Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
|
Thanh Tâm
Tuyền
Dọc Đường
Ba người đàn ông ngồi quay xung quanh
cái bàn gỗ tròn trong
quán và cùng hướng về phiá quốc lộ chạy mất hút vào trong rừng cao su ở
hai bên.
Quán bằng lá nằm cuối dãy phố mươi lăm chiếc, sát cạnh con đường đất xe
hơi có
thể vào ngăn phố với rừng cao su. Đầu trên dãy phố là đồn Dân vệ rào ba
lần
thép gai trên treo lủng lẳng những ống lon rỉ. Người đàn ông ngồi ngoài
cùng kế
cây cột chống, mặc áo lá quần xà lỏn, một chân co lên ghế, tay bưng ly
cà phê
uống từ hớp nhỏ. Người đàn ông liền bên vận quần áo kaki sờn rách, đầu
đội nón
bẻ vành, chân đi giày không vớ, cầm chiếc muỗng nhỏ xíu gỏ nhịp lên
bàn. Người
ngồi tách riêng một phía già hơn hết, tóc tiêu muối, vận quần lãnh đen
bám bụi
đỏ, áo túi trắng ngả màu, trước một ly cà phê sữa:
-Có lẽ tụi nó về hết rồi. Ông già nói
-Còn mà. Ít nhất còn cái 601 chưa về.
-Vậy ai chơi nổi với mày nữa. Mày thuộc hết số xe còn gì?
Thằng này điếm quá.
-Ờ… tôi nhớ nhưng biết cái nào tới trước cái nào tới sau?
Người vận quần áo kaki đỏ
mặt cãi với ông già. Người bận áo lá quần xà
lỏn nói:
-Ăn chung gì? Giờ mình chơi hết các thứ xe đi.
-Đâu có được. Mắt tao nhìn không rõ. Xe be chạy cà rà cà rề
tao còn ngó thấy. Chớ bọn xe đò, xe nhà giờ này nó chạy chối chết làm
sao tao
trông kịp.
-Ai ăn lận tía mà sợ.
Ông già lắc đầu:
-Tao cũng không chơi nữa.
Bà chủ quán mập bự, ngồi khuất phiá trong, nửa dòm vô trong
nhà, nửa dòm ra phiá trước, hỏi giọng khan như bị cúm:
-Nãy giờ cha nào ăn?
-Huề. Không ai ăn thua hết. Người đàn ông đội nón phân trần.
Ông già sỏ dép, đứng lên thọc hai tay vô túi áo, móc tiền:
-Nè, trả tiền ly cà-phê. Tao về cho sớm. Tối nay thế nào
cũng có hành quân.
Ông đặt mấy đồng bạc cắc lên bàn, bỏ ra theo phía hông quán, bước ngay
xuống
con đường đất đi sang phiá bên rừng cao su, vòng sau một gốc cây ngoài
bìa đứng
tiểu. Tiếng nước chảy mạnh xoi vào thân cây. Người đội nón nghiêng đầu
ngó la
to:
-Ông già gân dữ quá ta.
Người ngồi ngoài cùng chợt vểnh tai nghe ngóng. Tiếng ầm ì ở
tít xa.
-Còn tao với mày hả?
-Đâu có ngán.
-Bài cào hay sóc đĩa?
-Thứ nào cũng được. Cho mày lựa.
Người vận áo lá vừa nhíu mày suy nghĩ vừa lắng nghe tiếng
động. Khuôn mặt dài ốm nhăn nhó. Người đội nón dở chiếc nón xuống và
tiền rớt
xuống mặt bàn. Y suy nghĩ dò xét kín đáo hơn, cặp mắt mơ màng nhìn vào
những
lối cao su thẳng tối. Ông già từ gốc cây bước ra đường cũng ngửa cổ
nghe.
-Đậu cái này rồi về tía. Người đội nón gạ gẫm.
-Tụi bay tuột dù hết rồi. Máy bay trực thăng đó.
Hai người đàn ông còn ngồi trong quán ngó nhau. Người đàn bà
cũng nói:
-Trực thăng thiệt.
