Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
|
Thanh Tâm Tuyền, qua Choé
Tiếp tục chủ đề Năm Mươi Năm Di
Cư, Lưu Vong [1954-2004], bắt đầu từ số trước, số này Khởi Hành cho
đăng một trong những truyện ngắn tiêu biểu của giai đoạn trên.
Cuối Đường,
truyện ngắn Thanh Tâm Tuyền, đăng lần đầu trên Sáng Tạo số 25, đặc biệt
về Hà Nội, phát hành tại Sài Gòn, Tháng Mười, 1958, cũng là số đặc biệt
kỷ niệm đệ nhị chu niên của ST.
[Trích Lời Tòa Soạn, báo Khởi Hành do Viên Linh chủ trương].
Trên
Tin Văn,
sẽ tiếp tục giới thiệu, một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Thanh
Tâm Tuyền, do chính tác giả tuyển chọn để đăng trong Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương
Chúng Ta [Nhà
xb Sóng, Sài Gòn, do Nguyễn Đông Ngạc chủ trương,1973] (1): Dọc Đường.
(1):Nhan đề thực sự của cuốn sách, khiêm tốn hơn nhiều: Hai mươi năm văn học miền nam 1954-1973.
Thanh
Tâm Tuyền
Tên thật Dzư
Văn Tâm, sinh ngày 13.3. 1936 tại Vinh [Ông quê Hà Đông.
Vinh là nơi ông cụ thân sinh của ông làm việc. NQT]. Bắt đầu dậy học
tại trường Minh Tân, Hà Đông [1952], và đăng những truyện ngắn đầu tay
trên tuần báo Thanh Niên [Hà Nội]. 1954, hoạt động trong Tổng Hội Sinh
Viên Hà Nội, cùng Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ chủ
trương nguyệt san Lửa Việt. 1965, cùng các bạn làm tuần báo Dân Chủ,
tuần báo Người Việt. 1956-1960, cùng một số bạn thực hiện nguyệt san
Sáng Tạo. Nhập ngũ năm 1962, giải ngũ năm 1966, tái ngũ năm 1968.
Các tác phẩm chính:
Thơ: Tôi không còn cô độc - Liên Đêm
Mặt Trời Tìm Thấy.
Kịch: Ba Chị Em.
Truyện ngắn: Khuôn Mặt - Dọc Đường.
Truyện dài: Bếp Lửa - Cát Lầy - Mù
Khơi - Tiếng Động
[Nhà xb Sóng]
Quan niệm về truyện ngắn [Trả lời nhà xb Sóng]: Truyện ngắn là truyện
không thể nào viết dài.
Cuối
Đường
Thanh Tâm
Tuyền
Đầu năm 1949 tôi bỏ Sài Gòn về Hà
Nội. Từ một thành phố yên ổn vui tươi trở lại, tôi rơi xuống một thành
phố điêu
tàn ngơ ngác. Những ngày đông lạnh lẽo ngắn thêm vì giờ giới nghiêm.
Ngay giữa
phố đông đúc như Hàng Bông, Hàng Đào vẫn còn nhiều nhà đổ nát tan
hoang. Khoảng
bẩy giờ tối hết xe điện, người ta nhường phố xá cho lính lê dương say
rượu.
Thỉnh thoảng về muộn tôi phải đi qua những phố vắng tanh, vội vã lẩn
lút trên
vỉa hè hay sau hàng cây như một tên ăn trộm. Có khi lính Tây đuổi tôi
để được
la hét cho đỡ buồn, tôi chạy quanh co hết phố này sang phố khác như
chơi dượt
bắt với chúng. Một hôm tôi bị rượt nà từ phố Đường Thành, chạy về Quan
Thánh.
Vừa băng qua vuờn hoa Hàng Đậu sang phiá Nhà Thương Khách thì từ một
ngách tối
một tên xồ ra chụp được tôi.
Tôi vùng vẫy và đánh trúng mặt nó
khiến cái mũ trắng rơi xuống đất, tôi có thể chạy thoát. Nhưng tôi đứng
nguyên
một chỗ nhìn tên lính cúi xuống nhặt mũ, nó cười sằng sặc. Nó trẻ bằng
tôi, mắt
xanh như mắt mèo. Nó quàng vai tôi, mời tôi vào quán uống rượu. Tới
mười giờ
đêm, nó dìu tôi về tận nhà. Trước khi chia tay, nó ôm hôn lên đầu cổ
tôi như
mưa rồi khóc. Tôi tức giận gạt mạnh nó rồi lảo đảo vào nhà. Chị tôi sợ
hãi đóng
chặt ngay cửa. Tên lính còn đứng lại đập cửa la hét nguyền rủa hàng giờ
sau mới
chịu bỏ đi.
