấy người đi theo cười hô hố, nhe cả
hàm răng to như bàn
cuốc, đen thui đít nồi. Mẹ tôi đỏ mặt xấu hổ. Người đàn ông cao ráo có
khuôn
mặt vuông vức lừ mắt, mấy người kia vội im bặt.
- Cô đừng giận, họ hay đùa tếu táo thế
thôi. Hôm nay tôi có
nhiều thợ làm. Cô lấy bao nhiêu để tôi mua cả. Cá nhà cô là cá sông,
mấy hôm
trước tôi mua của cô, kho mặn mà ai ăn cũng khen ngon, thịt thơm lắm.
Giọng người đàn ông nhẹ nhàng, thủ thỉ
nghe ấm áp:
- Người xinh thì cá cũng ngon phải
không cô. Hôm nào có cá
cứ mang đến đây tôi mua cả cho không phải đi chợ bán nữa, vất vả người
bán mà
cá cũng mất tươi.
Mẹ tôi lại đỏ mặt, lấy tay kéo vành
nón giấu khuôn mặt đang
hồng lên sau lời khen. Hôm ấy hai mẹ con tôi đi chợ không phải lo bán
cá nữa
nên có thời gian cho tôi đi chơi, mua sắm các thứ. Mẹ mua cho cha và
tôi mỗi
người một bộ quần áo mới. Vui quá tí nữa thì hai mẹ con tôi quên đến
giờ về nấu
cơm trưa. Tôi vui ra mặt, nhảy chân sáo suốt đường về. Còn mẹ, tôi
đoán, chắc
mẹ cũng vui nên thỉnh thoảng cười tủm, hai má hồng hồng dưới vành nón.
Một
quãng mẹ lại gỡ nón nhìn nhanh vào chiếc gương nho nhỏ mà người ta khéo
léo gài
phía trong áp chóp.
Thuyền nhà tôi cắm sào ở lại khúc sông
này đã lâu mà nhìn
xuống nước vẫn thấy tăm cá nổi lên. Sáng ra, cha bảo mẹ mang hết cá ở
khoang
chứa đi bán, không cần để dành làm gì, đánh tối nay nữa rồi đi. Mẹ tôi
bảo ông
đang đánh được tại sao lại đi vội thế. Ông lừ mắt nhìn mẹ giọng chì
chiết:
- Cá đánh lắm cũng hết, người ở lâu dễ
hư. Ma quỷ yêu quái
chẳng qua là ở mãi một chỗ mà thành. Mèo già hóa tinh thành cáo, chó dữ
nuôi
lâu phát rồ. Đi hay ở cô không phải nói nhiều, tôi khắc biết.
Nói đoạn, ông chui vào khoang lấy bộ
quần áo mẹ mua cho hôm
có tôi đi cùng mặc vào. Sau khi đã lên bờ ông quay lại nói vọng xuống
thông báo
ông đi ăn cưới ở vạn chài khúc sông trên trưa nay không về. Ông còn dặn
ở nhà
hai mẹ con chuẩn bị sẵn mồi chờ ông về để bỏ mó. Mẹ bắt hết chỗ cá đi
chợ, còn
tôi, mấy đứa trẻ trâu xóm bãi rủ đánh trận giả rồi chơi trò trốn tìm.
Tôi lật
mấy tấm ván đầu mũi thuyền chui nấp vào trong đó, xong lắp lại như cũ.
Tôi nấp
ở đây tài thánh cũng không ai có thể tìm được. Nằm cuộn trong khoang
mũi trốn,
tụi trẻ xóm bãi rà đi rà lại tìm mấy lần không thấy chúng bỏ đi nhưng
tôi nghĩ
chúng nó giả vờ để lừa tôi ra bắt nên cứ yên trí nằm trong đó mặc cho
chúng nó
đi tìm. Đánh trận giả đã thấm mệt bây giờ nằm trốn trong khoang mũi nên
tôi lúc
đầu chỉ nghĩ lim dim một chút cho đỡ mệt ai ngờ ngủ béng đi mất. Khi
tôi đang
ngủ thì thuyền tròng thành làm đầu tôi đập vào khung xương gá ván tỉnh
giấc.