Vài phút sau, tiếng động cơ nổi rõ hơn, tới gần. Chiếc trực
thăng bay sà thấp ngang qua quán, sang phiá rừng cao su bên kia lộ,
quần vài
vòng lớn rồi trở lại hướng cũ. Ông già nhìn theo, cười khoái trá nói:
Tao biểu
mà. Rồi ông bước đi. Con đường đất chạy men bìa rừng cao su dẫn tới một
xóm lá
lơ thơ. Buổi chiều vàng rực ở phiá đồn Dân vệ, nhưng phiá rừng cao su
xanh xẫm
xuyên qua những gốc cây thẳng tắp đến cả hai cây số ngàn, một chút trời
sáng
của quãng lộ quẹo như rớt xuống ngang tầm đất. Hai người dân vệ từ
trong lối
xóm trở ra, chân mang giầy bó túm ống quần bám sình và bụi đất: một
người đeo
súng hai tay bưng trên miệng hút vào chiếc lá tre non kêu chít chít
từng hồi
như tiếng chim, một người quàng hai tay trên hai đầu súng đặt nằm ngang
cần cổ
ngó phía trước, cả hai mặc đồ đen đội những chiếc nón vải đen có lưỡi.
Họ rẽ
vào quán, dựng súng vô vách, ngồi vào chiếc bàn gỗ còn dư trống. Một
người kêu
người đàn ông vận áo lá:
-Còn nước đá không?
Người sau này vẫn ngồi nguyên thế co chân, chỉ xoay nửa thân
trên hỏi lại người đàn bà:
-Còn nước đá không mày?
-Để coi. Chắc còn…
Người đàn bà vác tấm thân nặng, lê bước vô sau bếp, lục cục
tìm kiếm và hỏi ra ngoài:
-Mấy chú uống gì?
-La-de.
Người dân vệ vẫn bưng tay lên miệng nút kêu những tiếng chít
chít, trong khi người bạn ngó lên tấm vách trong có cái giá bầy các
chai nước
hơi màu xanh, mầu đỏ, màu vàng, màu trắng, màu nâu xếp dài theo vách
ván ám
khói đen. Chỉ còn hai chai la-de trên giá. Người đàn ông vận áo lá, chủ
quán,
nhăn mặt ngó chỗ khác vì tiếng nút kêu của người dân vệ. Người đàn ông
đội nón
liệng chiếc muỗng xuống bàn kêu:
-Cha. Lâu thấy mẹ.
Người đàn bà mang hai cái ly đá chặt cục bự nhô khỏi miệng
ly đặt trước mặt hai người dân vệ, rồi lại ì ạch quay trở vô giá lấy
nước. Mụ
dùng răng cắn mở nút chai xong cất tiếng hít hà, đưa cánh tay áo quẹt
ngang
mồm. Ly của người dân vệ mải với trò chơi bọt sủi tràn ra bàn. Anh ta
buông
tay, chiếc lá tre xanh nõn ép dính dọc theo ngón tay cái bên phải. Anh
thủng
thẳng liệng chiếc lá xuống vũng nước trên bàn. Người bạn hối:
-Uống lẹ đi mầy. Bọn chúng đi qua thấy về lại cằn nhằn.
Người đàn ông đội nón bỏ ghế ra ngoài hè đứng ngó mông hai
đầu đường vắng như tờ. Đằng chân trời trước mặt, tiếng phi cơ ầm ỳ rồi
tắt lặng
không thấy dáng. Cách quán hai ba nhà, là tiệm sửa xe máy. Một người
thợ liu
hiu làm việc với chiếc xe máy lật chổng bánh lên trời. Người đội nón
quay vô
biểu:
-Tối nay về Biên Hòa ngủ. Còn cái sáu lẻ một mà.
-Ờ, để coi.