Nhà tôi ở khu Ngũ Xá. Hồi ấy tôi
thất nghiệp ăn ở nhờ gia đình chị tôi, dạy mấy đứa cháu nhỏ trừ tiền
cơm. Tiền
tiêu vặt vãnh là tiền dành dụm trong mấy năm làm ăn ở Sài Gòn. Mỗi buổi
sáng
tôi dậy với những chuyến xe điện thứ nhất lên phố. Những chuyến xe buổi
sáng
thường kéo theo hai ba toa tối om chạy băng băng không ngừng, tôi nhảy
bám vào
toa sau cùng chắc chắn không phải lấy vé lên đến tận chợ Hôm. Trời buổi
sáng
bao giờ cũng lạnh cóng, tôi tựa vào thành xe trông lại phía sau con
đường sắt
bóng mướt và mặt đường tê cứng. Qua đầu phố Hàng Đào nơi một đống gạch
đổ tôi
còn thấy những mảnh vải rách rưới rúc vào nhau mà ngủ. Đến chợ Hôm trời
cũng đã
mờ sáng. Tôi ghé xuống lề đường ngồi xổm ăn một đồng xôi lúa nóng chan
mỡ hành
béo ngấy rồi đi lang thang đợi đến chín giờ về thư viện đọc sách.
Bỏ học đã lâu, tôi định lợi dụng
thời gian nhàn rỗi này học thi Tú Tài. Thư viện thật tĩnh mịch, mặt bàn
nhẵn
trơn tru, ghế cao và rộng. Phòng đọc sách lớn nhưng thường thường chỉ
có dăm
bẩy người, mỗi người một bàn thật xa nhau để khỏi nhìn thấy nhau. Chúng
tôi làm
việc trong không khí dễ dãi quen biết, mỗi người có thể mượn số sách
không giới
hạn bầy đầy trước mặt trong khi luật lệ ấn định không lấy quá hai cuốn
một lần.
Tôi chọn một góc kín đáo khuất sau một cái cột mà từ người thủ thư cho
tới
người giám thị phòng đọc ngồi ở chỗ của họ không thể nhìn thấy tôi. Góc
ấy lại
gần lò sưởi ấm, lúc nào buồn tôi có thể ngủ được. Thường buổi trưa tôi
ngại
không về nhà, tôi ăn buổi trưa - một cái bánh tây, một ly cà phê sữa -
ở ngay
gian nhà gửi xe của thư viện. Quãng năm giờ tôi rời thư viện vì vào giờ
ấy tôi
thường gặp phải những ông công chức mới hồi cư vào lục lọi những chồng
công báo
dày hàng chục năm để tìm cái nghị định bổ nhiệm xin hồi ngạch.
Mùa đông qua hết, đến mùa xuân rồi
tôi vẫn chẳng học được chữ nào, óc của tôi chưa quen lại được bài vở.
Hằng ngày
tôi vẫn lui tới đều đặn thư viện nhưng toàn đọc sách truyện nhảm nhí.
Tôi có ý
định kiếm việc làm. Những chuyến xe điện buổi sớm đã chạy chậm hơn một
chút
trong buổi mai êm dịu và toa xe cuối cùng không còn tối nhiều như khi
mùa đông
nữa. Tôi thường phải lẩn tránh người soát vé đứng ở toa đầu máy nhìn
xuống rình
mò.
Một buổi kia trời bỗng trở rét dữ
dội. Con tầu lại chạy với tốc độ mùa đông. Tôi thảnh thơi đứng tựa
thành xe
quay lưng lại với toa đầu máy, lắng nghe tiếng khẹt khẹt của cái cần
điện chạm
vào dây ở trên đầu. Người soát vé xuống đứng bên cạnh lúc nào tôi không
hay.
Hắn vỗ vào vai tôi làm tôi hoảng hốt. Không quay lại tôi vội vàng nhảy
ùa xuống
đường. Đà xe mạnh làm tôi ngã úp xấp và chết ngất.