Tôi chưa kịp lật ván chui ra thì đã nghe thấy tiếng thở dốc của mẹ và
giọng nói
nhẹ, ấm rất quen thuộc, rằng mẹ làm ông ta mệt quá. Tôi hé mắt qua khe
ván,
chiếc xe máy mầu đỏ đang dựng bên vệ đê lối xuống bến. Tôi cứ nằm trong
khoang
mũi chờ cho mẹ mà người đàn ông bước đến chỗ xe máy tôi mới lật ván
chui ra,
ngồi bệt xuống mặt sàn. Khi mẹ trở lại thuyền thấy tôi ngồi sẵn đó, bà
ngồi
xuống cạnh hỏi có phải vừa ở trong khoang mũi không. Tôi không trả lời
mà tự
nhiên òa lên khóc, gạt bà ngồi la xa.
Câu chuyện vỡ lở, tôi tưởng cha sẽ
đánh cho mẹ một trận hay
phải gầm lên chửi mắng. Nhưng không, cha bắt mẹ đến xin người đàn ông
ấy một
đồng tiền mà không cần biết tiền to hay nhỏ. Sau khi mẹ mang về đưa
cha, ông
vuốt cho phẳng phiu rồi cất kỹ vào một chỗ. Cũng từ hôm ấy, ông giặt
chài phơi
phóng thật khô cho vào chiếc hòm sắt khoá lại, không làm nghề chài mò
nữa. Đến
bữa, trước khi cả nhà ăn cơm, ông lại lấy tờ tiền ấy ra, đặt lên mâm và
bảo
tôi, giọng rất nhẹ nhàng nhưng tôi vẫn nhận ra tiếng gió rít nhẹ trong
kẽ chân
răng:
- Con cứ ăn đi. Từ nay nhà ta không ai
phải làm gì nữa, đã
có mẹ con đi làm kiếm tiền về nuôi bố con mình rồi.
Một tuần ròng rã, tôi nghe mẹ van xin
cha nhưng ông vẫn tịnh
như không nghe thấy gì. Mỗi bữa ăn là nước mắt mẹ lưng tròng chan cơm.
Rồi một
sáng, mẹ cắp rổ đi chợ và không bao giờ trở lại nữa. Đến tối, cha không
thấy mẹ
quay về, ông chèo thuyền đúng ba ngày ba đêm đưa tôi sang khúc sông
khác. Ông
làm nghề chài mò trở lại nhưng cũng từ đấy ông đổi tính đổi nết, hay
uống rượu
và thường đưa những người đàn bà lên thuyền, rồi sau đó một hai hôm ông
vứt trả
lại bờ. Cá đánh được ông không cho mang lên chợ bán, ai muốn mua xuống
bến nói
cần con to hay nhỏ, nặng bao nhiêu là ông chui vào khoang, lật tấm ván
lát
thuyền bắt mang lên.
Bây giờ ngồi nhớ lại, tôi vẫn thấy căm
thù mấy đứa trẻ trâu
xóm bãi đã rủ tôi chơi trò trốn tìm. Tôi muốn đập nát cái khoang mũi để
cho tôi
nằm trốn trong đó. Tôi hận với chính tôi đang chơi lại lăn ra ngủ và
tại sao
lại tỉnh giấc vào lúc ấy. Liệu hôm đó tôi cứ lang thang chơi với lũ trẻ
trâu
xóm bãi bắt cào cào châu chấu hay trò ném pháo đất thì mẹ có phải bỏ
tôi đi như
thế không? Và nữa, nếu cha không căn vặn tôi vì sao lại khóc, bỏ cơm
không chịu
ăn để tôi phải nói cho cha biết? Nếu tôi biết nói dối? Nếu cha không
ném đồng
tiền năm nghìn xanh lét xuống mâm trước mỗi bữa ăn cùng câu nói mười
lần như
một thì mẹ có ở lại với cha và tôi không? Mẹ bỏ tôi mà đi có một phần
do lỗi
của tôi? Mẹ ơi, giờ này mẹ đang phiêu bạt nơi nào. Thương mẹ, nhớ nhẹ,
tôi chỉ
dám gọi thầm trong bụng.
4 - Có một chiều chỉ có hai cha con
ngồi ăn cơm trước khi
ông đi bỏ mồi, tôi hỏi.
- Tại sao lại có sông hả bố?