Hai người dân vệ uống cạn ly đứng lên sửa lại quần áo, đội
mũ, đeo súng trả tiền sửa soạn bước ra khỏi quán. Người đàn bà vừa nhét
tiền vô
túi vừa nói với chồng:
-Có đi Biên Hoà coi chừng giùm tôi vụ đó…
Hai người dân vệ ra khỏi quán, tiếng về phiá đồn, dáng đi
nghiêm chỉnh hơn. Người nút lá tre đi trước cách bạn chừng hai ba
thước, cả hai
đều quay dòm vô các mặt phố. Có tiếng gọi trong rào kẽm gai ở đồn và họ
cất
bước chạy lúp xúp. Trong quán người đàn bà nói, trong khi người đàn ông
mở
hộc tủ của cái bàn trên bầy mấy ve bánh kẹo, chai tôm khô củ kiệu chỉ
còn thấy
nước đục vàng, kê bên dưới giá xếp nước hơi, lấy tiền, trên đầu người
đàn ông,
treo tòn ten vào móc sắt hai nải chuối già và chuối sứ:
-Mấy cha chỉ bầy chuyện đi chơi không à!
Người đàn ông đi tới chiếc ghế bố đặt bên vách, nơi người vợ
ngồi để vừa ngó được phiá sau phiá trước, lượm chiếc áo sơ-mi khoác lên
thân,
nói:
-Mầy không thấy trực thăng quần nãy giờ sao mầy. Bộ mày muốn
tao chết…
-Còn tôi dễ không chết hả. Cứ đi hoài tiền đâu chịu cho
thấu.
-Tao là đàn ông mầy nghe chưa? Ở nhà để lỡ như lần trước
chúng vô bắt kéo thây về rừng cho chúng. Một mình tao phải kéo bốn cái
thây mầy
nhớ không, cả đêm cả ngày tới chừng về phát đau còn bị người ta kêu lên
kêu
xuống hỏi hoài… Mầy chịu vậy không? Tao ở nhà… Đ. m. thứ đàn bà ngu!
Người vợ kéo quần lên tới bắp vế gãi, mặt mụ đờ đẫn không
còn phản ứng. Người đội nón bước trở vô quán nói tiếp:
-Máy bay quần là có chuyện mà…
Người đàn ông chủ quán tỏ vẻ khinh bỉ vợ, bỏ vô sau rửa mặt,
rửa chân rồi thủng thẳng trở ra xỏ quần. Hai người đàn ông ra đứng
trước quán.
Trong rừng cao-su nghe tiếng còi xe nhận inh ỏi, ba chiếc xe đò đua
nhau chạy
tới. Dẫn đầu là một chiếc “bờ dô” mũi khoằm. theo sau là hai xe cá.
Chiếc “bờ
dô” thắng ngay trước quán, hai xe cá vượt đi luôn. Người đàn ông chủ
quán quay
vô biểu vợ:
-Tao đi nghe mầy.
Người vợ nặng nề bước ra, dặn dò:
-Mai sáng về ghé chợ mua đồ về nghe.
Người đàn ông mới dớm đặt chân lên thang phía sau xe, đợi
bạn chui vô khoang nói:
-Đ.m. nhớ mà.
Người lơ chạy vô quán nói:
-Xin miếng nước chị Hai. Không đợi trả lời, thót vô sau nhà.
Người tài xế nhấn còi thúc hối, ló đầu ra ngoài:
-Tính ngủ trong đó sao mày?
Người lơ chạy ra mặt còn nhẫy nước, nhảy bám vào đuôi xe la
lớn:
-Rồi, chạy đi.
*
Chiếc xe từ từ ngừng trước đồn Dân vệ.
Người lính gác trong
chòi canh bắc loa tay kêu đuổi: Tới trong kia đậu. Chiếc xe chuyển bánh
đi qua
hết đoạn đường rào kẽm gai đậu trước quán hớt tóc. Người lơ xe nhảy
xuống đất
kêu vô trong:
-Xuống lẹ lên cha nội.
Một người đàn ông tay ôm bọc giấy dầu, lom khom bước xuống.
Tới đất, người đàn ông lại muốn trở lên, nói:
-Không phải đây…
Người lơ đã bước lên bục gỗ đưa tay cản ngang:
-Vậy tía quên hay tía lầm đường rồi. Tiá ráng đợi đây đón xe
sau mà về. Chớ tôi cứ ngừng hoài đợi tiá kiếm nhà tới đêm tụi tôi mới
về tới
nhà. Cô bác kêu quá trời.
