CÁNH ĐỒNG
BẤT TẬN
Truyện
Nguyễn Ngọc Tư
1.
Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng
rộng. Và khi chúng
tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng
đổ xuống
nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn
nhang chưa
rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới
sàn ghe,
bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt
nước váng
phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con
vịt đói,
nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới
rào bầy
vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.
Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm
đã lên tim, người đàn
bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau
dưới
những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và
dưới
cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những
mảng
thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.
Và những chân tóc trên đầu chị cũng
đang tụ máu. Người ta đã
lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước
khi dừng
chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên
cái nền
vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng,
đôi lúc
lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã
vực tinh
thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng
vẻ hằn
học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo
đói no
giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng
mới nảy ra
trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc,
hì hục
như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị
vùng
dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân
tôi, đến
chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.
Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp
nhận việc con mồi bỏ
chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân
Tiên, tôi
lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống
thục mạng
ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao
xuống, nhảy
nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao
tác kêu
dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ
khan, rung
bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói
trôi về
phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo,
bàn tay
nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất …
Cha tôi không đóng vai trò gì trong
cuộc tháo chạy ấy, ông
im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong
ghe, lấy
áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi
rướm máu.
Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.
Suốt một quãng đường, chị không hề
thay đổi thế nằm, im lìm,
lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên
khi dài,
khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…
Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn
sống, để đi với chúng tôi
gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo
lắng khi
nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó
thấy
tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không
vô, nói
chi…”
Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị
không ăn. Chị từ chối
cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một
vài ngụm
ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn.
Người
ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…
Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa
cơm. Tôi nghe hai
người lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó
tôi và tôi
thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước
vào
chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào
trong xóm.
Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.
Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay
về, Điền không mang
theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó,
bóng
mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như
đá.
Điền bảo, “Keo dán sắt…”. Dường như những người sản xuất ra loại keo
này cũng
không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo
ra,
mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó
về chỗ
khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…
2.
Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi
và Điền, chẳng có nơi
nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà
chúng
tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn
cắn, chỗ
tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào
khác,
nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.
Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy
được, ngó quanh, chị hỏi,
“Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè”. Làng xóm xa xa đằng phía
những rặng
dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây
gòn. Hai
đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc
nhiên
đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và
ngọt
ngào.
Chị hỏi “Tắm ở đâu, mấy cưng ?”. Tôi
chỉ xuống kinh. Chị ngó
những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.
Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc
quanh, rau muống chằng
chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền
đã câu
được những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng
kỳ cọ
gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi
thấy máu
lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì
với chỗ
keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như
lúc đi,
chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc
áo sơ-mi
thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.
Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi.
Chỉ có cha là hờ hững
với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha,
chị ngó
về phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: “Ba
mấy cưng
đẹp trai dễ sợ…”.
Vì lẽ đó ? Có phải vì cha mà chị ở lại
với chúng tôi, trên
một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị
đánh
hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”.
Rồi có
lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền “chắc mấy
cưng
không biết đâu…”.
Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp
nhiều, rất nhiều người
phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh
lều của
những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng.
Họ cố làm
ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước
mắt.
Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn
man… lên
trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều
thắt
lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những
đôi
người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người
họ vẫn
điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng
ngịu,
cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất,
đem theo
mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.
Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ,
đói rã ruột ở thị thành
mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt,
thực
chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những
món
tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng
chuối chín.
Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào
trò chơi
giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn
vay xoá đói
giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn
người đàn
ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con
nheo nhóc
bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.
- Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta
nên lâu lâu bị đánh
cũng đáng đời, hen mấy cưng ?
Chị nói, và ngã nghiêng cười, dường
như chị thấy mình trả
giá vậy cũng vừa. “Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở
chung
vầy, vui thiệt vui...”.
Cha không vui, vì có thêm một miệng
ăn. Bầy vịt cũng không
vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước qua rào, “bà ở đây làm chi
để phần
ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông
thấy cha,
đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà”. Chị nhảy xổm ra, la oai
oái, sau
lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha) “mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ
khoái
chị, mấy hồi…”.
Nhưng tôi và Điền biết thể nào chị
cũng ra đi, trong mỏi
mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì thế cũng mong manh. Nhiều
khi lùa
vịt ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.
- Mấy cưng thương chị thiệt hả ? Tội
chưa… !?? ”.
Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa
trên má thằng Điền (mà
chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). Thật
cảm
động khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà hai đứa nhỏ này lại trìu
mến, quyến
luyến lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một
mùa hạn
nóng bỏng, bất thường.
Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài.
Mới rồi, chúng tôi dừng
chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại
không có
nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất
chọi
chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua
nước
ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài vì đường xa,
nước mắc.
Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì
phèn,
rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong
dành rửa
cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn
đái vô
chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo,
“ước làm
sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời”. Câu nói này làm
tôi
thương anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ
“Không
biết em có muốn ở lại với… má tui?!”. Tôi lắc đầu, hai gàu nước ít ỏi
của má
anh, tôi nỡ nào sẻ nửa ?
Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ
đó. Những cánh đồng
chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Người ta không thể trồng
đậu,
trồng dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô
trơ
lòng.
Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nước đã
sắc lại thẫm một màu
vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia
của sông
Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa này, người ta lấy
nước từ
tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để bơm vào rừng, chống cháy.
Chúng tôi
cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm
dịch thú
y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng
bằng.
Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó
đồng nghĩa với việc
đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng
được nuôi
trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô
quắt queo
trên đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa.
Trứng thưa
thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh,
vỏ dày
sần sượng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt
ba mùa
trước, đã vô vọng vì ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn.
Ngay cả
nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.
Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.
Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng lưới,
nhắp cá và tát những
cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho
cha vài
mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu
khích,
“Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…”.
Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào
cha. Một bữa chị bảo
Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ
nhờ,
trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy, xoay trở
liên tục,
nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao
thức,
dường như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái
chòi nhỏ
trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang
chao.
Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi
tôi, “người ta thương
mẹ ra làm sao?”. Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay
con cá
thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho
mẹ. Và
niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào
da thịt
người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con.
Nhưng
những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu
đựng một
mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau
nhói, cái
gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề ?
Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi
thiếp đi, nó nằm co quắp,
hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá. Chị bước ra
khỏi
chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé
mắt. Khuôn
mặt chị tràn ngập ánh sánh, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Có
một con
đường nào đó trãi dài trước chị. Chị cười, bảo :
- Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiểu
lên mặt chị hoài, nhột
gần chết.
Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo
lên hì hụi thổi lửa,
đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh
ấy làm
tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười. Vì cái cười đó
mà tôi ứa
nước mắt thêm lần nữa.
Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa
cơm, khi nhà đủ mặt,
“Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên,
sự
khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo
ngực, cười,
“Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng”.
Điền và tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi
cho là chị buồn, dù
chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt
buổi,
không dính con cá nào, chị nói, “Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này
còn chê
chị”. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương. Điền lặng bắt
con cá rô
lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu
lên thì
đã thấy chị cười.
Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới
nước rất lâu. Chị cười
nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng
nét mặt
chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con và thằng em trai
mười bảy
tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn
cào chỗ
bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện
ra một
mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên :
- Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng ?
Chị toàn hỏi những câu hỏi khó. Chỉ
nghe thôi đã đau, nói
chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi “Má mấy cưng đâu ?”, “Nhà mấy
cưng ở chỗ
nào ?”, thằng Điền đổ quạu :
- Biết chết liền !
3.
Những chiều ghe chúng tôi đi ngang qua
những người đàn bà
ngồi giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có phải tôi vừa ngang
qua má đó
không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má nhưng rồi ngày càng tuyệt vọng
khi
thấy nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai này gặp lại mà không nhận ra nhau,
lòng nghe
buồn thiệt buồn.
Má tôi hay mang xoong chảo ra bực sông
chùi lọ nghẹ, sẵn đón
ghe hàna(bông mua ít rau cải tươi và bán lại những quày chuối chín bói
trong
vườn. Dần dần, buổi chiều, đám thương hồ hay lại neo ghe chỗ mấy cây
mấm trước
nhà. Một người bảo không sao xa được người đàn bà có cái cười làm lấp
lánh cả
khúc sông. Má tôi nguýt dài :
- Dóc…
Người đàn ông cười hề hề, thề “ Tôi
nói láo cô Hai cho xe
đụng chết ngắc” (Ngay lập tức, Điền thì thầm, “thằng chả ở dưới ghe
kiếm đâu ra
chiếc xe, nói dóc…”, và bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi
nhìn
khuôn mặt và tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo “Tại
hồi đó
má ổng mới sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm lum”).
Cho dù người đàn ông ấy có quá nhiều
nốt ruồi, cho dù chẳng
cao ráo, đầu ít tóc… nhưng với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người
đàn bà
lam lũ quê tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành
trẻ thơ
khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn
rồi dùng
dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi
ngang qua
bồ lúa vừa hót bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa
một ít
tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới
bệnh
tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gã chồng cho con cái.
Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau Tết. Điều
đó làm má tôi hơi
buồn, nhưng người bán vải xăng xái bảo, “Cô Hai cứ coi đi, không mua
cũng được
– rồi ông ta sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải
rực rỡ lên
người – Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà khoác lên mình cô Hai lại
thấy sang
quá trời”. Má bỗng nhiên thắc thỏm :
- Dóc…
Tôi chưa bao giờ thấy cái màu đỏ lạ
lùng ấy. Đỏ hơn bông bụp
ngoài sân, đỏ hơn máu. Má ngó chúng tôi, hỏi: “Gì mà nhìn trân trân vậy
hai đứa
?”. Tôi nói, “Má lạ quá hà, nhìn không ra”. Má mừng quýnh, “Thiệt hả
?”. Tôi
muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại mừng ?
Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng
cuối gì, chỉ thấy vía
má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy,
siết dần
cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời.
Giật
mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con chó Phèn
ngoài hè nôn
nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lổ chui (Chắc má tưởng hai chị em tôi đi
chơi nên
chốt cửa trước cửa sau mất rồi). Mà Điền ngồi ém ngay đó, lì ra, không
cục cựa,
mình nó mướt mồ hôi, không có vẻ gì là nó đang khóc, nhưng nước mắt
chảy ròng
ròng. Tôi ôm đầu nó, giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.
Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa chín
tuổi úp mặt vô áo chị
nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên chiếc giường tre quen
thuộc, má oằn
uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã.
Rên xiết.
Đó là hình ảnh ấn tượng cuối cùng của
má tôi trên nền một
cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ
lúa nhỏ
dựng gần giường ngủ, và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối đi
ra vườn,
ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục
lót để
suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn.
Suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám
nhớ má, bởi ngay vừa
khi nghĩ đến má, ngay lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ
trên da
thịt màu vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà,
đáng lẽ
phải nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi
giặt áo bên
hè, hay má cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…
Má có rất nhiều hình ảnh đẹp, và cả
khuôn mặt lo lắng của má
khi chiều ấy vẫn còn đẹp, nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên
mặt
thằng Điền, má thảng thốt hỏi : “Mèn ơi, mắt con sao vậy ?. Tôi trả
lời, day
day chậm rãi, “Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má. Trưa nay nó ngủ
kẹt bồ
lúa”. Má chết lặng nhìn tôi, cái nhìn như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não
nề.
Không thể giải thích vì sao tôi lại hể hả.
Và tôi luôn nghĩ rằng chính vì câu nói
đó mà má tôi ra đi.
Tôi chạy qua nhà hàng xóm, nói với
thím Tư rằng má đi mất
tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người
vui vì
con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm
thèm dòm
ngó, cũng có người buồn, ghe vải chắc chẳng quay lại xóm này. Mọi người
bàn ra
tán vào, xôn xao, bắt tôi nhớ lại coi trước lúc đi má tôi có hành động
gì đặc
biệt mang tính dự báo không? Chuyện này quan trọng lắm, nó cho người ta
tự kiểm
tra trình độ trải nghiệm, suy đoán. Thí dụ như nhà nào có người mới mất
họ kêu
lên, hèn chi đêm trước có nghe chim cú kêu, thê thiết lắm. Thí dụ như
nhà nào
bị mất trộm, họ bảo nhau, hồi hôm tui nghe tiếng chó sủa thiệt kỳ, là
tui nghi
rồi… Nhưng chuyện ra đi của má tôi không mấy ly kỳ...
- Hồi chiều má con không nấu cơm…
- Vậy sao ?
- Má con nằm trên giường thở dài…
- Vậy hả ? Thở ra làm sao ?
Tôi hết biết tả. Tiếng thở thườn
thượt, nghe buồn mênh mông,
chảy từng giọt như nước mắt. Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết
mai mốt
cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng
như
bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước
bến, má
cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài cả
khi thằng
Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo, má ơi.
Mọi người không thất vọng, họ cho thời
gian lùi lại xa xa,
thì ra cũng đã có điềm báo trước mối nhân duyên này tan rã, ngay cái
bữa đầu
tiên, ngay lần gặp đầu tiên. Má tôi ngồi khóc bên bực con sông Dài, cha
tôi
chèo ghe đi ngang, đã qua khỏi một quãng nhưng vì mủi lòng, cha quay
mũi lại.
Cha hỏi, cô về đâu tôi cho quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn rụa
nước, “tôi
cũng không biết về đâu”. Cha tôi chở người con gái tội nghiệp này về
nhà, và
trong thời gian suy nghĩ tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất rồi, sau
đấy thì
đẻ hai chị em tôi. Rõ ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ quá
giang một
khúc đời rồi đi, ai cũng linh tính vậy, chỉ cha tôi là không, nên bây
giờ mới
khóc hận, cười đau.
Tới đây thì hết chuyện nói, hàng xóm
ra về. Giống hệt như
vừa tan đêm hát, họ xì xào đi vào trong đêm, tiếng chó sủa rộ lên dài
theo
những con đường xóm. Tôi và Điền nằm nhìn trân tráo lên nóc mùng, nghe
gió hui
hút trên những ngọn tre già bên hè. Một hồi, thím Tư qua, thím kêu hai
chị em
tôi qua nhà thím ngủ.
Sáng sau, thím đi chợ, tới bến tàu,
cho hay “Vợ Út Vũ bỏ
nhà. Theo trai” Ông chủ chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy
bà bạn
hàng, và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên đòn
dong cho
một ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn cười, giọng ra vẻ giận,
“Bộ hết
chuyện giỡn rồi sao, cha nội ?”. Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ
rằng, chỉ
cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ
được đền
đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười… Và cha tuột xuống đất, run rẩy…
Quãng hành trình về nhà có vẻ rất dài
và khắc nghiệt, nó vắt
kiệt cha tôi. Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong
nhà, còn cả
cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm, chỉ cần
thằng
Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi “Đi chuyến này nữa là đủ
tiền mua
ti vi màu, phải hôn anh ?”.
Coi kỹ thì má không đem theo gì. Chi
tiết đó làm đau lòng
người ở lại, nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không
một chút
trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.
Cha đem tất cả đồ đạc của má đem đốt.
Khói bay mù mịt trong
nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy khét lẹt, những cái áo hồng áo tím rúm ró
lại, chảy
thành những giọt tro. Cha nhìn ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt bỗng rực
lên,
ngây ngất vì một ý nghĩ mới lạ.
Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái
lại căn nhà đang quay
quắt dãy dụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của
những
thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau. Chắc chắn sẽ có người
vỗ đùi
cái đét, “Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi thể nào
thằng chả
cũng đốt nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy, các cha”.
Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời
chị, nhà tôi, má tôi,
rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những
người
nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang
thang.
Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng
này đến cánh đồng
khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống
đời du
mục, tới những chỗ vắng người. Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường
của gia
đình tôi, và ít hỏi cái câu, “Má mấy đứa nhỏ đâu?”. Để cha phải buột
lòng nói
“chết rồi !” và cười lạt khi nghe người nào đó kêu lên : “Mèn ơi, tội
hai đứa
nhỏ hôn”.
4.
Lần đầu tiên hai chị em tôi lạc giữa
đồng. Cơn mưa buổi xế
chiều làm tắt rụi ánh mặt trời, và đêm tối nhanh chóng ập xuống. Mưa
giăng bốn
bề, những rặng vườn trở nên xa vời, mờ mịt, căn lều và chiếc ghe của
mình nằm ở
phía nào vậy ta, Điền hoang mang hỏi. Chúng tôi lội xom xom xuống một
mé vườn
và rã rời tuyệt vọng xua bầy vịt quay ra. Cha tôi đã bỏ về ghe từ giữa
trưa, có
thể cha đã uống rượu say và ngủ mất tiêu. Có thể cha còn thức nhưng cha
không
đi tìm. Khóc đã đời, một hồi, thấy trời ngày càng tối, chúng tôi quyết
định
buông trôi, tha thểu đi theo bầy vịt, biết đâu…
May sao, chúng nhớ đường về. Khi nhìn
thấy ánh đèn chong leo
lét đầu ghe, chúng tôi mừng như chết đi sống lại, Điền nắm tay tôi chạy
như
điên, nước đồng văng sáng trắng. Bầy vịt tao tác một phen (báo hại đêm
đó tụi
nó nín đẻ). Cha tôi ngồi chờ bên cạnh cây roi.
Sau này, đã tự học cách định hướng
bằng bằng mặt trời, bằng
sao đêm, bằng gió, bằng ngọn cây… nghĩ tới lần lạc đồng, thấy cười quá
chừng.
Mắc cười hơn là Điền, vốn rất sành sỏi đường đi nước bước, lại bị lạc
lần nữa,
giữa ban ngày. Nó loay hoay ở giữa một gò đất chùm gọng leo dày mịt,
không biết
vô đó bằng đường nào nhưng chẳng thể quay ra, có người đàn bà bưng rổ
bánh quy
lại, biểu nó ăn. Đói quá, thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm
được nó nhờ
tiếng rên ư ử, bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay
lại không
có bóng người, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh.
Những ngày sau này, tôi một mình trở
lại gò đất, nhưng chờ
hoài không thấy ma hiện ra. Nghe thằng Điền kể, người đàn bà đó thiệt
hiền, chỉ
đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu. Tôi nghe mà khóc
muốn
chết, sao con ma đó không chịu giấu tôi giùm cái.
Rồi tôi ngồi quẹt tay lau nước mắt đi,
kỹ càng, để gương mặt
an nhiên, ráo hoảnh. Tôi quyết không để cha thấy mình buồn, quyết không
để cha
bật ra cái câu “Chịu hết nổi cái cảnh sống này rồi hả ? Chừng nào đi ?”.
Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường
đánh khi vừa ngủ dậy.
Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc dài, mở
mắt ra,
vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh. Và
tôi tự
nhớ lại coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá
bỏ quá
nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? Hay tại tôi ngồi bắt chí
cho thằng
Điền ?
Hay tại tôi càng lớn càng giống má. Có
bữa, nửa đêm thằng
Điền thức giấc, nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó thảng thốt
kêu “Má
ơi!”. Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những
cái gì
liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ
hình hài
này.
Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau
chút lòng. Sau này chị
em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ vì
là con
của má, vậy thôi.
Với chúng tôi, quãng thời gian ấy vẫn
còn vui lắm, sau này,
cha tôi chán không đánh nữa. Cha ơ thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì
nói vài
câu nhát gừng. Cha giao bầy vịt cho hai đứa tôi, lúc rảnh ngồi gọt đẽo
những
cán dao, tấm thớt hay lẳng lặng vác cần câu đi câu cá, vừa bán được
tiền, vừa
khỏi phải nhìn những đứa con của một bà mẹ bạc lòng. Thành ra, cái ghe
thấy
nhỏ, lại rộng vô cùng tận, loay hoay chỉ ba con người, nhưng nhiều năm
trôi
qua, hai chị em tôi vẫn cảm thấy xa cách cha. Có lần, khi đi trên sông,
thằng
Điền giả đò té chìm ngỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi
giật mình
hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp
tục gọt
đẻo, chắc là nhớ ra thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn tuổi,
sức mấy mà
chết trôi.
Chúng tôi biết là khó đòi hỏi gì hơn
nữa, chỉ một chút xao
lòng của cha, là mừng lắm rồi. Cha giống như đồ vật bằng gốm vừa qua
cơn lửa
lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa
mà nhìn,
mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.
Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông
thênh thang mãi…
Tôi và Điền buộc phải tự học lấy cách
sống. Nhiều khi dễ đến
không ngờ… Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân
biệt vết
răng của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai
cái lổ
nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng
Điền chạy
một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái mạng để
rút… kinh
nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt tôi bị rắn
cắn, tôi
kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết thương nó
cười, nói
không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm máu giống hệt nhau
như vầy,
chắc cú là rắn bông súng cắn chơi thôi. Và nhìn bướm bay, nhìn mây trôi
tôi
biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng
ghe ở
một tuyến kinh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh
đồng và
tính toán xem có thể cầm vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc.
Hay
chúng tôi tự phán đoán ở đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để
rời cánh
đồng này, chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín
tới.
Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo
dài liên tục từ mùa
mưa sang nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở
trong cái
xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc
nhúc trên
thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối…
dự trữ
cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây, họ vừa gặt lúa vừa
nói
chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy vịt đang rúc rích tìm thức ăn,
nhưng tôi
vẫn nhớ...