Vừa bưng bát cơn lên và, ông nói giọng
còn lụng bụng trong
miệng.
- Vì đời sinh ra bố.
Nghe ông nói thế tôi không dám hỏi
thêm kẻo bát cơm ông đang
bưng lên tay có cánh bay sang mặt tôi. Mấy năm trước, cha tôi cũng nhặt
được
một người đàn bà trên bờ đưa xuống thuyền. Cô này nói luôn mồm, thấy
cái gì
cũng hỏi mà hỏi đến cu ty tỉ muội. Một lần cũng trong bữa ăn, cô hỏi bố
tôi về
chuyện tại sao con sông này có tên gọi là Bo, con sông kia có tên là
Mã, con
sông nọ có tên là Sứ. Sau mấy câu trả lời ậm ừ, cô ấy cứ hỏi mãi. Chẳng
nói
chẳng rằng, ông ném luôn bát cơm đang bưng trên tay vào mặt, chửi.
- Miệng thối như cứt mà ăn cơm cứ nói
lắm. Bọt phun phè phè
ra hết mâm còn ai dám ăn. Cô về hỏi thằng bố cô ấy.
Dứt lời, ông đứng lên bế thốc cô ném
thẳng lên bờ, nhổ neo
đẩy thuyền đi tịnh không thèm ngoái đầu nhìn lại. Tính ông là thế,
không thích
lằng nhằng, làm chài thì cứ việc giỏi bỏ mồi bắt cá, ông chúa ghét thói
lính
canh ngó chuyện triều đình, đầu không ra đầu mà cuối cũng chẳng ra
cuối, vạ
rách chuyện. Ăn cơm mốc nói chuyện tám thơm. Biết tính ông thế nên tôi
thôi. Ừ,
thì cứ coi ông là dòng sông đi. Sông cũng có khúc lở khúc bồi, khúc
trong khúc
đục, có tội lỗi, có tật nguyền như con người trên bờ kia, cũng có kẻ
này người
nọ, nếu không làm sao mẹ bỏ tôi khi mới hơn mười tuổi đầu mà ra đi cho
được.
Để giúp cô Hến nhóm lửa nấu cơm, tôi
nhẩy xuống sông mò tìm
lại mấy thứ cha lôi vừa quăng xuống nước. Với tôi, không nói khoác, là
con gái
thật đấy nhưng chuyện bơi, lặn khó có thằng trai trên bờ nào thắng nổi.
Có một
lần duy nhất trong đời cha nói vui với tôi. Ông bảo tôi sau này lấy
chồng, nếu
nó léng phéng con cứ lôi nó xuống sông mà dần.
Ăn cơm nước xong cả nhà đang chuẩn bị
nhổ sào chuyển đi khúc
sông khác thì chả hiểu sao, cô Hến múc nước rửa bát ngã xuống sông. Tôi
còn
đang mải thu dọn các thứ, sắp xếp cho gọn, vì trong ngôi nhà thuyền
rộng năm,
sáu mét vuông nếu không biết cách sắp xép thì đến chỗ đặt chân cũng
chẳng có.
Thực ra công việc này là của cô Hến vì dù muốn hay không cô cũng là
người phụ
nữ nhiều tuổi nhất trong nhà, thương cô nên tôi làm giúp. Mới lại,
không biết
cô có tồn tại bên cha tôi được lấy ba bẩy hai mốt ngày không hay lại
như những
người đàn bà trước đây, lâu thì một ngày, nhanh thì một đêm đã bị ông
quẳng lại
bờ cùng mấy tờ bạc nhàu nhĩ tanh mùi cá. Dẫu sao, tôi cũng là người
biết tính
biết nết của cha và đã quen với sự sắp đặt trong khoảng không gian chật
chội
này rồi. Mải làm nên khi cô ngã xuống sông tôi không để ý và với những
người
nhà chài như cha con tôi, ngã xuống sông là chuyện vặt. Rơi xuống rồi
thì bám
vào thành thuyền mà trèo lên. Người nhà chài có ai chết đuối bao giờ.