Khi hồi tỉnh tôi vẫn còn nằm trên
mặt đường cạnh đường sắt. Tôi quờ tay lên đường sắt bóng và mặt nhựa gồ
ghề.
Phố xá lặng thinh. Rồi tôi nghe tiếng xe điện sắp đến từ xa. Chỗ tôi
nằm ngay
đầu Hàng Đào, những manh vải rách rưới vẫn quấn lấy nhau ngủ vùi. Tôi
lồm cồm
bò lên vỉa hè. Chuyến xe điện qua thản nhiên. Áo tôi rách toạc một mảnh
ở vai,
chân tay mặt mũi tôi sây sát rớm máu. Tôi khập khễnh đi xuống Hồ Gươm
vốc nước
rửa. Nước lạnh giá làm đau xót các vết thương. Tôi ngồi xuống vệ cỏ
khóc cho ấm
mắt, cuống họng, và ngực. Chán không khóc nữa tôi đứng dậy.
Chiều hôm ấy rời khỏi thư viện tôi
không muốn về nhà. Tôi muốn ngủ đêm ở một chỗ khác nhưng chẳng nghĩ ra
chỗ nào
có thể về được. Tôi cứ lang thang qua các phố cho tới khuya. Trời rét
như cắt
tôi chỉ mặc một tấm áo “blouson”. Các vết thương nhức nhối. Mồ hôi nhờn
cả da
mặt. Tôi tức giận vô kể. Tôi không gặp những tên lính Tây say quấy phá.
Tôi chờ
đợi một đội tuần tiễu nào sẽ nhặt tôi về trại giam. Hay thí cho tôi một
tràng
đạn sợ hãi vào ngực. Tôi sẽ nằm thẳng cẳng ở giữa cái thành phố co dúm
này.
Cuối cùng tôi vẫn phải về nhà. Chị tôi dương cặp mắt khiếp hãi nhìn
tôi. Ông
anh rể càu nhàu trong màn. Sáng hôm sau chị tôi bôi thuốc đỏ vào các
vết trầy,
tôi ngồi nhà không lên phố. Tôi gọi lũ cháu mang sách vở tới gần xem
xét và
đánh cho chúng một trận nên thân. Chị tôi khép nép sợ sệt thay cho con.
Tôi tát
chúng mạnh quá đến nỗi bàn tay ê ẩm. Chị tôi xuống bếp khóc, lũ trẻ ra
ngoài đầu
hè khóc, bỏ gian nhà trống cho tôi với những vết thương bắt đầu mưng mủ.
Trong năm ấy tôi gặp một đứa bạn cũ
hồi còn học lớp nhất trường tỉnh. Hắn trông nom một xưởng sửa chữa xe
hơi. Hắn
mời tôi vào một quán nước cạnh đền Bà Kiệu. Cầu Ngọc Sơn đã được sơn
lại mới đỏ
như quết trầu. Mùa xuân còn mới trên màu nước của Hồ Gươm, những rặng
cây ven
hồ. Tôi ngỏ ý với bạn muốn xin làm chân phụ việc ở xưởng hắn để học
nghề sửa
chữa. Hắn hỏi tôi mấy năm ở Sài Gòn tôi làm nghề gì. Tôi nghĩ lại cũng
ngạc
nhiên không hiểu tôi đã sống cách nào, tôi không có nghề ngỗng gì hết,
tôi trả
lời như vậy với hắn. Hắn bảo tôi tại sao không xin đi làm, tôi còn đỗ
được cái
bằng Trung học Pháp đâu như hắn không có bằng cấp gì. Tôi nói tôi vốn
ghét ngồi
bàn giấy. Hôm sau theo lời hẹn tôi tìm đến xưởng máy. Tôi lên một
chuyến xe
điện đã đông người, chạy từng chặng nhỏ qua các phố tấp nập. Xưởng ở
trong ngõ
khuất nẻo giữa phố Tây. Tôi bước giữa hai hàng rào rậm lá mát mẻ xếp
đặt chương
trình trong đầu. Mỗi buổi sau giờ làm việc tôi sẽ thong thả về thư viện
nghỉ
ngơi đọc sách. Ông quản lý chưa đến, tôi phải đợi. Tôi ngồi trên cái đe
sắt
giữa sân, chung quanh bừa bộn dụng cụ và người ta làm việc. Thỉnh
thoảng tôi
cũng chuyển dùm lên tay, không rời chỗ cho người khác, cái búa cái lặc
lê… Nắng
đã làm tôi bứt rứt nhấp nhổm. Ông quản lý đến. Hắn trông thấy tôi từ
cổng vào
và mỉm cười với tôi. Song hắn còn đi dặn bảo công việc cho mọi người
khắp lượt
mới đến chỗ tôi. Hắn rủ tôi ra ngoài đường. Hắn lại đưa tôi vào quán
nước hôm
qua, ngồi đúng cái bàn cũ. Ngập ngừng mãi hắn ngỏ ý khuyên tôi tìm việc
khác
làm vì hắn thấy công việc ở xuởng không hợp với tôi. Lúc ấy tôi mệt mỏi
ngáp
dài không buồn trả lời. Hắn móc túi cho tôi ba trăm bạc. Bắt tay từ giã
hắn tỏ
ra ân hận đã không chiều ý tôi nhưng hắn nhấn mạnh rằng như thế rất hợp
lẽ và
tốt cho tôi về sau này.