Có lẽ vì cuộc sống của họ ngày càng xa
lạ, với chúng tôi. Họ
có nhà để về, chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc,
chúng tôi
thì không. Họ ngủ với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo
queo, co
rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm
bao. Điều
này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn
lại hình
bóng má cũng tan rồi. Mà, thí dụ như những cơn chiêm bao quay trở lại,
chúng
tôi không biết chắc là hình ảnh ấy của má có xuất hiện hay không.
5.
Mùa khô năm tôi mười ba tuổi, bầy vịt
lăn ra chết gió. Để
kiếm sống, cha tôi quay lại với nghề thợ mộc. Cha nhận đóng giường, tủ
cho một
vài nhà trong xóm Bàu Sen, chúng tôi neo ghe lại đó dài ngày.
Cái cảm giác đang ở xóm cũ (có ngôi
nhà cũ) vây riết lấy
chúng tôi (chữ “chúng tôi” tôi không kể cha vào). Những trưa xế ngồi
ngoài hàng
ba một nhà trong xóm, tôi tước lá dừa thắt cào cào châu chấu, Điền ngó
nắng
rưng rưng ngoài sân, nói “sao gió ở đây giống hệt gió nhà mình”. Hai
đứa tôi
muốn khóc.
Chị chủ nhà ngần ngại nói với cha,
“Ngó mặt hai đứa con anh
thấy thương quá, thấy… không bình thường”. Cha tôi cười nhẹ, “Vậy hả ?
Ờ ờ…”.
Đứa con gái chị chủ nhà trạc tuổi
thằng Điền, rủ chúng tôi
vào nhà chơi. Nhưng nó luôn nhận được những cái lắc đầu. Chúng tôi sợ
quá cái
bồ lúa trong nhà, hình ảnh nó làm cả hai chị em ngạt thở. Thật lạ làm
sao, khi
mà chúng tôi đã quen dần với những - hình - ảnh - giống - mình (tức là
bị bỏ
giữa đời chơi vơi), thí dụ như nhìn một chiếc đũa gãy, cái nắp nồi vỡ,
hay bầy
gà con lạc mẹ nhao nhác… Nhưng không quên được, cái bồ lúa ngai ngái
mùi *****
trâu, giữa nó và vách nhà là một khoảng hơi tối nhưng rất thu hút trẻ
con.
Chúng hay giả bộ đó là nhà của riêng chúng, để bày biện, nấu nướng,
đóng vai
chồng vợ, vai má con. Để lúc bị đòn, chúng cũng chui tọt vào đó, khóc
một mình,
nhiều khi ngủ quên luôn (và người lớn thì hãi hùng, sao không thấy đứa
nhỏ đâu,
nó bỏ đi về ngoại, nội? hay đã vô ý trợt chân té xuống đìa ?). Cái kẹt
bồ lúa,
cũng đã từng là thiên đường mơ mộng của hai chị em tôi, bẻ trái trứng
cá làm
cơm, muổng dừa là chén, giả đò “ăn” no, giả đò tối rồi, đi ngủ, một bữa
kia
chơi chán lăn ra ngủ thiệt, thức dậy bỗng thấy cuộc đời mình thay đổi
quá trời
đất, như đã sống qua một kiếp rồi. Nhưng chín mười tuổi đã đủ để gọi là
một
kiếp người chưa ?
Chúng tôi chẳng phải những đứa trẻ
bình thường, cuối cùng
nhỏ con chị chủ nhà cũng nhận ra, nó bỏ mặc. Nó là một đứa trẻ xinh đẹp
nhưng
hỗn hào, cái kỉnh, nó chẳng khi nào kêu má ơi má à, khi cần, nó chỉ cộc
lốc
bảo, tui đói bụng quá bà ơi. Người mẹ phân bua với cha tôi, “Tại ba nó
mê theo
vợ bé nên không ai dạy…”.
Chị cũng bận rộn, te tái cắp nón đi
suốt, tìm ông thầy này,
bà cốt kia, để thỉnh bùa chú cho ông chồng quay lại. Và mỗi khi thất
bại, chị
lại quả quyết là bùa của tình địch mạnh hơn. Nói như vậy dường như để
cho tâm
bớt đau trước sự thay lòng. Chị có cả một kho tàng về chuyện đồng cốt,
những
người có khả năng thấu đáo cõi âm, cõi trời và cõi người. Họ biết chữa
bệnh (có
thể lấy từ bụng ta ra một nùi tóc với cái lưỡi dao cạo, hay dùng hột gà
luộc
lăn trên da thịt ta, sau đó bẻ cái trứng ra cho ta coi một nhúm lông…
chó mực),
cũng biết dùng những tấm bùa được vẽ bằng máu… lưỡi để ếm chết người và
cuối
cùng, họ đem được người ta yêu trở lại. Chỗ này khá mắc cười, bởi tấm
bùa có
linh nghiệm thiệt thì người quay về cũng không phải của - mình. Những
săn sóc
nâng niu, những lời nói ngọt ngào… tất cả đều không thật (mình biết
tỏng tòng
tong là nhờ bùa ngãi chớ thương yêu gì). Và cái cười dịu dàng kia, ánh
mắt ấm
áp kia, nụ hôn ngọt ngào kia, vòng tay nồng nàn kia… cũng vậy. Đó là
chưa kể
phải thoi thóp lo âu một ngày bùa thiêng hết tác dụng, thằng đàn ông
rùng mình
một cái, ngơ ngác hỏi ủa, sao hai đứa mình nằm chung giường vậy, xin
lổi nghen,
chắc tại hồi hôm tui xỉn quá nên chui ẩu vô mùng bà. Rồi ông ta nhìn vẻ
mặt đau
đớn của mình, kinh hoàng: “Trời đất ơi, bộ tui đã làm gì bậy bạ sao ?”.
Tất cả
sẽ chấm dứt ở đó, ông nọ phủi sạch những ngày tháng mặn nồng. Với ký ức
trống
trơn, họ phơi phới ra đi, còn mình thì nhớ hoài, đau hoài…
Nhưng chẳng tin vào bùa thì còn biết
làm gì nữa, chị cũng đã
lặn lội tới nhà tình địch, đã xé quần áo của cô ta, xởn tóc, lôi xểnh
ra biêu
riếu giữa chợ rồi, chị kể. Bằng cái giọng rộn rã, giòn tan chỗ cao
trào, rồi
chị hết sức chậm rãi, tỉ mỉ, tả cái đoạn chị dùng dao rạch mặt cô ta và
xát
muối ớt vào (những người quê mình vẫn thường làm chuyện đó rất bình
thường, sẽ
buồn cười khi có ai đó nói làm vậy là vi phạm điều X chương Y luật hình
sự, họ
cãi ngay, “Ủa, nó cướp chồng tui thì tui phải đánh cho tởn chớ”, với vẻ
mặt tự
hào ngút ngất, tỉnh bơ, ngây thơ, tựa như một người đi qua trận địa cũ
và nói
với ông bạn mình, hồi năm bảy hai tui bắn thằng lính cộng hòa ở chỗ
này, óc nó
nát như chao, con mắt văng ra xa cả thước. Ông bạn chẳng ớn, nói tôi
cũng cắt
cổ thằng Mỹ ở đây chớ đâu)
Sau đận đó, chồng chị bỏ ngay cô nhân
tình này và trớ trêu,
anh ta chạy theo… cô khác. Ba mùa lúa rồi chị ra đồng một mình. Một
mình nuôi
con. Một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy mình…
Cái sàn lãn sau nhà đã ba năm vắng
bóng đàn ông. Một chiều
chúng tôi đến, xẻ mấy cây đố xong, cha ra đó tắm. Nước chảy re rắt trên
khuôn
mặt lạnh lùng, nước mỏng tang tràn qua những thớ thịt đỏ au của cha
tôi. Chị
chợt giật thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì không chịu nỗi
đôi vú
căng tức.
Ngay lập tức, tôi có cảm giác câu
chuyện về những lá bùa vẽ
nhì nhằng chị dấu trong áo gối, ém dưới chiếu, hay kẹt giường… không
còn ý
nghĩa gì hết. Chị cũng sững sốt khi nhận ra điều đó. Giường đã làm
xong, đáng
lẽ chúng tôi phải dời đi, nhưng chị chủ nhà muốn đóng thêm hai cái tủ
nữa. Chị
thuê hàng xóm xuống ao mò lên những thân gỗ đã ngâm lâu và chở tới
xưởng cưa.
Rõ ràng là chị không chuẩn bị trước, rõ ràng chị muốn giữ cả nhà chúng
tôi lại.
Chúng tôi được đối xử rất tử tế, ngoài
hai bữa cơm, buổi
trưa, chị hay đãi thêm nồi chè, hay khoai luộc. Chị nồng nhiệt bảo
chúng tôi
lên nhà ngủ, nhà rộng rinh như vầy không cớ gì phải ngủ ghe. Cha tôi
trù trừ
nhưng rốt cuộc cũng gật đầu (với một thoáng giễu cợt), thật không nỡ
chối từ
một tấm lòng như thế.
Tôi và Điền ở lại ghe, tôi nói, ngủ ở
đây gió mát quen rồi,
với lại, tụi tui phải giữ đồ. Nói tới chỗ này tôi mắc cười muốn chết,
chiếc ghe
tơi tả, đáng giá gì đâu mà giữ. Có mấy ông thống kê gì đó làm chứng,
mấy ổng đã
ngao ngán như thế nào khi thấy chỗ ở ngang mét hai dài ba mét mốt cho
ba nhân
khẩu, điều tra thêm thì phương tiện nghe nhìn giải trí chỉ cái radio
trị giá
mười bốn ngàn, nguồn nước sinh hoạt từ sông, thu nhập ờ thì vài ba
triệu một
năm, tuỳ vào ông trời, như năm nay, thì trắng tay…
Và ngó lại cái khạp da bò nứt, trong
rỗ úp vài cái chén
sành, một thùng giấy chứa quần áo cũ… thấy mình lấy cớ giữ đồ hơi vô
căn cớ.
Nhưng chị chủ nhà không để ý, chị đang ưng bụng, ngây ngất tràn trề
trong mắt.
Và cha tôi lên đó, một mình.
Tôi ôm quắp thằng Điền nghe những con
sóng nhỏ lách tách vỗ
vào mũi ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu
dựng trên
khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi và xao
xuyến
hỏi, má khoẻ hôn con ?). Thằng Điền hỏi lại, “Mắc gì mà nhớ ? Lãng
òm…”. Tôi
không biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên đồng, nhưng
đêm nay,
sao tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền để chữa mắt cho Điền (tôi vẫn
nghĩ,
sự xuất hiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người ta khóc). Đêm nay,
tôi sao
thế này ? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư ?
Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang.
Lúc thức dậy thì hy vọng cũng thức
theo, sáng hôm đó, tôi
thấy cha trút bỏ vẻ lầm lũi thường ngày, mắt ông hay rực lên, nói cười
rất lạ,
dường như cha bừng tỉnh nhận ra giá trị của mình, tìm thấy con đường sẽ
đi.