-Cho tôi đi khúc nữa…
-Tiá hết tiền rồi. Rồi, chạy đi.
Chiếc xe rồ ga chặng thẳng vào phía rừng cao-su xẫm lạnh.
Người đàn ông đứng lại bên đường ngơ ngác. Hắn vận bộ bà ba đen, chân
đi săng-đan,
tóc cắt ngắn, mặt mũi gồ ghề xanh xao. Hắn ngửa mặt nhìn lên trời trông
chiếc
trực thăng từ phía rừng cao-su bay tới, đứng im rồi hạ thấp trên bãi
trống bên
kia đường. Tiếng nổ ù tai, cánh quạt quay cuốn bụi đất mù một khoảng;
cỏ cây
ngả rạp. Người lớn con nít ùa ra khỏi nhà ngắm coi, bọn con nít chạy
băng ngang
lộ tới đứng bên bãi cỏ, tiếng người kêu gọi bị gió và tiếng động cơ
quạt bay
tung mất hút. Chiếc trực thăng đáp xuống nhưng không tắt máy, nó đậu
vài phút
rồi lại từ từ cất lên và bay đi về hướng đồn Dân vệ tránh xa quốc lộ.
Trẻ con
và người lớn còn đứng lại ngắm và bàn tán. Một vài người nhìn thấy
người đàn ông
bận bà ba đen ông bọc giấy dầu đứng trước quán hớt tóc.
Quán hớt tóc là một chòi lá chỉ có một mái dựng trên một bức
vách gỗ thùng sữa, và hai cây cột ngoài, ba mặt bỏ trống. Trong quán
không có
người, thợ đã nghỉ, nhưng vẫn còn một chiếc ghế ngồi trước một tấm
gương đóng
chặt trên vách, dưới tấm gương là một cái hộc gỗ treo bằng dây kẽm,
không có
vật dụng nào để trên. Người đàn ông ngó thấy mặt mình trong gương, con
lộ bãi
cỏ, mô đất cao xa mờ.; hắn ngoảnh mặt bước tới quay lưng lại đồn Dân vệ
hướng
về phía rừng cao-su. Kế bên quán hớt tóc là một tiệm chạp phô của người
Tàu,
tới một căn nhà ở đóng cửa, trên các cửa đóng dán những bích chương và
khẩu
hiệu tuyên truyền, tới một tiệm trữ Âu dược. Một tấm bảng gỗ treo ngang
đong
đưa với dấu thập đỏ. Qua khỏi tiệm trữ Âu dược là một nền nhà đổ, rồi
một
khoảng đất vuông cao hơn mặt đồng, trồng rau muống, làm chỗ họp chợ.
Trên nền
đất có vết cháy đen loang, cỏ vàng úa không mọc được. Sát chợ là nhà
việc: mái
thủng, tường lỗ chỗ vết đạn, các cửa sổ bể gẫy, tấm bảng treo rớt chỉ
còn một
đầu dính trên tường, nhìn vào trong gạch ngói bừa bãi chưa thu dọn. Nhà
kế bên
nhà việc cũng bị xập mái trước. Khỏi gian nhà đổ, dãy phố nguyên vẹn.
Người đàn
ông đi qua một tiệm thuốc Bắc, trong tiệm một người con gái Tàu lai
ngồi đọc
báo sau quầy hàng; một tiệm bán sách vở và tạp hoá; một lớp học với
mươi bộ bàn
ghế và tấm bảng đen; tiệm sửa xe máy với một người đàn ông đang lui hui
sửa ngoài
hè. Người đàn ông ôm gói đứng lại nhìn người thợ đang làm việc. Anh này
chợt
ngửng lên loe miệng cười với người đàn ông, nhưng nụ cười tắt ngay tức
thời.
Anh thợ ngưng hẳn tay ngắm nghía người lạ. Người đàn ông cố gắng cười
gượng gạo
hỏi:
-Giờ này còn xe trở xuống không anh?
-Có lẽ hết.
Nói xong, người thợ tiếp tục làm việc, bỏ mặc người lạ đứng
ngẩn nhìn xuống. Một hồi im lặng, người đàn ông nói:
-Cám ơn anh Hai.