Tôi lủi thủi trở về thư viện. Chỗ
tôi thường ngồi có người chiếm mất. Tôi bực mình, phòng đọc sách có
hàng chục
bàn trống sao hắn lại lủi vào góc ấy. Tôi đến đứng đằng sau lưng ghế
của tôi,
bảo với người ngồi rằng đó là chỗ hàng ngày của tôi chiếm yêu cầu hắn
rời đi
chỗ khác. Hắn ngửng mặt nhìn tôi, bộ mặt đẹp trai. Hắn rời sang ghế bên
cạnh.
Tôi ngồi vào chỗ xong lại bảo hắn tôi không thích ai ngồi gần tôi như
thế vướng
víu tôi lắm. Tôi yêu cầu hắn ngồi sang bàn khác và nên chọn bàn nào
khuất khỏi
tầm mắt tôi, tôi không ưa sự có mặt của người khác. Hắn lại nhìn tôi
một lần
nữa, hiền lành và dễ thương. Rồi hắn lặng lẽ thu xếp sách vở đổi chỗ
khác. Tôi
ngủ chập chờn rất nhiều giấc nhỏ trên ghế. Mỗi khi chợp đi trong đầu
tôi ồn ào
náo nhiệt, tỉnh lại chung quanh lặng ngắt quạnh hiu. Vào giữa trưa
tuyệt đối
yên tĩnh. Tấm kính lớn che mặt trước phòng đọc sách mỏng như tờ giấy.
Mọi người
đã về hết chỉ còn người thủ thư và người giám thị ngồi nguyên chỗ. Tôi
xuống
nhà gửi xe ăn trưa. Cái đầu ghế dài ở trong góc tối một người đã ngồi.
Hắn tỏ ý
muốn chào tôi và tôi ngạc nhiên không quen mặt. Hắn đứng lên, tôi ngồi
vào chỗ
bỏ trống. Trong tối nhìn ra tôi mới nhớ mang máng hình như hắn là người
đã
chiếm chỗ tôi hồi sáng trong phòng đọc. Tì tay vào tủ hàng, hắn trông
ra phố.
Dáng của hắn là học trò, người gầy dong dỏng, tay chân quều quào như
củi. Mái
tóc chải lật ngược đầu lớn so với mình. Mắt hắn mỗi khi nhìn buồn một
vẻ thản
nhiên. Tôi bỗng thấy tội nghiệp hắn. Và tôi gợi chuyện trước để chúng
tôi quen
nhau. Tên hắn là Quang.
Từ sau mỗi lần ra thư viện Quang
ngồi trước mặt tôi. Công việc của hắn là chép và tự minh họa những bài
thơ lãng
mạn vào một cuốn vở đóng bìa gáy da kỹ lưỡng. Tôi bực mình một hôm đã
giảng cho
hắn biết cái lãng mạn ấy lỗi thời lắm rồi. Đời sống của người ta không
phải là
những giây phút ngồi gọt rũa tỉ mỷ những cảm xúc, tình ý vụn vặt. Đời
người là
một sự trống rỗng lớn cần lấp đầy bằng tất cả những gì mình có, nghĩa
là sự tự
do của mình. Đừng giết thì giờ lối đàn bà. Và trong khi hắn ngồi viết
như thế
có nhiều người đang chết. Nghe tôi nói Quang buồn lắm, hai tay hắn lúng
túng
vụng dại. Hắn tâm sự với tôi về gia đình của hắn. Mẹ hắn nghiện thuốc
phiện,
hắn còn chị cả chưa lấy chồng, một đứa em trai học cùng lớp và bốn đứa
em nhỏ.