Còn cha
tôi, khi cô ngã ông biết nhưng mặc. Với ông, muốn ở nhà chài thì phải
biết tất
cả những gì của đời chài cần có, cho dù nó vất vả, khốn khó đến mấy,
bằng
không, quy luật cuộc sống sớm muộn nó cũng đào thải. Con người ăn, uống
vào rồi
cũng phải thải ra, không thải ra được sẽ chết. Nhìn thấy cô ngã song
ông vẫn
ngồi điềm nhiên hút thuốc.
Đời chài động một tí là chạm nước,
không những thế, tất tần
tật những gì gọi là sự khắc nghiệt của thiên nhiên người chài phải chịu
hết.
Tắt nắng mưa đến bão gió, người làm chài phải hứng chịu nguy hiểm hơn
người
trên bờ vì không được nương tựa vào đâu. Rồi hơn thế, vào mùa lũ, người
trên bờ
làm ầm ĩ lên nhưng thực ra cũng chỉ nói cho to, đứng để xem chứ có làm
được gì.
Người làm chài thì khác, phải trực tiếp đối diện với nó. Lũ, năm nào
chả thế.
Lũ đến rồi đi, dăm bẩy lần cũng chả nhằm nhò, hề hấn gì. Lũ là việc của
trời,
còn chúng tôi, đánh chài bắt cá là việc của chúng tôi. Trời có lúc nắng
lúc mưa
thế thôi. Để tồn tại được những người sống trên sông nước phải tự thích
nghi
với cuộc sống.
Ngày mới lên hai, để có thể tồn tại
được với cuộc sống sông
nước, cha ném tôi xuống sông mặc tôi chìm nổi tập bơi, giẫy giụa quẫy
đạp trong
nước chỉ đến khi nào sắp chìm mới lấy vợt xúc lên. Những ngày đầu tôi
uống căng
bụng nước, ông cầm hai chân dốc ngược rồi quay vòng tròn cho nước tháo
ra
ngoài. Mẹ tôi thắt gan thắt ruột nhưng không thể làm trái ý ông. Một
ngày, hai
ngày rồi ba ngày, cứ chiều chiều là ông quẳng tôi xuống nước. Lúc đầu
chân tay
còn quềnh quàng như chó, lũm bũm đập nước để ngoi lên, sau rồi quen
dần, tôi tự
học được cách bơi như thế nào cho nhanh, cho đỡ tốn sức. Những đứa trẻ
dân chài
lên hai phải biết bơi, lên ba đã phải tập chèo thuyền, vá lưới, phân
biệt chài
năm, chài bẩy hay chài chín. Lên bốn tập nhìn sóng biết gió, nhìn nước
biết độ
nông sâu. Năm tuổi, nhìn tăm biết cá, biết mưa đi đàn tìm nơi sinh sản.
Sáu
tuổi, đêm nằm ngửa mặt lên trời biết mai nắng mưa hay bão gió, bấm đốt
ngón tay
tính được ngày con nước. Bảy tuổi đã trở thành dân chài thực thụ, một
mình có
thể xoay sở tự kiếm sống, xòe bàn tay chai dày như người làm rèn, đánh
búa. Cha
bảo tôi, chẳng có trường lớp nào bằng cuộc sống đang bày ra trước mắt,
để sống
con người phải tự biết làm gì. Kẻ ở rừng phải biết cưỡi ngựa bắn cung.
Kẻ làm
ruộng phải biết cày, bừa, cấy lúa. Kẻ sông nước phải biết bơi lặn,
quăng chài.
Khi chợt nhớ ra cô Hến là người trên
bờ làm sao biết bơi như
tôi thì cô đã chìm dưới nước không còn thấy cánh tay giơ lên quờ quạng
cầu cứu.
Từ trên mui thuyền tôi lao vội xuống sông, lúc này chắc cha tôi cũng
nhận ra cô
Hến không phải người chài, ông phóng mình từ trong khoang lao xuống
không khác
gì con nhái.
Tôi không nghĩ sau sự việc xảy ra cô
Hến lại là người chủ
động ra đi mà không cần cha tôi quăng trả cô lại bờ như những người đàn
bà
khác. Trước lúc đi, cô nói với cha giọng thật nhẹ nhàng mà sao nghe tha
thiết
lạ:
- Em biết rồi anh cũng ném trả em lại
bờ như những người đàn
bà khác. Để anh làm điều đó anh vừa mang tiếng mà em cũng chẳng sung
sướng gì.