Những suy nghĩ cồn cào làm cho vẻ mặt cha lung linh như bầu trời nhiều
mây và
gió. Thoắt quang đãng thoắt âm u, thoắt khoái trá, thoắt đau đớn…
Chị chủ nhà cũng thất thường, đang
tươi hơn hớn bỗng bần
thần khi thấy cha đóng xong một cái tủ nữa rồi. Chiếc tủ chén này, cha
mất năm
ngày mới hoàn thành, nhưng không sớm hơn được, vì chị chủ nhà lúc thì
bưng nước
ra, lúc lại kêu nghỉ tay ăn bánh, anh thợ à. Nhiều lúc chơi ngoài hàng
ba, nghe
tiếng bào trượt trên ván ọt ẹt ngừng lại, buổi trưa im phắc. Và đống
dăm bào bị
dẫm tạo ra âm thanh lạo xạo lao xao lào xào. Chúng tôi biết chị đang ở
ngay chỗ
cha.
Không hiểu sao tôi lại nghĩ chị chủ
nhà chính là hy vọng để
chị em tôi trở về cuộc sống bình thường với một người - cha - bình -
thường.
Chúng tôi luôn tạo cơ hội, khoảng trống cho chị gần gủi với cha. Cực
nhất là
phải rủ rê lôi kéo nhỏ con chị chơi với chúng tôi, thằng Điền khó chịu,
“đồ con
nít…”. Tôi cười, “thôi, kệ nó…” mà lòng nghĩ, biết đâu mai mốt con nhỏ
này với
mình là một gia đình. Biết đâu đó là một mối tình dài.
Nên tôi thấy hơi lo khi cha sắp hoàn
thành chiếc tủ áo cuối
cùng. Buổi chiều, cha xin những mảnh cây ván vụn đắp vá lại mui ghe.
Nghĩa là
chúng tôi sẽ tiếp tục đi. Chị chủ nhà ủ ê, suốt buổi chị giằm đũa vào
chén cơm
nguội ngắt. Cha nhìn chị, cười nhẹ, rồi hỏi khẽ khàng :
- Cô đi với cha con tôi nghen ?
Như chờ đợi chỉ có thế, chị gật đầu,
mặt tở mở và rạng rỡ,
gần như không suy nghĩ gì (Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh như thế
sao ?).
Tôi bất giác ứa nước mắt, rồi nhận thấy cha đang nhìn mình, tôi bệu bạo
cười,
“cắn trúng cái lưỡi đau quá trời”.
Chị chủ nhà bắt đầu sống với những
giây phút bồn chồn, chị
loay hoay, te tái tới lui. Chị kiếm lủ khủ giỏ xách, những muốn gói
ghém thật
nhiều đồ đạc nhưng nhận ra chiếc ghe chẳng chứa nổi, nên quăng phẹp một
bên.
Cuối cùng, chị đưa nhỏ con về chơi bên ngoại, và trong lòng chị em tôi
bùi ngùi
tiễn nó đi như đưa tiễn một cuộc đời. Mai nó vẫn sống, nhưng mà sống
khác. Rồi
chị quay lại, ra bực sông, ngồi đắm đuối nhìn ngôi nhà của chúng tôi,
“những
ngày sắp tới của mình ra làm sao, ta?”.
Dễ hình dung lắm. Như chỗ cái sạp xỉn
màu tôi đang giặt vải
lau đây sẽ là nơi chị sẽ ngủ, sáng ra chị vẫn không phải rời chỗ ấy, vì
chỉ cần
ngồi dậy, day mặt ra phía sau là đụng bếp, là có thể nhen lên một lọn
khói buồn
teo. Mấy đêm đầu có lẽ không quen, vì phải nằm chèo queo, ghe thì chao
sóng.
Mấy đêm đầu chắc chị hơi ngại ngùng, mắc cỡ vì ở ghe không có vách
ngăn, vì thế
chị em tôi sẽ cố ngủ thật say, ngáy thật to để át những tiếng thở hổn
hển, dìu
dặt. Chị cũng sẽ mất khá lâu để thích hợp với nhiều hình ảnh mang tính
ước lệ,
thí dụ như mấy bụi hành ngò trồng trên cái xô bể (thay vì khu vườn cây
cỏ hoa
trái mênh mông), hay cái lò cà ràng nhỏ (thay vì cả một gian bếp ấm sực
mùi củi
lửa)… Và nghe cha tôi than, tôi chán cái nhà này quá rồi, thì cũng nên
hiểu là
không có cái nhà nào cả. Nhà chúng tôi là cái này, là cánh đồng nào đó,
con
sông nào đó... Riêng chúng tôi thì không cần chị phải yêu thương, chăm
sóc, dạy
dỗ gì hết. Chúng tôi không hy vọng điều đó (đến con chị còn không hy
vọng gì
mà). Ngay lúc này đây, cứ nghĩ, một bữa trưa mai trưa mốt nào đó, có
nắng hiu
hiu và gió hiu hiu, vì muốn chứng minh tấm lòng của mình với cha, muốn
tỏ thái
độ hoà hợp với hai đứa trẻ lạ lùng này, chị bắt thằng Điền lại, xối
nước kỳ cọ
những mảng đất đã dính khắn trên làn da mốc meo của nó, miệng cắm cẳn,
cằn nhằn
hay biểu tôi ngồi để chị thắt bím tóc cho, chắc tôi thấy khó chịu vì xa
lạ và
buồn cười.
Nhưng tiếc rằng không có ngày mai, mốt
đó. Chị bị cha tôi bỏ
lại, khi vừa đi được một đoạn đường. Một đoạn đường đầy khó khăn. Chị
buộc mình
tin rằng sự chọn lựa này là đúng, tình yêu này xứng đáng được đánh đổi.
Xóm
làng, ngôi nhà, vườn tược trôi tuột lại phía sau. Và đứa con gái… Rất
cố gắng,
chị mới thôi thảng thốt. Cha ghé một chợ nhỏ đầu xóm kinh, biểu chị lên
mua một
ít củ cải muối đem theo. Người vừa khuất trong tiệm tạp hóa, cha cười.
Chị em
chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ dội, đau đớn, hoang
dã, cay
đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt
cha hơi
lồi ra, ánh lên như có nước. Cha quăng đồ đạc của chị lên bờ vung vãi.
Và nổ
máy cho ghe đi.
Có ai chờ chúng tôi, trên những cánh
đồng khơi ?
6.
Trời đất ủ dột nhìn mưa vào mùa. Thằng
Điền kiếm được mấy
cây ô môi nhỏ, nó rủ tôi trồng. Chúng tôi dầm mưa, lấy mũi dao đào
thành mấy lổ
con con, rồi đắp đất ém gốc lại. Cái cảm giác mà cha tôi đã từ bỏ là
yêu
thương, che chở cho một sinh linh (yếu ớt, nhỏ bé) nào đó thật ngọt
ngào. Điền
biểu tôi chặt sậy cắm quanh, sợ mấy con vịt ăn trụi lá, với lại, bờ đất
này rất
nhiều người qua lại, không khéo là bị dẫm bẹp. Hai đứa ngồi nhìn công
trình của
mình, bỗng buồn, không biết mai này còn có dịp quay lại coi tụi cây này
lớn
lên, để trèo lên hái trái, để giăng cái võng, ngủ một giấc đã đời.
Chị em chúng tôi nảy ra nỗi thèm muốn,
khao khát được trồng
cây từ khi rời Bàu Sen, vì biết chẳng bao giờ quay lại sống - bình -
thường.
Dường như chúng tôi nhớ, nhớ cồn cào. Nỗi nhớ bao gồm được chạy chơi
trên cái
vuông sân mọc đầy vú sữa đất, được tự mình trồng cây gì đó, có trái, và
trái ăn
được, ăn rất ngon. Nhưng cái mơ ước nhỏ nhoi là nhìn nó lớn lên cũng
mong manh,
khi mà đến chưa nóng chỗ đã phải dời đi nơi khác. May là lần này chúng
tôi ở Cỏ
Úa khá lâu, chăm chút bầy vịt (mới gầy lại) “trơn lông bụng”. Thằng
Điền một
bữa ra coi cây bén rễ, nó bỗng chép miệng, “Ước gì đây là đất - của -
mình…”.
Tôi cười, điều đó thật xa xôi. Có lần,
đi qua xóm, trong một
buổi chiều, chúng tôi gặp những ông già ngồi chơi với cháu, thằng Điền
đứng tần
ngần bên hàng rào dâm bụt, bảo, “Phải chi ông này là ông nội mình,
thương đỡ
chơi, hen Hai?”. Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình nghèo rơi nghèo rớt,
nghèo đến
nỗi không có… ông nội để thương, thèm muốn bên đường. Tôi lắc đầu, bảo
thôi,
thí dụ như mình lỡ mến người ta, mai mốt dời đi, buồn dữ lắm. Mà, đã
ngấm, đã
xé lòng toang hoang với nỗi đau chia cắt rồi, chưa sợ sao ?
Sống đời mục đồng, chúng tôi buộc mình
đừng yêu thương,
quyến luyến bất cứ ai, để khỏi ngậm ngùi, để lòng dửng dưng khi cuốn
lều, nhổ
sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh khác. Chúng tôi vô định hơn bất
cứ người
nuôi vịt chạy đồng nào. Vì những cuộc tình của cha tôi, ngày càng ngắn
ngủi.
Cha tôi đã có - vẻ - bình - thường,
hay nói cười, hồ hởi
trong những lúc có người (chữ “người” này không tính hai chị em tôi).
Nhiều lúc
tôi không giấu được thảng thốt, cứ nghĩ mình đã gặp lại cha - của -
ngày - xưa.
Nhiều lúc tôi ngồi trông người trong xóm đi thăm lúa ghé qua chòi, lúc
ấy, cha
sẽ kêu, “Nương à, nướng mấy con cá khô, cha lai rai với mấy bác…”. Em
tôi cũng
sướng ran xách chai ra tiệm mua rượu, nó khoái chí nghe cha gọi, “Điền
ơi!
Điền…”. Vui được chút đó thôi, khi khuất bóng người, chị em tôi đắng
đót nhìn
cha hao hao người đóng tuồng vừa trút lớp. Xanh xao, lạnh lẽo đến ngơ
ngác và
cô đơn.
Không, lúc chỉ một mình, cha tôi đáng
sợ hơn thế. Cha giống
như con thú trở về tổ sau khi no mồi. Con thú nằm mơ màng nhấm nháp lại
hương
vị của miếng mồi, và ngẩm ngợi thòm thèm con mồi kế tiếp. Có lúc sự vật
lộn làm
vết thương cũ của con thú đau, nó liếm láp vết máu, và tôi hãi hùng
nhận ra chỗ
đau ấy cứ rộng thêm ra. Đôi khi tôi nhớ người đàn bà ở Bàu Sen, nhớ
bóng người
xấp xãi, ngơ ngác chạy theo chiếc ghe sáng ấy. Chắc chị đã quay lại,
đón đứa
con gái về, móc quần áo trở vô tủ. Có hề gì, rồi chị sẽ yêu một người
khác,
nhưng mãi mãi, chị không quên nỗi ê chề bị bỏ lại bên đường (bằng chứng
là ba
cha con chúng tôi có quên được đâu). Với những đàn bà sau này, cha tôi
tính
toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ
rơi họ
đúng lúc. Có người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình. Có người vừa nói
xong
những lời dứt tình với chồng, con. Có người vừa phủ phàng chia xong gia
sản, có
cô gái sắp về nhà chồng, củi to củi nhỏ chất thành giàn ngoài chái...