Gia đình nghèo túng, hắn đang nạp đơn xin việc. Hắn tiếc không được
theo đuổi
học hành và biết mình không đủ thông minh, tinh thần để tự học. Đứa em
trai học
ngang hắn thông minh xuất sắc hơn hắn. Hắn thú nhận rằng bản chất của
hắn là
yếu đuối không thể sống mà không nương tựa vào kẻ khác. Có phải ai cũng
phá vỡ
được hiện tại của mình để phiêu lưu vào tương lai đâu. Tôi bảo hắn tôi
là người
rất ghét nghe chuyện tâm sự. Tôi không nghèo nàn đến nỗi phải giả bộ
sống bằng
những mẩu chuyện tưởng tượng của kẻ khác. Nội đời của tôi đủ cho tôi
sống chưa
hết, đủ cho tôi biết thế nào là khổ sở, là ý nghĩa của kiếp người. Đời
hắn là
của hắn, hắn phải tự nhận lấy mà sống, tôi không can dự gì hết. Rồi tôi
mỉm
cười nói cho hắn biết thật ra sự khổ sở
của hắn cũng chẳng lấy gì thê thảm lắm. Sau buổi nói chuyện ấy chúng
tôi yên
lặng nhưng vẫn chơi với nhau.
Mùa hè, tôi và Quang thân
mật với nhau hơn, chiều chiều tôi đi
chân với Quang về qua nhà hắn. Nhà Quang ở là buồng trong một căn nhà
bị trái
phá bắn sụp phía ngoài. Gạch ngói được xếp đống gọn gàng, nhưng cỏ
hoang mọc
bừa bãi trên nền đất. Tôi dậy thêm mấy đứa trẻ hàng xóm cùng lũ cháu và
chị tôi
mua cho tôi được một chiếc xe đạp cũ. Thỉnh thoảng tôi đèo Quang xuống
Hồ Tây
tắm. Hắn không biết bơi chỉ ngồi trên bờ trông quần áo cho tôi và mơ
mộng. Một
bữa tôi nhất định kéo hắn xuống nước, hắn suýt chết đuối nếu tôi không
bình
tĩnh. Lên bờ mặt hắn tái mét thở không ra hơi. Khi về hắn bảo nếu chẳng
may hắn
chết hôm ấy gia đình sẽ cho là hắn tự tử vì thất tình. Cô hàng xóm hắn
để ý vừa
bỏ nhà theo trai. Tôi cười riễu nói rằng chỉ những anh chàng yếu đuối
mới cần
ái tình làm chỗ trốn thân phận và mới thất vọng ê chề. Người ta dễ yêu
nhất vào
trường hợp nào? Khi người ta thất bại, khi người ta sợ phải chịu đựng
kiếp sống
một mình nghĩa là khi người ta bỏ chạy. Quang không bày tỏ ý kiến. Tôi
đưa hắn
về nhà và đạp xe đi chơi.
Thành phố Hà Nội đông đúc hơn
trước. Buổi tối đã nhiều người dạo mát quanh bờ Hồ và những phố buôn
bán. Tôi
ra bờ sông, lên nằm dài trên một đống cát còn ướt người ta vừa lấy ở
dưới sông
lên. Tôi nằm im và buồn không muốn cử động.
Ít hôm sau Quang từ biệt tôi để đi
làm. Hắn xin được một chân Công An, hắn nhìn tôi dò xét ý kiến. Tôi
chẳng quan
tâm. Hắn cười cho biết thêm nhiệm vụ của hắn là ngồi bàn giấy biên chép
tên
những người hồi cư. Hắn phải lên quận VT thuộc tỉnh Sơn Tây. Hắn muốn
được cùng
tôi đi chơi. Tôi từ chối vì vốn ghét cái không khí những buổi chia tay.
Hắn bắt
tay tôi về nhà thu xếp hành lý. Tôi chúc hắn may mắn.