Thôi thì, một ngày nên ngãi, em xin đi để giữ tròn điều tiếng cho anh.
Trước
khi xa anh và con, em chỉ xin nói với anh một điều, hận thù chỉ làm cho
con
người tăm tối. Rồi còn con nữa, nó sẽ sống ra sao khi cuộc đời chỉ một
màu đen
của lòng căm giận.
Nghe cô nói cha không có phản ứng gì.
Ông ngồi bất động, tay
xoay xoay chén nước trà mà cô Hến vừa pha cho. Chén trà đặc, nóng khi
uống còn
đăng đắng trong cổ, uống xong mới thấy vị ngọt và hương thơm của trà,
thói
quen, ý thích của cha như hút thuốc lào ngon vậy.
Nói xong, cô đưa tay kéo tôi vào lòng,
vuốt nhẹ lên tóc. Vô
tình, ngón tay cô vướng vào mấy sợi tóc rối. Cô lấy hai tay giẽ giẽ ra
rồi khẽ
khàng luồn vào như chải thêm một lần nữa. Tự nhiên tôi ép đầu vào ngực
cô. Từ
ngực cô, tôi nhận thấy có một mùi rất quen mà tôi đã ngửi thấy lâu lắm
rồi,
không thể nhớ nổi.
5 - Cô Hến bỏ đi chả hiểu sao cha cũng
từ bỏ ý định di
chuyển sang khúc sông khác như dự kiến ban đầu. Ông cũng nghỉ làm chài
mấy hôm,
chỉ ngồi hút thuốc lào và uống nước chè mặc tôi làm gì thì làm. Lấy cớ
nhà hết
gạo, rau ăn tôi xin phép cha đi chợ mua sắm.
Cắt đường tôi tìm về bến Trầm. Cô Hến
đón tôi niềm nở trong
ngôi nhà ba gian mái ngói nằm khuất sau rặng tre gai cuối xóm. Ngôi nhà
quạnh
vắng, âm ẩm, vôi trên các bức tường tróc loang lổ để lộ ra những đường
mạch xây
lở loét. Ngay chiếc bàn gỗ uống nước kê ở gian giữa khi chạm tay tôi có
cảm
giác lành lạnh. Tất cả các đồ đạc trong nhà được xếp đặt ngăn nắp chứng
tỏ chủ
nhân của nó là người chỉn chu và rất sạch sẽ.
Ôm tôi trong lòng mà nước mắt cô rơi
lã chã. Nép đầu vào
ngực cô, tự nhiên tôi lại bắt gặp mùi quen quen mà tôi đã gặp ở đâu đó
lâu lắm
rồi còn lưu lại trong tiềm thức. Cô luồn tay vào trong tóc tôi, nhẹ
nhàng gỡ
những chỗ tóc gió làm rối khi tôi đi đường. Nói cái gì, bảo cái gì cô
đều gọi
tôi là con. Cô hỏi cha tôi mấy hôm nay như thế nào, sức khỏe ra sao rồi
tất tần
tật các chuyện ăn uống, sinh hoạt hàng ngày từ khi mẹ tôi bỏ đi đến
nay. Mới có
ba bốn hôm mà cô hỏi cứ như đã xa cả năm cả tháng. Và tôi không thể tin
được
những điều cô kể, sự thật đấy nhưng sao nó đến nhanh và bất ngờ quá,
một sự
thật đến phũ phàng, tàn nhẫn.
Nhà cô có hai chị em. Mẹ cô sinh ra cô
thì chết do băng
huyết. Bố cô một mình làm lụng nuôi hai chị em đến khi cô lên năm thì
ông đổ
bệnh và cũng mất. Người chị lên bẩy, người em lên năm phải sống dựa vào
sự đùm
bọc cưu mang của bà con lối xóm. Thời gian cứ trôi đi, cuộc sống cũng
dần dần
ổn định khi cả hai chị em đã lớn. Để có thời gian lo toan cho người em
ăn học
mong sao có ngày ngẩng mặt nhìn đời, chị cô đã từ chối tất cả những
chàng trai
trong xóm đến cầu hôn. Rồi người em cũng học xong trung cấp sư phạm và
lên dạy
trên vùng cao. Người chị ở lại nhà, sau thời gian nuôi em ăn học lúc
này tuổi
cũng đã lớn. Nhà quê, con gái hai lăm hai sáu tuổi đã chẳng có người
con trai
nào để ý. Rồi một ngày có một người trai làng bên đến ngỏ lời yêu
thương, người
chị đã dồn tất cả tình cảm của mình cho người đó. Khi biết mình có
mang, người
chị nói cho chàng trai đó biết. Không ngờ, khi nghe chị cô thông báo,
chàng
trai đó đã từ chối và tìm cách lảng tránh. Lo lắng cùng quẫn, sợ điều
tiếng,
người chị đã bỏ nhà đi đến khúc sông làng bên rồi tự tử những mong rửa
sạch nỗi
nhục nhã mà đời đang lại. May mắn người chị được
một người làm chài trên sông cứu sống.