Người thợ không đáp, cũng không ngó lên. Và người đàn ông
lại bước đi. Kế tiệm sửa xe là tiệm chạp-phô nữa của người di cư. Người
đàn bà
quần áo nâu, răng đen, vấn khăn, mắt hấp háy đứng bên mấy bó củi và tĩn
nước
mắm ngó người lạ chằm chằm. Người đàn ông ngó mông sang rừng cao-su bên
kia lộ.
Hắn đi qua hai căn nhà nữa. Trước một căn đóng cửa đặt một cái lu nhỏ
đậy nắp
gỗ và một cái ca nhôm máng trên tường. Người đàn ông tiến lại bên cái
lu, đặt
gói giấy xuống hè, mở nắp, lấy cái ca múc nước trong lu uống ừng ực.
Uống xong
hắn lại múc thêm một ca đầy đứng xích ra gần lộ đổ vào tay rửa mặt và
cổ. Nước
trà màu nâu đen. Lấy khăn trong túi lau khô mặt, hắn đậy nắp lu, máng
ca trở
lại chỗ cũ, ôm gói đồ đi tới tận cùng dãy phố là con đường đất đỏ vắng
hoe ngăn
cái quán và rừng cao-su. Hắn đứng ở đầu đường đất ngó mông vào xóm,
nhìn con lộ
chạy ẩn giữa hai hàng cao-su tối. Hắn bước vô quán, ngồi bàn phiá
ngoài, đặt
gói đồ lên một cái ghế. Người đàn bà mập từ sau bếp bước ra nói:
-Hết trơn nước đá rồi, cà-phê cũng hết…
-Thím cho ngồi nghỉ đỡ đón xe.
Người đàn bà ngó khách từ đầu tới chân. Trong rừng cao-su
tiếng ve bỗng kêu từ xa lan tới gần. Người đàn ông ngó quanh khắp quán
hỏi:
-Thím có bán cơm không?
-Không, không có cơm.
Người đàn bà bỏ vô sau nhà. Người đàn ông ngồi thẳng lưng,
mó máy bật cái giây thun buộc gói giấy dầu. Hắn móc trong một túi áo
lấy ra một
xấp giấy gói kỹ kiểm lại và đếm những tờ giấy bạc. Mấy tờ giấy năm
đồng, mười
đồng. Người đàn bà trở ra hỏi:
-Không có xe hả?
-Không có, sợ hết.
Người đàn bà bỗng lắng nghe bảo:
-Có xe be tới đó.
Người đàn ông vội ôm gói đồ chạy ra lề đường. Hai chiếc xe
be kềng càng rần rần từ trong rừng cao-su, xe chạy chậm. Người đàn ông
đưa tay
lên cao vẫy kêu: Cho quá giang… Hai người tài xế đưa tay vẫy chào và xe
vẫn
chạy.
Người đàn ông thất vọng lẩm lũi trở vô quán. Từ một trại binh
xa lắc vọng lại tiếng kèn chào cờ buổi chiều.Ve kêu rộn hơn. Người đàn
bà hỏi:
-Chú ở đâu tới?
-Tôi đi kiếm thắng em của tôi làm đồn điền cao-su. Có lẽ tôi
đi lộn xe. Mấy năm trước đây tôi có lên một lần nhưng không nhớ rõ. Tôi
nhớ khu
nó ở gần lộ.
-Ôi, đồn điền cao-su biết mấy mà kiếm? Đồn điền tên gì ở đâu
mới được chớ?
-Tôi không nhớ, tới đúng nơi thì tôi biết.
-Chú nói chuyện trời đất không à.
Người đàn ông đặt gói đồ lên bàn, hai tay ngồi ôm lấy nó. Người
đàn bà đột ngột sẵng giọng hỏi:
-Giờ chú tính sao?
-Tôi không biết tính sao hết. Tôi đón xe…
-Người đàn bà cao giọng hơn:
-Chú nói cà rỡn hoài. Giờ này kiếm xe. Chú tính mà mất tôi.
Bộ khi không chú ngồi đó không cho tôi đóng cửa tiệm đi ăn cơm hả? Chú
tính
chuyện gì? Tôi kêu lính trên đồn xuống đây bây giờ….