Thỉnh thoảng được ngày nghỉ về Hà
nội Quang vẫn tìm gặp tôi. Nhưng chúng tôi chẳng biết nói chuyện gì với
nhau
nên những cuộc gặp gỡ hết sức ngắn ngủi và tẻ nhạt. Hồi này tôi được
một người
quen cũ của gia đình giao cho trông nom một tràng than. Công việc bận
rộn suốt
ngày, tôi không còn thì giờ nghĩ ngợi lăng nhăng. Lần gặp cuối cùng tôi
thấy
Quang đen và vững chãi hơn trước, tôi bảo hắn biết điều ấy. Quang mỉm
cười
nhưng con mắt thì vẫn buồn một vẻ thản nhiên.
Khoảng hơn tháng sau tôi đọc báo
thấy tin quận VT nơi Quang làm việc bị tấn công trong đêm tối, tất cả
nhân viên
trong quận đều bị bắt mang đi. Tôi muốn tới hỏi thăm gia đình Quang
song lại
thôi vì nghĩ không quen ai. Tôi qua lại nhiều lần căn nhà đổ nát nhìn
vào trong
thấy ánh đèn thấp thoáng rồi không vào. Tôi bỏ đi trong các phố tối
nhiều cây.
Trời đã lại mùa đông rét ngọt. Tôi hút nhiều thuốc đến buồn nôn. Khi
trời đã
khuya lắm, tôi lạnh nổi gai ốc cùng mình, ngực cồn cào khó chịu. Tôi
phải ngồi
dựa vào cửa một căn nhà và oẹ cho nôn mửa, nước mắt nước mũi đầm đìa.
Tôi ngoẹo
đầu vào tường đá hoa nghỉ ngơi dễ chịu. Trước mặt tôi là cái cầu đá xe
lửa cao
và rét với những lần cổng đục tối om. Nôn xong tôi lại hút thuốc lá.
Người tôi
nhẹ như khói. Tôi không nhớ tại sao tôi lại về được đến nhà lúc nào.
Công việc bán than không chạy, tôi
nghỉ việc và lại ra thư viện. Phòng đọc sách nhiều người đến làm việc
hơn
trước. Tôi không còn chiếm được chỗ ngồi cố định thường lệ nữa. Vả lại
tôi cũng
không còn muốn ngồi suốt ngày vì không được ngồi cô đơn. Trong dịp này
tôi gặp
và quen Tuấn - em trai của Quang. Đúng như Quang nói, Tuấn thông minh
lanh lẹ
hơn Quang. Hắn hay đọc sách chính trị và có nhiều cao vọng. Tôi không
thích
Tuấn nhưng thường nói chuyện với Tuấn nhắc tới Quang. Tuấn chê anh là
an phận,
tầm thường. Đối với tôi Tuấn cũng coi là cùng một loại. Tuấn cho rằng
muốn làm
được việc lớn nhiều lúc phải hy sinh những người thân của mình dù có
phải làm
cho họ khổ sở, không phải là ích kỷ, vì việc làm của mình sẽ có ích lợi
cho một
số người nhiều hơn. Nên mặc dầu biết gia đình nghèo túng, Tuấn vẫn
không muốn
đi kiếm tiền giúp gia đình sợ làm lỡ dở sự nghiệp to tát sau này của
mình. Tôi
không bao giờ nói gì với Tuấn hết.
Sáu tháng
sau ngày bị bắt Quang
trốn thoát trở về Hà Nội. Tuấn cho tôi biết tin. Quang đi bộ ròng rã
một tháng
trời và lạc ở rừng chịu đói chịu khát cho tới khi không bước được nữa
phải bò
phải lết. May gặp quân tuần tiễu Pháp nhặt được đưa về Hà Nội. Quang
sắp chết
và hiện nằm ở bệnh viện Đặng Vũ Lạc, Hàng Cỏ. Tuấn nói tại sao Quang có
thể ngu
dại chỉ vì gia đình mà liều lĩnh đến chết. Tôi tức giận mắng Tuấn là
thằng bất
nhân bất nghĩa. Tuấn sững sờ không ngờ tôi hung tợn làm vậy. Tôi nói
nếu Tuấn
xấc láo nữa tôi sẽ trừng trị Tuấn đích đáng. Đời người không thể giản
lược theo
mấy nguyên tắc về chính trị tư tưởng hay triết học, người ta không phải
bắt
buộc sống theo một vài khái niệm sẵn có. Tương lai không phải là con
ngáo ộp
dùng để dọa và bóp chết hiện tại. Phải làm đầy hiện tại, làm đầy… Tôi
tới ngay
nhà thương. Đẩy cửa buồng vào, tôi trông thấy một bộ xương trần truồng.