Nghĩ đấy là duyên
phận trời định và cũng để trả nghĩa, người chị đã ở lại làm vợ người
đó. Bao
nhiêu năm người chị đã phải giấu giếm thân phận và sự thật để sống một
cuộc
sống không phải của mình. Nhưng rồi vì người đàn ông đó tính tình khô
khan,
cuộc sống sông nước không có hy vọng, gặp quá nhiều khó khăn lại vô
tình gặp
một người đàn ông khác, nói năng cư xử không như người chồng, kinh tế
lại khá
giả được người đó chiều chuộng nên đã sa ngã. Biết đó là nỗi nhục của
cuộc đời,
người chị đã cố gắng làm mọi việc mà ông yêu cầu để mong cứu vãn gia
đình.
Nhưng người chồng đã không tha thứ, mỗi khi đến bữa ăn, ông lại đem
đồng tiền
mà người vợ ông bắt xin của kẻ đối địch về bỏ xuống mâm. Nhục nhã ê
chề, người
vợ đã dứt ruột bỏ con ở lại để đi tìm cái chết. Trước khi chết, người
đàn bà ấy
đã viết thư nói toàn bộ sự việc cho người em đang làm giáo viên trên
miền ngược
và nhờ cậy cô trông nom con gái và người đàn ông đã cứu sống mình.
Thương chị,
người em đã bỏ dạy về để đi tìm. Một lần ra bến sông, cô vô tình nhìn
thấy
người con gái con ông thuyền chài đang tắm có cái bớt đỏ bên vai trái
như lời
người chị dặn lại. Và cô đã trở thành người đàn bà ông nhặt được ở bến
Trầm
này. Người ấy chính là cô Hến và người chị không ai khác là người đàn
bà mà cha
đã nhặt được ở mó bỏ mồi cá ngày nào, người đã sinh ra tôi.
Kể xong cô Hến đưa tôi đến trước tấm
gương tủ, kéo vai áo
trái tôi xuống. Chiếc bớt đỏ tròn như đít bát nằm ngay đầu xương bả vai
trái,
chiếc bớt đã có bao năm rồi mà tôi không hề biết. Cô đưa tôi đến trước
bàn thờ
kéo tấm vải che. Trên bàn thờ có ba tấm ảnh, hai người đàn bà và một
người đàn
ông. Trong hai người đàn bà ấy có một người là mẹ tôi. Nhìn sâu vào tấm
ảnh của
bà, hình như bà đang khóc, một vệt trắng mờ chảy dài xuống má. Bất giác
tôi gào
lên: Mẹ ơi. Tôi ngã qụy xuống.
Tôi lao ra ngoài, theo cánh đồng trước
mặt cắm đầu chạy. Tôi
không biết chạy đi đâu, chỉ biết rằng chạy thật xa, xa thật nhanh sự
thật mà cô
Hến vừa cho biết. Trên cánh đồng đang chờ đổ ải, những thửa ruộng đất
phơi nắng
vỡ dưới chân, bàng bạc trắng, bước chân tôi trật truội, xiêu vẹo vô
định giữa
một khoảng không gian mênh mông... Một toán đánh dậm quây tròn, tru
tréo như
bầy sói săn vớ được mồi. Chúng dằn tôi xuống triền đê. Tiếng cúc áo
đứt, tiếng
xé vải áo, tiếng lột quần... Trong ánh sáng nhờ nhờ và tiếng thở đứt
quãng, tôi
nhận ra có một khuôn mặt đứa trẻ chăn trâu ngày trước chuyên rình, nhìn
trộm
tôi tắm dưới sông. Có cả mùi máu tanh tanh bọn con trai leo cành bàng
ngã rơi
xuống sông ngày nào bị gãy tay. Khi tất cả đã mệt nhoài vì no nê, thỏa
mãn,
chúng hè nhau đứa cầm tay, thằng túm chân ném tôi xuống sông...