Hết thảy
đều cun cút tin và yêu. Cha mang họ đi một quãng đường vừa đủ để người
ở lại
nhìn rõ chân dung của sự phản bội, sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ.
Con đường quay về bị bịt kín.
Cha không tốn nhiều công sức cho việc
chinh phục (Những
người đàn ông quê mùa đã tự tay đẩy người đàn bà của mình đến với cha,
bằng
nhiều cách. Họ thích uống say, họ thích dùng tay chân để tỏ rõ uy
quyền. Mệt
nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô cằn, có khi cả
đời, họ
không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve,
âu yếm,
khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thoả mãn, rồi quay lưng ngủ
khò). Sẽ
còn bao nhiêu người nữa được cha tôi cho nếm thử niềm đau kia, tôi tự
hỏi mình
khi nhìn người đàn ông vào tuổi bốn mươi, quyến rũ từ cái cười, từ câu
nói, ánh
nhìn thăm thẳm, ngọt ngào. Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy được
đằng sau
khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt,
chơi
vơi, dễ hụt chân.
Nên mỗi lần cha nhìn đăm đắm và mỉm
cười với một người đàn
bà mới chúng tôi lại thắt thẻo. Thêm mối tình đau trước cả ngày thứ
nhất (mà
chị em tôi không cách nào ngăn được). Tôi có cảm giác cha quắp lấy
người ấy,
vùi mặt vào da vào thịt, ngấu ngiến mà lòng cha lạnh ngắt. Thằng Điền
cay đắng,
“Cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái…”. Tôi nạt,
“Đừng nói
bậy…”.
Nhưng tận đáy lòng, tôi cũng nghĩ, cha
hơi khác con - người.
Nhạt nhẻo hơn cả việc quan hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha tôi
không còn
một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã
tính
chuyện phụ phàng.
Cha đẩy chúng tôi trượt dài vào nỗi
thiếu thốn triền miên.
Mỗi lần rời khỏi một nơi nào đó, thật khó để phân biệt, chúng tôi bỏ đi
hay
chạy trốn. Chúng tôi đánh mất cái quyền được đưa tiễn, được xao xuyến
nhìn
những cái vẫy tay, được nhận vài món quà quê như buồng chuối và hương
hay bó
rau ngót cắt trong vườn, cùng lời dặn dò quyến luyến, “Đi mạnh giỏi
nghen…”.
Chị em tôi hết sức cố gắng để sự giận
dữ, chán chường của
mình không bùng cháy. Chúng tôi cho vịt ăn thật xa trên đồng, vạ vật ở
đó từ
sáng tới chiều. Gió hoang liêu trên đồng không làm lòng hai đứa nguội
lại. May
ra, gió chỉ thổi khô nước mắt lúc nào cũng ri rỉ trên mặt em tôi.
Tôi không còn muốn chữa mắt cho Điền.
Bởi Điền khóc suốt
(giống hệt tôi), dù vẻ mặt nó rất bình thản (tôi cũng vậy, khác là nước
mắt tôi
khô rốc trong lòng). Hai đứa tôi đều kỳ dị, đến mức nhiều khi tự giật
mình.
Có lần, hai chúng tôi ngồi trên một bờ
đất, xung quanh đấy
những người thợ gặt đang ăn cơm. Nắng giữa trưa nóng rát. Tôi nói, chỗ
khác có
nắng dữ dằn vầy không ha. Thằng Điền nói, mùi cá kho quẹt thơm dễ sợ.
Ừ, tôi
gật đầu, nhưng cái mùi nghèo quá. Vậy mùi gì giàu, thằng Điền hỏi vặn
lại. Tôi
cười, thịt kho tàu. Rõ ràng hai đứa tôi có cãi qua cãi lại, vậy mà sau
đó một
người thợ gặt tỏ vẻ ngạc nhiên, “Hai đứa bây ngồi chù ụ cả buổi trời,
không nói
câu nào, vậy mà cũng chịu nổi sao?”
Thằng Điền cười, “Ủa, tụi mình hỏng
nói tiếng – người !?”.
Tôi nhận ra nó không hề máy môi, tôi đọc được những ý nghĩ trong Điền.
Ở đó,
đang có bão tơi bời, gió quất điên cuồng vào trái tim nhỏ chi chít vết
đau.
Thằng Điền nổi loạn.
Dấu hiệu bắt đầu từ một bữa trong xóm
đê, tình cờ ngó đôi
chó nhảy nhau, thấy các chị đang phơi lúa kêu ó ré lên, tôi rủ Điền giả
đò nhắm
mắt (trò này cực kỳ trẻ con, vì ai cũng mường tượng mồn một tư thế động
tình
của hai con chó). Thằng Điền phì cười, nó kêu lớn, “Hai, coi nè…” rồi
cầm đoạn
cây xông đến quất đôi chó tới tấp. Hai con chó kêu la thống thiết,
hoảng loạn,
xà quần trong đám bụi đất. Đau đớn cùng cực, chúng rúc vào chân đống
rơm, nhưng
không chịu rời nhau. Con đực phục đầu sát đất, rên rỉ, nước dãi chảy
ròng.
Không chạy hả. Bốp. Không chạy nè. Bốp. Thằng Điền gào lên. Cây trúc
giập nát.
Tôi giữ tay Điền lại bảo, “Ác với tụi nó chi vậy, cưng”, thấy nước mắt
bê bết
trên mặt em tôi.
Ngay từ lúc ấy, tôi đã muốn chạy về và
nói với cha
"Thằng Điền bị sao rồi, cha ơi...". Tôi sợ, hoảng loạn khi phải chứng
kiến một mình.
Thằng Điền biết là tôi đã nhìn - thấy
- cái - gì - đó, nó
chua chát cúi đầu. Điền chối bỏ niềm vui được trở thành một người đàn
ông thực
thụ. Nó tự kìm hảm bản năng trổi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng sự tất
cả sự
miệt thị, giận dữ, căm thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì
cha tôi
có, cha tôi làm. Giãy dụa đến rã rời, nhiều bữa, nó dầm mình dưới ao
đến khi người
tái nhợt. Nó chạy như điên trong đêm, trên những bờ ruộng mướt cỏ đến
khi mỏi
nhừ, gục xuống. Rồi nằm xoãi trên đồng, tả tơi.
Không phải vậy, không phải vậy Điền
ơi, tôi muốn kêu lên,
tiếc là sự thất học khiến tôi không diễn đạt được bằng lời. Tôi không
chắc lắm,
nhưng dục tình và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh bỉ, không
phải là
nguyên nhân đẩy chị em tôi đến cuộc sống này với những đổ vỡ này…
Điền mười sáu tuổi, nó có thể mãn
nguyện nằm bên tôi, dái
tai để mặc tôi mân mê. Điền đã lạnh ngắt. Nó dửng dưng nhìn những đứa
con gái
làm cỏ lúa, quần xoắn cao, đùi non mởn. Đôi lúc bắt gặp những đôi người
quấn
nhau giữa các chòi ruộng hay lùm cây, nó khinh khỉnh cười khào. Nó điềm
nhiên
nói cái giọng hơi run rẩy nhưng rất mỏng và dịu dàng, “Hai, thôi đi. Em
đâu có
sao, buồn làm chi...”.
Tôi cười, nói ờ. Nhưng muốn nghỉ buồn
cũng không đơn giản.
Phải rất lâu, tôi mới nhìn Điền một cách bình thường, tôi cố quên
chuyện của
nó, tưởng tượng bây giờ nó mới chín mười tuổi gì đó (cái hồi hai đứa
như cây kiểng
còi, thẳng đuột như nhau, thằng Điền hay bắt chước đái ngồi).
Và tôi chợt nghĩ, sự bất thường của
Điền, chẳng qua nằm
trong chuỗi rất dài của sự trừng phạt. Điều đó lý giải cho việc thiên
nhiên
ngày càng trở nên hung dữ hơn, khắc nghiệt hơn. Bằng những sấm chớp,
gầm gừ,
dường như trời đất đã nín nhịn nhiều, cuồng nộ bắt đầu rồi đây. Có lần,
tôi lấy
cao su gói lại mớ mùng chiếu, nhìn mưa thè cái lưỡi ướt nhão nhớt vào
lều,
khoái trá nếm từng tấc đất, tôi tự hỏi, không biết chỗ khác (chỗ không
có chúng
tôi) có mưa nhiều như vầy không. Ý nghĩ đó xuất hiện triền miên trong
đầu tôi,
rằng trời chỉ trút mưa, trút nắng ở nơi chúng tôi dừng chân lại. Nỗi bẽ
bàng
của những người đàn bà bị cha tôi bỏ rơi (và cộng thêm niềm đau vỡ của
những
người quây quanh họ) đã thấu qua những tầng mây.
Và dường như cách giao tiếp ngấm ngầm
của tôi và Điền cũng
trong chuỗi bất thường, nó làm cho mối quan hệ với cha thêm rời rạc.
Những bữa
ăn nối tiếp nhau trong im lặng. Lúc và cơm, tôi hay bị ảo giác, tưởng
mình đang
ngồi trên cánh đồng của chín năm trước. Một cánh đồng miên viễn với gió
lắt lay
những khói nắng héo xèo, một nhúm mây rất mỏng và rời rạc bay tha thểu
trên
cao. Đường chân trời mờ mờ xa ngái. Một vài gò mả loang lổ dưới chòm
trâm bầu.
Tiếng chim kêu nhỏ từng giọt thiu thỉu. Mùi rạ mới quyện với bùn tanh
tanh. Bầy
vịt rúc đầu vào nách, ngủ ơ hờ dưới bóng cây tra treo từng chùm bông
vàng tuyệt
vọng lay như những chiếc chuông câm. Cảnh không đổi, người cũng không,
cứ ngồi
ngoáy mãi vết thương cũ, nhỏ nước mắt.
Giống như mấy cái mả ngồi, thằng Điền
nhận xét. Vừa may, một
bữa trưa nắng rập rờn trên nách rạ, chúng tôi cảm nhận được những tiếng
nói lao
xao. Thằng Điền thảng thốt, "Tụi mình ba trợn thiệt sao, Hai ?" khi
nhận ra đó là tiếng của... vịt. Tôi cười, hớn hở. Thế giới của vịt mở
ra. Không
ghen tuông, hờn giận, chắc tại cái đầu vịt nhỏ quá nên chỉ đủ cho yêu
thương.