Thịt
không còn, da teo lại cháy xém, những đầu khớp xương nhô ra. Trên mặt
râu tóc
xồm xoàm, khô cứng. Tôi chỉ còn nhớ Quang nơi hai con mắt vẻ buồn vẫn
thản
nhiên. Quang cười, răng nhe ra vàng ớn, lợi đỏ và dài. Quang không nói
được.
Tôi lấy tấm chăn mỏng phủ lên người Quang, lát sau mẹ của Quang trở
vào. Mặt và
môi bà thâm xịt nhưng mắt đỏ hoe hai tay gầy guộc run rẩy. Bà kể lể
biết bao
nhiêu nỗi đau lòng. Bà lật lại chỉ cho tôi trông những khuỷu tay khuỷu
chân
trầy loét cả xương. Tôi vẫn trông vào mắt Quang, mắt Quang vẫn đảo được
và Quang
quay mặt đi. Quang không thể cựa quậy, không thể mặc quần áo được.
Quang tỏ dấu
cho mẹ im lặng. Hai hôm sau Quang chết.
Đám ma Quang đưa vào buổi sáng. Đêm
hôm trước tôi không thể ngủ. Sáng tôi dậy trước cả những chuyến xe
điện. Tôi
nhẩy chuyến xe đầu tiên lên phố. Buổi sáng mùa hè mát mẻ, bánh xe lăn
rần rần,
tiếng chuông điện kêu ríu rít. Tôi đứng tựa sau xe cạnh thúng mủng của
vài
người từ ngoại ô vào. Những người ấy xuống chợ Đồng Xuân, tôi còn lại
một mình.
Qua Hàng Đào, căn nhà đổ nát đầu phố đã biến mất mang theo cả những
mảnh vải
rách rưới, tôi mua vé đi hết đường. Hành khách buổi sáng thưa thớt. Tầu
băng
ngang thành phố để lại ra ngoại ô. Tầu chạy sát vào những mặt nhà thấp
chưa
tỉnh hẳn. Tôi cứ nhìn vào sự chuyển động ấy mà thấy chóng mặt. Ở trạm
nghỉ cuối
cùng tôi bước xuống vỉa hè sứt mẻ, dưới đường cát bụi lồi lõm. Tôi đi
bộ vào
trong làng để đến nghĩa địa, khu đất rộng ở trên một gò cao. Từ đấy tôi
có thể
quan sát cảnh vật chung quanh, một vài người đứng trơ vơ giữa đồng rộng
và một
khu đồn rào nứa.
`Trên cỏ sương hãy còn ướt, một vài
lỗ đất đã đào sẵn sâu hoắm. Tôi trải lá và giấy dưới một gốc cây ngồi
đợi đám
ma của Quang. Mệt quá tôi có ngủ đi mất một lúc. Bàng hoàng tỉnh dậy
đám ma vẫn
chưa tới. Nhiều tiếng chim hót trên đầu. Đã nhiều năm tôi không để ý
nghe tiếng
chim hót bao giờ. Tôi đứng lên và lắng tai. Xa xa thoảng lại cả tiếng
xe điện
chạy và tiếng chuông vội vàng. Từ phiá rặng cây ở chân trời con đường
đất tiến
lại qua mắt tôi. Một thứ tiếng động ầm ĩ không biết phương nào đưa tới.
Tiếng
động rõ dần làm rung chuyển mặt đất lan tới chỗ tôi đứng. Một đoàn
chiến xa
xuất hiện bò lùi lũi. Mặt đường bị đào lên. Đoàn xe càng tới gần tôi
càng đinh
tai nhức óc. Thân thể tôi cũng rung lên như mặt đất mỗi lúc một dữ dội.
Tôi
nghẹn ngào và lại nằm lăn xuống cỏ. Chân tay mặt mũi tôi như bị cào cấu
bởi
những móng tay sắc. Lát sau thì cảm giác tê dại. Trong tận cùng của cơ
thể sự
vùng vẫy từng hồi yếu dần và lịm đi. Tôi nhắm mắt vì nắng rực rỡ ở trên
mi. Đầu
óc tôi rất sáng. Giá lúc ấy người ta mang chôn tôi, tôi cũng biết nhưng
không
thể nào làm gì để chống lại.
Thanh Tâm Tuyền
[Trích lại từ Khởi Hành, số Tháng Tám,
2004]
tanvien.net
|