Người đàn ông sửng sốt, giật hai tay ông gói đồ vào bụng ngó
trân người đàn bà:
-Tôi nói thiệt mà thím. Tôi đón xe mà.
-Mà tôi biểu chú không còn xe nữa. Chú tính cách sao?
Người đàn ông ngó ra lộ, ra ngoài rừng, nói một mình:
-Ờ, không còn xe.
Tiếng ve kêu chỉ còn lẻ tẻ rời rạc xa xa. Trời bắt đầu tím
trên nền bóng núi xa. Người đàn bà tìm quẹt đốt cây đèn dầu hôi mắt vẫn
dòm
chừng khách lạ. Một chiếc xe díp vụt ngang lộ như một cơn gió. Người
đàn ông
dợm đứng dậy như muốn rượt theo kêu, lại ngồi xuống ghế. Đèn thắp lên.
Cửa bên
hông mở ra phiá con đường đất bên bìa rừng đã đóng. Người đàn bà đặt
cây đèn
lên bàn trong, tiến đến gần người đàn ông hỏi:
-Giờ chú tính sao?
Người đàn ông ngập ngừng:
-Thím cho tôi ngủ đậu. Thím làm phước. Mai tôi đón xe về
sớm.
Người đàn bà kêu lên:
Đâu có được chú. Nhà tôi đâu phải nhà cho muớn. Biết chú là
người thế nào mà cho ngủ đậu. Lỡ đêm chú cắt cổ tôi sao? Chồng tôi đi
khỏi, tôi
không chứa đàn ông…
-Thiệt tình mà thím, tôi đi kiếm thằng em tôi. Thím làm ơn
làm phước… Chớ giờ này tôi biết tính sao?
Người đàn bà suy nghĩ vài giây:
-Bộ chú lỡ độ đường thiệt à…
-Thiệt mà thím. Chớ khi không tôi tới đây làm gì.
Người đàn bà lại cao giọng:
-Không được. Chú ở đâu tới, tôi không biết. Chú xin ngủ đậu,
không được. Lỡ đêm có chuyện gì người ta xét nhà, tôi nói sao. Không
được. Tôi
thương chú, ai thương tôi. Thôi chú đi đi, cho tôi ăn cơm. Tôi đói bụng
rồi.
–Tôi đi đâu?
-Đi đâu thây kệ chú chớ. Mắc mớ gì đến tôi.
Người đàn ông chậm chạp đứng lên nhưng chưa bước đi. Người
đàn bà tự động lùi lại một bước thủ thế. Người đàn ông nài nỉ:
-Tôi đi đâu? Thím nghĩ coi…
-Tôi không biết. Mấy người rắc rối lắm. Tôi không kêu lính
trên đồn là may phước lắm.
Người đàn ông ngập ngừng bước ra khỏi quán. Dãy phố và con
lộ im như tờ, chỉ nghe tiếng ve rộn xa và tiếng côn trùng khởi trổi lẻ
tẻ ở bãi
cỏ. Người đàn bà khép cửa quán nhưng vẫn còn ló đầu dòm theo người lạ.
Người
đàn ông đi trở ngược dãy phố. Trong tiệm chạp-phô, gia đình đang ăn cơm
trên bộ
ngựa ở ngoài. Người đàn bà vấn khăn đang bới cơm không ngó thấy bên
ngoài.
Người lạ mặt đứng lại trước tiệm sửa xe. Người thợ đã tắm rửa, thay đồ,
ngồi
trên ghế ngay trong cửa ôm cây đàn ghi-ta đang khẩy. Người đàn ông đứng
lại,
rồi tiến tới bên cửa:
-Chào anh.
Người thợ ngừng tay khẩy, ngó lên hỏi:
-Gì anh?
Người đàn ông đứng trân một hồi rồi mới nói:
-Anh Hai làm ơn chỉ giùm tôi có chỗ nào ngủ đậu một tối, tôi
lỡ đuờng hết xe về.
Người thợ cười riễu, gác cẳng lên thềm cửa:
-Chỗ ngủ đậu. Anh tới đầu quán hỏi coi…
-Tôi hỏi rồi. Họ không chịu.