Tôi thôi thắc mắc vì sao cả bầy trăm con chỉ cần mười, mười lăm con vịt
trống.
Đắm đuối với loại ngôn ngữ mới, chúng
tôi chấp nhận để cho
người ta nhìn mình như những kẻ điên (miễn là tạm quên nỗi buồn của cõi
-
người). Chị em tôi học cách yêu thương đàn vịt (hy vọng sẽ không bị đau
như yêu
thương một - con - người nào đó). Nhưng nhiều khi nhìn thằng Điền dõng
tai coi
mấy con vịt nói cái gì, tôi giật mình, nuốt một họng đắng, tự hỏi đã
đến nỗi
này sao, đến nỗi chơi với người thấy buồn, nên chuyển qua chơi cùng
vịt. Đêm
nào cũng vậy, cũng rón rén, từ tốn, hai chị em thắp một ngọn đèn giữa
chuồng,
để lúc bọn tôi ra, chúng nhìn, biết không phải người lạ, không xao
động. Vừa
nhỏ nhẻ lấy trứng, tôi vừa hát một bài hát bâng quơ, đôi chỗ vì hạ
giọng thấp
mà hụt hơi. Bầy vịt nhạy cảm khủng khiếp, sau này, tôi cố sửa lại những
chỗ hụt
hơi ấy, chúng nhận ra ngay, và nhìn tôi với vẻ ngờ vực, "Ủa, phải con -
người hôm trước không ta ?". Một con vịt đui khịt mũi, cười, "Nó chớ
ai, giọng có khác, nhưng rõ ràng là tiếng trái tim nó. Quen lắm. Chập
chờn,
thút thít, đòng đưa như sắp rụng... "". " Có nổ hôn đó, cha
nội?" "Sao không, mấy người thử đui đi rồi biết". Bất giác, tôi
nhắm mắt để nghe lại tiếng tim mình.
Nhưng sự trừng phạt tính toán cũng vừa
vặn, vừa đủ vui, vừa
đủ thương, quấn quýt, nó lại đứng sau lưng và cười nhạo chúng tôi.
Gió chướng trở ngọn, trên những cánh
đồng ủ ê tin buồn.
Chúng tôi nghe được một cụm từ lạ, dịch cúm gia cầm. Những người nuôi
vịt chạy
đồng cười khào, “Chậc, mấy con vịt chết gió, mấy ông nhà nước nói cho
quá…”.
Hôm chính quyền thông báo tiêu huỷ tất cả các bầy đàn, họ xửng vửng kêu
lên,
“Trời trời, bộ hết chuyện giỡn sao, mấy cha ?”
Chẳng ai giỡn cả. Người ta dùng ý
tưởng của Tào Tháo thời
Tam Quốc, “thà giết lầm còn hơn tha lầm”, dồn tất cả vịt trên cánh đồng
lại và
đào hố chôn. Thằng Điền mếu máo :
- Mấy ông ơi, vịt tui sân sẩn, có bệnh
tật gì đâu…
Một người càu cạu :
- Sao cậu biết ?
- Rõ ràng tụi vịt nói với tui.
Mọi người cười ha ha, bữa nay vui quá
chừng. Họ bắt đầu trùm
kín mình bằng những bộ đồ đi mưa. Họ rải vôi trên những hố chôn lớn
bằng mấy
khẩu đìa cộng lại. Họ tọng những con vịt còn sống, còn giãy dụa, còn
gào thét
vào bao tải, buộc miệng và quăng xuống đó.
Đám nuôi vịt chạy đồng tụm lại ở một
chỗ, cúi mặt vào lưng
nhau. Họ xót của, tiếc tiền, họ cảm nhận được sự kiệt quệ, đói nghèo
đang vây
bủa. Lần rủi ro này (của cái nghề lắm rủi ro) thật khốc liệt.
Cha tôi ngồi riêng biệt ở một bờ đất
và đốt thuốc ngó trời,
điệu bộ hơi dửng dưng. Với nỗi đau sâu hoắm sẵn trong lòng, thì những
biến cố
khác chẳng qua như một vết xước nhỏ ngoài da, nhằm nhò gì.
Hình ảnh đó, nét mặt đó làm cho tôi
tuyệt vọng. Mà, lúc đó,
tôi đang chết điếng, sao tôi lại nhìn về phía cha ? Vì tôi muốn cầu cứu
(như
những đứa trẻ con gặp chuyện giật mình, hay buột miệng gọi má ơi hoặc
cha ơi!)?
Vì tôi thấy mình không thể chịu đựng được tiếng gào khóc thê thiết của
những
con vịt bị vùi sâu dưới lòng đất ?
Mất nửa ngày những cái hố mới được lấp
đất đầy. Xuyên qua
những lớp đất bầy nhầy, tôi nghe vịt - của - tôi vẫn còn thoi thóp,
chúng đau
đớn vì những cái cổ gãy, rối quặt quẹo, chúng hỏi nhau vì sao tụi -
người - ta
lại ác. Rồi thinh lặng. Trong cái im ắng đến rợn người, tôi nhận ra
tiếng của
con vịt mù, có lẽ vì không sợ tối, nên sự sống kéo dài.
Rồi ánh sáng nhập nhoạng cuối ngày
loang lổ đổ xuống, tôi và
Điền khóc hức, cảm nhận được cái thở hướt ngắn dần, ngắn dần của con
vịt sau
cùng. Và nín bặt. Và tan hết. Chỉ còn gió cười từng tràng dài... Tôi
tiếc thôi
là tiếc sinh linh nhỏ bé đã thấu được tim mình.
Sáng sau, người ta tìm được một người
chăn vịt nằm sát mép
hố, mắt chong chong ngó trời không chớp, miệng sủi ra thứ bọt, trong
vắt như
bọt cua nhưng hôi nồng nặc. Chai thuốc trừ sâu lăn lóc cạnh đó đã cạn
tới giọt
cuối cùng. Sống thì khó chứ chết sao mà dễ.
Tôi đứng nhìn, tiếc rẻ, ủa, cái người
nằm sóng xoài kia, sao
không phải là chúng tôi ?
Sự báo ứng dường như đang ở rất gần.
7.
Tôi bắt đầu hối hận vì đã cứu chị và
mang chị đi cùng. Có
cảm giác chúng tôi nắm tay kéo chị lên khỏi một vũng lầy để đẩy chị vào
một
vũng khác, cũng sâu.
Chị xuất hiện không đúng lúc. Cha tôi
có dấu hiệu mệt mỏi.
Đàn bà, với cha, càng trải nghiệm càng chán chường. Càng gieo rắc càng
đau. Vết
thương cũ mở miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy. Cha
không chấp
nhận cả những người phụ nữ mà ông kỳ công chiếm đoạt (của người khác),
thì sao
ông có thể tin tưởng ở sự hiến dâng ?
Vậy đó, cuối cùng chị hiểu được tại
sao cha tôi lại phớt lờ
mình. Tôi và Điền buộc phải kể câu - chuyện - của - chúng - tôi để chị
không
phải ray rứt gì với thân phận làm đĩ. Những ký ức chắp vá, đứt đoạn
được chúng
tôi kể khá chậm, một phần vì đã lâu không dùng cách giao tiếp bằng lời,
một
phần do vài chi tiết khiến chúng tôi phải dừng câu chuyện lại, vì thấy
nhói ở
đâu đó hay đợi chị thôi khóc. Thí dụ như cái đoạn kể về kỳ kinh nguyệt
đầu tiên
của tôi. Máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi thụp xuống, bụm chỗ
ấy lại.
Máu từ từ chảy qua kẻ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt, chết dần.
Thằng
Điền vói bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngốn ngấu, điên dại, để lấy
bả rịt
lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu rất tốt, cũng chẳng ăn thua. Hai
đứa
nhìn nhau khóc, tôi đã mơ thấy ngôi mộ của mình, như chiếc giường giữa
bốn bề
đồng nước... Chị mếu máo vít đầu tôi vào lòng, “Trời ơi, tội hôn. Lúc
đó cha
mấy cưng ở đâu ?”. Tôi ngơ ngác, không biết, nhưng dù cha có ở gần ngay
đấy thì
chúng tôi cũng chẳng thể cầu cứu.
Đã nói là chị em chúng tôi phải tự học
đủ thứ rồi mà. Những
gì không biết, chúng tôi thử. Những gì không hiểu, chúng tôi chất thành
khối
trong lòng. Nhiều khi thấu đáo được một điều nào đó, chúng tôi phải trả
giá
cao.
Có lần chúng tôi thả vịt nghỉ khúc
kinh có bóng cây. Bỗng nỗi
xấu hổ vì mình là con người xộc lên mũi sặc sụa, khi tôi phát hiện ra
chúng
chẳng bao giờ cưỡng đoạt và gạt gẫm nhau. Khoảng thời gian trước khi
con trống
trèo lên con mái rất thật, mềm mại, êm đềm... Tuyệt không có gì là thô
tục. Tôi
sững sốt. Thằng Điền sững sốt. Trời ơi, khác với những gì chúng tôi
biết (qua
cha tôi, má tôi), trong sự hoan lạc (của những con vịt) đầy ắp thứ gọi
là tình
- yêu. Điền chới với, nghi hoặc lan ra như một vòng sóng. Và khi chị
xuất hiện,
thì trong nó chỉ còn nỗi ân hận giày vò.
Điền yêu chị, nhưng tình yêu đó khiếm
khuyết mất rồi. Sau
giấc ngủ dài, bản năng nó đã không trở dậy. Trái tim nó chỉ là hòn than
nhỏ,
không thể hâm nóng lại cơ thể ngã màu tro. Sợi dây xúc cảm như lối đi
lâu lắm
không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt, cầu gãy...
Mà, kiểu yêu tinh thần để nhìn nhau,
để nắm tay, vuốt tóc,
để nín nhịn và hy sinh chỉ tồn tại trong văn chương. Chị cần nhiều hơn,
nhiều
hơn, nhiều khủng khiếp, tưởng như chị có thể ngốn ngấu, bào mòn tất cả
đàn ông
trên thế gian này. Lúc đầu là kiếm sống, nhưng lâu dần, sự chung đụng
của thể
xác làm chị nghiện. Thằng Điền tuyệt vọng.
Tôi cảm giác sự đổ vỡ khi Điền đuổi
theo chị, và chị thì
chạy theo cha.
Một cuộc đua rã rượi, chẳng đến đâu.
Chúng tôi còn phải dành
sức cho cuộc mưu sinh dưới nắng như tát lửa. Cha quyết định bán bầy vịt
đi. Ba
người, mỗi lần xách vài ba con, chúng tôi chia nhau đi dài xóm để bán
lẻ. Nhưng
cách ấy chẳng cho kết quả nhiều, nắm con vịt ốm nhằng trong tay, xương
ức gò ra
bén ngót cũng đã đoán được. Thêm nữa, mùa giáp hạt kéo dài, nhiều nhà
chạy gạo
còn gay, thịt vịt trở nên xa xỉ. Ti vi thì vẫn đang ra rả về dịch cúm,
những
người biết chút đỉnh, rụt đầu, “Ăn vịt đặng lây bệnh chết à ?”.