Theo dòng chảy tôi trôi xuôi, đôi tay
quờ quạng, giật mình
nhận ra đang nằm trong mó bỏ mồi cá mà lớp bùn chưa kịp lấp đầy và cứ
nằm đó,
rất muốn nằm đó thật lâu cho dòng nước xoa dịu nỗi cồn cào như sóng cắn
dứt ở
trong lòng.
6 - Khi tôi tỉnh lại đã thấy nằm trong
lòng thuyền, cô Hến
đang hì hụi làm gì ở bếp cuối đuôi thuyền. Còn cha, ông ngồi cạnh bậu
cửa phía
khoang mũi, hai chân buông dưới sạp, tay vê vê điếu thuốc lào, như ngày
nào mỗi
khi mẹ tôi đi chợ về mua cho ông lạng thuốc, ông quay người lại khen mẹ
mua
thuốc ngon.
Đêm qua, cha tôi ngồi im phắc, chong
chong đèn, thức trắng
đêm. Ông nhìn tôi xanh lướt, bấy dậy như cua lột gặp bão. Ngọn đèn chai
lù mù
hắt bóng ông lên vách cong mui thuyền, chập chờn. Tôi nằm gọn như con
mèo vào
lòng cô Hến, không còn nước mắt mà khóc nữa. Nhưng cha tôi thì lại
khóc, khóc
lúc gần sáng. Tôi thấy ông hai lần lén nâng tay áo chùi nước mắt. Những
giọt
nước mắt hiếm hoi, lần đầu tôi nhìn thấy trên mặt người cha.
Sáng trắng. Cha tôi không đem mồi đi
mó đánh chài. Ông rút
sào, giọng nói chắc nịch không biết nói với tôi hay với cô Hến:
- Từ nay, nhà ta chuyển thuyền về bến
Trầm. Dứt khoát không
về đây đậu thuyền nữa.
Có tiếng ai đó gọi phía bờ bên kia,
nơi cây bàng già nua có
những cái rễ mọc trồi lên làm chỗ buộc trâu:
- Bác chài ơi. Sáng mai có cá để lại
cho tôi mấy con nhá.
Tôi nhoài người ra nhìn về phía bên
kia bờ, ngước lên cây
bàng. Cây bàng đã trút sạch lá, phía đầu chót cành có những chiếc búp
nhỏ mầu
sâm sẫm nâu. Cây bàng đang vào mùa thay lá mới. Tôi nhìn xuống dòng
sông. Trên
mặt nước, một vài đám bèo tây trôi lững lờ, thỉnh thoảng lại có vài ba
đám rều,
rác trôi theo. Những dòng sông cha và tôi đã đi qua có con sông rộng,
có đoạn
sông hẹp, có lúc nước trong, có mùa nước đục, có nơi nhiều cá, có khúc
ít cá.
Con sông thưỡn thẹo nằm thườn thườn mệt mỏi, vô hồn. Nếu dòng sông là
cuộc đời
thì những người làm chài sẽ có hai cuộc đời, một cuộc đời của người và
một cuộc
đời của sông. Trong cuộc đời ấy, những căn nhà thuyền, những chiếc máy
sùng sục
ngày đêm hút bùn, đào bới, khoan khoét, những rều rác phải chăng là vết
sẹo năm
tháng còn hằn sâu đời sông. Dẫu trong hay đục, dẫu mùa mưa hay mùa khô,
dẫu là
gì đi chăng nữa thì sông vẫn cứ là sông. Nơi ấy tôi đã sinh ra. Tôi chỉ
cần biết
thế. Và sông ơi, còn những điều khác nữa, sông hãy giấu giùm tôi sông
nhé,
những khiếm khuyết tật nguyền của cuộc đời. Đời đã sinh ra cha để cho
những
dòng sông, còn tôi, sông đã sinh ra để cho những cuộc đời như cha, mẹ
và cô Hến.