-Vậy tôi cũng chịu.
Người thợ lại tiếp tục khẩy đàn và cười một mình. Người đàn
ông vẫn đứng im tại chỗ:
-Anh Hai cho tôi ngủ đậu. Dưới đất cũng được. Mơi tôi đón xe
về sớm.
-Cha này rỡn hoài ta. Tôi đâu quen biết anh.
-Anh cho tôi ngủ đậu một tối thôi.
-Bộ anh cho là tôi khùng hả. Cha này kỳ quá…
Người đàn ông quay mặt về phía rừng cao-su trong ấy bóng tối
đẫ đầy. Ngoài rừng trời chạng vạng nhá nhem. Người đàn ông đi tới bên
lề đường.
Một vài tiếng đại bác nổ ầm ở xa. Hắn đi vài bước về hướng nhà việc rồi
bỗng
quay bước. Trong tiệm xe máy tiếng đàn dạo đến khúc mùi mẫn. Hắn đến
trước căn
nhà có đặt lu nuớc ở ngoài và dừng lại. Nhà cửa đóng kín không thấy ánh
sáng.
Hắn gõ nhẹ lên cánh cửa rồi nghe ngóng. Có cả mấy phút không có tiếng
trả lời.
Trong nhà tiếng niệm Phật rất nhỏ. Hắn đứng đợi nghe tiếng mõ đều đều
thỉnh
thoảng đệm tiếng chuông. Trời cứ tối dần. Một hồi hắn lại gõ cửa và sau
tiếng
ho là tiếng hỏi nhỏ:
-Ai đó?
Người đàn ông không đáp. Hắn lại gõ cửa. Trong nhà lại có
tiếng hỏi: Ai đó? Tiếng động trên cửa và một lỗ hổng tròn được kéo ra
ngang tầm
ngực người đàn ông:
-Ai ở ngoài đó?
Người đàn ông cúi nghiêng xuống ngang mặt với lỗ hổng:
-Tôi lỡ độ đường.
-Chú kiếm ai?
-Dạ không, thưa bác con kiếm chỗ ngủ tối nay. Bác cho con
ngủ nhờ.
Bên trong im lặng khá lâu, tiếng thì thào rồi nghe giọng già
run rẩy:
-Thôi chú ơi, tôi tu hành chú đừng phá tôi.
-Thưa bác, thiệt tình con lỡ độ đường. Con đi kiếm thằng em
mần trong đồn điền cao-su lại lên lộn xe. Giờ không có xe về. Bác cho
con ngủ
đậu một tối. Mơi con đón xe về sớm.
-Thôi mà chú, chú kiếm nơi khác. Tôi tu hành mà.
-Không đâu họ chịu cả. Bác làm phước thương con.
-Tôi biết chú nói thật. Nhưng chú thương chúng tôi. Chúng
tôi không làm hại ai cả. Chú cảm phiền. Trong nhà chỉ có mấy bà cháu
không có
đàn ông. Lỡ ra tội nghiệp chú ơi…
-Thưa bác con thiệt tình. Con không gạt. Con đi kiếm người
em.
Bỗng trong nhà có tiếng thiếu nữ ngắt ngang:
-Bà tôi nói thiệt mà. Khi không tới đòi ngủ đậu. Ai mà tin
được. Tụi tôi la là lính trên đồn nghe thấy xuống tới.
-Tôi thiệt tình mà cô Hai.
-Thiệt hay không thiệt cũng không ai chứa người lạ trong
nhà.
Một tiếng nổ ầm rung chuyển đất. Lỗ hổng đóng xập lại và
tiếng chân chạy trong các nhà, Mọi cửa đều đóng vội. Những tiếng nổ
tiếp theo
còn cách xa. Người đàn ông dáo dác ngó ra đường. Trên trời phía rừng
cao-su
trái hỏa pháo bắn vọt lên lơ lửng vài phút rồi tắt. Tiếp theo một trái
hoả pháo
khác. Người đàn ông đứng ôm bọc giấy bên lu nước.
NQT sao lục
tanvien.net
|