Chúng tôi mang lũ vịt trở về, con
đường dẫn lên đồng rập rờn
hoa mua tím. Cũng theo lối này, vài hôm sau, ông trưởng ấp dẫn theo một
cán bộ
xã xồng xộc đến chỗ chúng tôi.
Tôi vừa sợ, vừa biết ơn những người
như thế này. Họ làm cho
chúng tôi cảm thấy bớt hoang dã, làm chúng tôi hiểu rằng, ngay cả trên
những
cánh đồng hoang liêu nhất thì chúng tôi vẫn bị ràng buộc bằng hàng vạn
luật lệ.
Nhưng đồng thời họ luôn mang tai họa đến. Dường như sự trừng phạt đang
núp sau
hai khuôn mặt bị nướng dưới mặt trời, bóng nhẫy, tươm mỡ. Họ phơ phởn
nói bằng
thứ ngôn ngữ buồn cười (bọn chăn vịt chúng tôi chẳng khi nào dùng những
chữ chỉ
thị, loại trừ tận gốc hay giải quyết dứt điểm...). Thật đơn giản, khi
nói “các
người phải huỷ bầy vịt”. Cha tôi cáu kỉnh gật đầu. Tôi và Điền kêu lên
một
tiếng buốt, ôi, những bạn - bè của chúng tôi sắp bị chôn sống nữa rồi.
Cái nhìn chị chảy theo nước mắt của
thằng Điền, chị khẽ bảo,
không sao đâu, mấy cưng. Chị đon đả, chèo kéo hai người đàn ông lạ về
phía
mình, “Mấy anh thương em với, nỡ nào để cả nhà em chết đói”. Một người
càu cạu
:
- Ở trên lịnh xuống tụi tui cãi sao
được.
Nụ cười đong đưa, tung tẩy trên khoé
mắt, thì em có bảo mấy
anh cãi ai đâu, mấy anh giả đò không biết, không nhìn thấy bầy vịt của
em là
được rồi. Dễ ợt... Thằng Điền bệu bạo cắn răng, nó tự kìm nén bằng cách
siết
vai tôi đau nhừ. Cách đó năm bảy bước, giọng nói của chị vẫn lướt như
một dòng
gió đầy hơi nước, thấm dịu lại hai khuôn mặt (cố tỏ ra) cứng đơ. Một
người nuốt
nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt
ông ta
lột trần chị, và toan tính một thoáng. Người còn lại có vẻ thú vị, háo
hức như
sắp được xem một vở cải lương hay. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay
lập tức
chị ngó về phía chúng tôi, ngầm báo, cuộc thương lượng (về một sự đổi
chác) đã
kết thúc rồi.
- Hai anh cứ về trước, chút nữa, em
lựa mấy con vịt tơ đem
lại cho các anh lai rai. Nhà anh Năm đây em biết chớ sao không, đi tới
đâu, em
cũng coi mặt thổ địa trước chớ...
Nụ cười chị chợt mỏi mê mỏi nhừ. Có
một chút tàn nhẫn, một
chút man rợ trong cuộc thương lượng này. Hai người đàn ông quay vào
xóm, không
quên vói lại một câu, nửa đe nẹt, nửa xuề xòa, “tụi tôi nể vợ anh...”.
Cha tôi
cười hết sức độ lượng, ôi những thằng trẻ con...
Chị vò đầu thằng Điền, bảo “chuyện nhỏ
thôi mà, đi bắt vịt
dùm chị, nhỏ cưng”. Và hướng cái nhìn sâu nhói về phía cha tôi, rất
chậm rãi,
chị thay áo, lấy nón, xỏ dép... Thời gian dằng dặc. Tôi biết chị chờ,
hy vọng.
Tôi biết, đi một quãng xa, chị vẫn còn dõng tai đợi một tiếng gọi,
“quay lại
đi, Sương”. Nhưng chỉ gió ngêu ngao xoi mói vào mảng thịt sau tà áo
người phụ
nữ đang xiên xiên trên bờ cỏ rập rờn.
Chị về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi
sau này, tôi vẫn còn
ghê sợ cái màu trăng ấy). Ống quần quệt vào cỏ ướt đẫm sương. Hơi rượu
quyện
với mùi thuốc lá làm tôi chạo chực. Nhác thấy hai chị em tôi ngồi thù
lù, chị
kêu lên, trời đất, hai cưng chờ chị chi vậy. "Chị... làm đĩ quen rồi,
mấy
chuyện này nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?". Rồi khom người nhìn vào chòi,
chị chắc lưỡi tấm tắc, " Coi nè... Trời ơi, bữa nay bộ gió mát sao mà
người ta ngủ ngon dễ sợ". Chao, tiếng ngáy của cha tôi sao mà đều, sao
mà
thơ thới. Tôi chực khóc, ngay lúc này đây, dường như chị - đang - chết.
Chị lẹ
làng lấy tay quệt lên mắt, mảng nước nhoè nhoẹt bên màng tang, bết cả
vào mớ
tóc mai.
Sáng sau, gặp ở quây vịt, cha tôi
cười, hơi giễu cợt,
"Sao, hồi tối vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả
?
Cứ để họ nghĩ vậy... ". Chị ngó trân vào cha, rồi day qua tôi, chị để
rớt
từng lời :
- Má cưng ác một, nhưng người cha này
của cưng ác tới mười.
Nói rồi, chị quay đi. Chân vướng dấp
dúi vào cỏ. Con đường
nhỏ dầm chan trong màu hoa mua tím. Tôi đắng đót thầm trong lòng một
cái vẫy
tay. Bóng người khuất trong vườn. Thằng Điền xách nước về, nó cuồng lên
hỏi chị
đâu. Tôi chỉ con đường kinh xao xác hoa cỏ dại. Em tôi chạy hồng hộc về
phía
đó.
Điền, cũng không trở lại.
Tôi đã chờ nó đến khi mùa mưa đổ xuống
cánh đồng Chia Cắt
(tôi tạm gọi vậy) một trời sao. Chờ chơi vậy, chứ tôi biết Điền chẳng
quay về.
Tôi nhớ nó (và nhớ chị) không thôi. Những lần dọn cơm tôi hay lấy chén
đũa cho
cả bốn người. Cha tôi rất khó chịu, ông ngán ngẩm đứng dậy. Tôi ngồi
một mình,
chan nước vào chén cơm như chan nỗi trống trãi khủng khiếp. Đi qua
những xóm
kinh chộn rộn ánh đèn, tôi thường ngóng lên bờ mong có thể gặp được
thằng Điền
và chị. Không biết em tôi có đuổi kịp chị, hay vẫn tiếp tục kiếm tìm.
Không
biết nó đã đánh thức được bản năng, đã tìm thấy nhục cảm, đã biết thèm
muốn
chưa. Không biết tối nay thằng Điền có được mệt nhoài úp lên chị, hay
vạ vật ở
đâu đó, bên vách buồng (hay một tấm ghi-đô bằng vải), đau vật đau vã
nghe hoan
lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét. Không biết nước mắt của
nó đã khô
chưa hay vẫn rỉ từng giọt như máu tươi.
Tôi nhớ Điền, bao gồm nhớ một đồng -
loại (và tôi là đồng -
loại còn lại), nhớ một cách trò chuyện (đọc thấu lòng nhau), nhớ một
người nghe
được tiếng tim mình (điều này thì con vịt mù làm được, nhưng nó đã chết
rồi),
và nhớ một người che chở (công việc này, đáng lẽ là của cha, má tôi).
Tôi biết
ơn Điền, từ một gói băng trắng mà Điền mang về hôm tôi mười bốn tuổi,
bảo thứ
này dùng khi có kinh nguyệt, nó sẽ ngăn không vấy máu ra quần. Điền đi
hỏi ai
đó, nó nói, máu không cầm được cho đến khi nào tự nó ngưng chảy. Điền
xót xa
khi thấy tôi trổ mã con gái, "Đẹp làm chi dữ vậy, Hai ? Ở cái xó quê
này,
có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con nheo nhóc, cũng ra
ruộng ra
vườn làm lụng đến hết đời, xẹp lép như xác ve. Đẹp, mắc công giữ...".
Điền
dặn tôi đừng xoắn quần quá cao, đừng mặc áo quá rộng cổ... Với bọn đám
thanh
niên lúc nào cũng kiếm cớ lãng vảng, Điền giang tay bọc lấy tôi, nó
giễu cợt,
"Anh kia, lượm con mắt lên, anh nhìn vậy, chị tôi mòn còn gì". Đám
người cụt ngòi, tẻn tò dạt ra. Ngay cả khi Điền bỏ đi cùng chị, nó cũng
để lại
cho tôi một món quà lớn.
Cha bắt đầu có một chút quan tâm với
tôi. Dường như chỗ
trống của thằng Điền nhắc cha nên quý những gì còn lại. Bắt đầu từ một
đêm, cha
đứng đằng xa, bảo, "Nương, ngủ sớm đi !", tôi nghe mắt mình cay, ngợp
như ai đó tọng một đám khói vào mặt. Mắc cười, câu nói chẳng ý nghĩa gì
lớn
lao, những người cha người mẹ nói với con họ hàng ngàn lần, đến phát
bực mà tôi
lại xốn xang.
Tôi ước gì có thể chếnh choáng thật
lâu, nhưng nó mau chóng
tắt rụi vì một ý nghĩ kỳ lạ. Dường như không còn kịp nữa, để hàn gắn sự
đổ nát,
để sắp xếp những mảnh vỡ lạo xạo trong lòng.
Chúng tôi tập nhìn nhau, điều đó khó
khăn biết bao. Nhất là
với cha, tôi cảm nhận được sự cố gắng lớn. Mỗi lần ngó về phía tôi, ông
phải
trợn trạo nuốt nghẹn những cảm xúc, vì tôi giống má khủng khiếp.
Không cần gương, tôi thấy hình bóng má
trong mắt người đối
diện. Trước ánh nhìn của cha, tôi cảm giác mình soi xuống dòng nước
đêm. Với
những người đàn ông khác, tôi bị rực lên như đứng trước mặt trời. Bằng
mắt, họ
sờ soạng khắp người tôi. Ánh mắt giống bàn tay của ông xẩm mù mà tôi
từng gặp,
đụng chỗ nào cũng dừng lại, vuốt vuốt bóp bóp (chắc là cho dễ hình
dung), rồi
lần dò tới một chỗ khác, rờ nắn mê miết. Và tôi đón nhận một cách hằn
học, cục
cằn.
Hôm bán bầy vịt, cha tôi sắm một chiếc
nhẫn vàng, ông đẩy nó
về phía tôi, ngượng ngập như sắp chết giấc, "Để dành khi đi lấy
chồng...". Tôi sặc ra một bụm cười, trời ơi, tôi biết lấy ai bây giờ ?
Suốt những tháng năm sống tù đọng trên
đồng, tôi có biết ai
ngoài những người đàn ông quê mùa cũ kỹ. Tôi biết lấy ai trong số đó ?
Lấy một
người cắm mặt xuống đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt,
tôi nghe
tiếng cạo cháy của con, tiếng muổng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát
bỏng trong
lòng ? Hay tôi sẽ chọn một người chăn vịt, mê mỏi với chuyến đi xa,
sống cuộc
sống hờ hững tạm bợ, thấp thỏm với rủi ro, và đến một lúc nào, tôi ôm
con nghe
đêm của mùa gặt thật dài với tiếng rúc rích của chồng cùng cô điếm già
nua. Tôi
lấy ai bây giờ, một người thợ gặt ? Một anh chạy đò ? Ý nghĩ mình là
bản sao
của má làm tôi sợ. Tôi không chắc mình có đủ kiên nhẫn sống cuộc sống
nghèo
túng, nhàm chán ấy suốt đời, hay nửa chừng bỏ dỡ. Và bi kịch chất đống
lên
những người ở lại.
Cha tôi hơi hoảng. Vậy đó, chỉ cần để
ý một chút, là có thể
nhận ra, xót xa vì sự quái dị, khác thường của tôi. Cha tôi vừa kịp
nhìn thấy
điều ấy, bối rối đến mức không biết diễn tả sự đau lòng như thế nào,
bằng mặt,
hay chỉ âm thầm trong lòng. Mà có đau, dường như cũng trễ...
Cái ý nghĩ đã muộn màng, trễ tràng,
không còn kịp nữa như
một cái rốn nước sây hoáy, điên cuồng hút tôi vào, cảm thấy mọi nỗ lực
của cha
trở nên vô nghĩa, tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ đến sự trừng phạt, sự báo ứng
bất chấp
trời im ắng như đã nguôi quên chuyện cũ rồi. Bây giờ, đang vào mùa đẹp
nhất
trong năm.
8.
Bây giờ, gió chướng non xập xoè trên
khắp cánh đồng Bất Tận
(tên này tôi tự dưng nghĩ ra). Ven các bờ ruộng, bông cỏ mực như những
đường
viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa. Rất thính nhạy,
(như kên
kên ngửi được mùi xác chết), đám thợ gặt đánh hơi kéo đến, những người
nuôi vịt
chạy đồng lục tục ở đằng sau.
Những cánh đồng trở thành đô thị;
những cánh đồng ngoa ngoắt
thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát; những cánh đồng vắng bóng
người,
và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa ngẽn trong bùn quánh
giờ đang
vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó, đã hất hủi cây lúa
(và gián
tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng
ngay từ
đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể quay lại những
cánh đồng
cũ (với người quen cũ). Tôi đã từng trở ngược về những nơi đó theo cách
của
tôi, bằng mường tượng. Tôi gặp nhiều đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang
khuôn mặt
rắp tâm của cha tôi, với đôi mắt sâu và chiếc mũi thẳng. Những đứa trẻ
nhàu úa,
cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là tươi rói, nhảy ra xoi xói ở đầu
môi. Và
hình ảnh đó thật đến nỗi, tôi bất giác lùi lại vì một đứa đang nhìn
trân trối
vào mình, ngạo nghễ "Tao không thích học, chừng nào lớn, tao đi chăn
vịt.
Má tao (hoặc ba tao) dặn, phải đánh chết tụi chăn vịt kia".
Tôi giễu cợt, không biết mày có kịp
lớn không. Và nó nhăn
nhở cười trước khi tan mất vào vũng đêm.
Tôi không mất nhiều thời gian để hiểu
được cái cười ấy.
Đơn giản là ngay bây giờ, trên cánh
đồng này, cũng đang lảng
vảng những thằng Hận, chúng lớn hơn, cũng thất học, hung hãn. Bọn người
này
cướp vịt ở các bầy khác (trong đó có của chúng tôi) bằng cách lén phết
sơn đen
lên đầu những con vịt và phơ phởn đến nhận chúng là của mình, hiển
nhiên mang
đi. Bắt đầu xảy ra vài cuộc xô xát trên đồng, người ta đem hết những
bản năng
hoang dã của mình ra để giành lại miếng ăn.
Cha biểu tôi đứng ở đằng xa. Chờ đợi.
Rốt cuộc, bầy vịt của
chúng tôi vẫn mất ngót một nửa. Chúng tôi ra về. Cha tha thểu đằng
trước với
một thân xác nhừ bùn sau cuộc đánh nhau. Cố đi tụt lại phía sau, tôi
giấu nỗi
vui đang thổn thức, cồn cào. Sẽ không ra gì nếu một đứa gái tỏ ra mừng
rỡ khi
cha nó bị đánh tả tơi, nhưng rõ ràng là cha tôi đang thay đổi, đang
sống lại
những cảm xúc bình thường nhất. Tôi thích ông như thế này.
Sau này, tôi luôn hối tiếc là tại sao
ngay lúc ấy không chạy
đến và cùng sóng bước cùng ông, tại sao tôi không nhìn ông và mỉm cười.
Để khi
đám người kia cắt đồng, tôi đã không còn cơ hội.
Ba người họ ập tới từ phía sau, quây
lấy tôi, quần áo vẫn
đẫm bùn, mặt mũi sưng sỉa. Những thằng con trai hơi ngỡ ngàng, khi nhìn
thẳng
vào tôi, một đứa gầy gò trạc thằng Điền lau dãi ròng rãi trên khoé
miệng, thảng
thốt, "con nhỏ đẹp quá, mày".
Tôi coi đó là lời phán quyết cho mình.
Giọng điệu của hắn
giống như đang tấm tắc trước một món hàng đã mắt.
Và món hàng bị ghì ngửa trên mặt ruộng
bì bỏm nước. Tôi ngạc
nhiên thấy bầu trời im sẫm. Mênh mông. Không biết đã tắt nắng hay mặt
trời
không vói được ánh sáng đến nơi này ? Hay những khuôn mặt nghèo đói,
dốt nát
tăm tối đã che khuất nó ? Ngoái nhìn về phía cha và thấy ông lầm lũi
đằng xa,
tôi mong ông đừng quay mặt lại. Sau đó thử chống cự một lần, rồi thôi,
sự vùng
vẫy chỉ kích thích lòng ham muốn. Tôi không muốn bị đè nghiến, bị vùi
nghẽn
trong bùn.
Bọn chúng hơi khó chịu trước một đứa
con gái yếu ớt và câm
lặng. Sự hưng phấn giảm đi ít nhiều, đến nỗi, chúng tỏ ra đờ đẫn, nghi
hoặc khi
bóc trần tôi ra. Sao đúng lúc vầy nè, tôi buồn nẫu nê, tôi vừa le lói
nhìn thấy
con đường dẫn đến cuộc - sống - bình - thường, tôi vừa nghĩ, trên con
đường đó,
sẽ gặp người con trai nào đó để thương yêu... Nhưng cố không để cảm
giác đau
tiếc làm mình lịm vào chết, tôi cười cợt, “Chúng mày có lột bỏ có trăm
có ngàn,
tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng chẳng bao giờ thấu đến tận tao”. Ý
nghĩ đó
làm tôi bớt nhói cho nông nỗi này.
Vậy thì, cha ơi, quay lại làm gì, tôi
than thầm khi nghe
tiếng chân ông nôn nả, giận dữ lỏm thỏm trên mặt nước. Cha tôi lao vào,
gầm gừ
nắm cổ một tên bật ngửa ra đằng sau như một người cố cất cái vó sông
nặng nề,
đẫm nước. Tôi khóc. Vì thấy ông đã kiệt sức, hoàn toàn. Và tôi buộc
miệng thất
thanh : “Điền ! Điền ơi !” trước khi một tên ghí đầu ông dập xuống bùn.
Tiếng gọi ấy làm cha đau đến sững sờ,
ông rướn ngước mặt về
phía tôi, miệng há hốc. Tôi chực hiểu, ngay lập tức hối hận tràn đầy,
trong ý
thức cầu cứu, một bản năng đơn giản nhất, đứa con gái đã quên mất người
cha.
Thằng Điền thì ở xa. Cánh đồng vắng
ngắt, chấp chới vài cánh
cò. Tôi biết rằng, không có cái gì làm cho cuộc chiếm đoạt này dừng
lại. Cha
không chấp nhận điều đó. Ông liên tục vùng vẫy. Một tên côn đồ ối lên
một
tiếng, bụm lấy mắt, vừa kêu rên vừa chửi bới ngậu xị. Không đánh trả,
nó có
cách trừng phạt khác, nó đè nghiến, giữ cho mặt ông hướng về phía tôi.
Và bọn
chúng thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ một tư thế đó.
Mắt cha tôi ầng ậc nước, tôi không rõ
là phèn hay máu nhoèn
nhoẹt. Thôi nghen, ông trời, như thế này là đủ rồi, đừng thêm nữa. Ước
gì cha
tôi hiểu, để mà thanh thản, xưa rày, cái gì không biết hai chị em cũng
đã thử,
đó là một cách tự học để sống. Chỉ có sự giao tiếp giữa thân xác là tôi
chưa
từng trải qua.
Nhưng lúc này, cảm giác thật đơn điệu.
Đầu tiên là sự xé
toạc, và từ rách nát, đau đớn như lũ kiến cánh được giải thoát, chúng
bò rân
khắp thân thể, tôi thấy mình đang chết. Rồi ký ức ùa về kinh hãi, vẻ
mặt má tôi
cái hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là
khoái lạc
thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc.
Trời ơi,
tại sao tôi không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy (để giấu kín nỗi ám ảnh
trong
lòng, giả đò tươi cười với má, xem như không có chuyện gì, để chiều
chiều cùng
má ra sông, hỏi nhau, không biết chừng nào thì cha về)
... Mặt trời le lói ánh sáng trở lại
khi trên đồng chỉ còn
hai thân thể nhàu nhừ. Ai đó vãi từng chùm chim én lên cao, chúng cố
chao liệng
để khỏi phải rơi như lá. Người cha cởi cái áo trên người để đắp lên đứa
con
gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới
mặt
trời. Dường như đứa con gái đang chết, chỉ đôi mắt là rưng rức chớp mở
không
thôi. Câu đầu tiên nó hỏi :
- Không biết con bị có con không, hả
cha ?
Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một cái gì,
nhỏ xíu nhưng lanh lợi
như con loăn quăn đang ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt
nước
mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù
phũ phàng
(với nó, chấp nhận cũng là một thói quen).
Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là
Thương, là Nhớ hay
Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường,
sẽ tươi
tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi
nên tha
thứ lỗi lầm của người lớn. /.
[Trích trên lưới, diễn đàn Thăng Long]