Biến mất ở
Thư Viên
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc
Tư
Lúc đó Sinh
đứng chỗ kệ sách văn học, người Sinh cao nên Hảo vẫn nhìn rất rõ mấy
cục xương
bén ngót của vai anh đội lên khỏi áo. Từ kệ sách nấu ăn chị nói vóng
qua người
ta bày cách làm món cá trứng về kho gừng coi bộ ngon quá chừng nè, Sinh
ừ nhưng
không ngước lên, chị không biết anh mải mê coi sách hay nhìn điện
thoại. Khi Hảo
rướn cổ ngó qua lần nữa thì Sinh đã biến mất.
“Bữa đó có
mưa không?”, tôi hỏi, như đang rất quan tâm câu chuyện được nghe kể
hàng trăm lần,
trong lúc ngoáy một lọn tóc nhỏ của Hảo, nghe đầu ngón tay mát lành như
chạm
vào mảnh lụa đen nhức, nuột nà. Hỏi, để nhìn nét mặt chị lung linh,
“có, mưa lớn,
nên tụi Hảo mới tạt vô nhà sách để trốn mưa. Chớ tụi này ít học, nuốt
chữ đâu
có nổi…”.
- Bữa đó mà
nắng thì tụi này về nhà luôn, biết đâu Sinh không đi mất…
Tôi cũng thuộc
lòng cái ngữ điệu của câu nói đó, thuộc vẻ ngơ ngác thường ngày bắt đầu
tuôn từ
trên tóc xuống, lan nhanh cả khuôn mặt xương xương, vẻ ngơ ngác mà khi
nhìn thấy
lần đầu ở Thư Viên, tôi đã yêu liền, bất chấp Hảo lạ huơ lạ hoắc, bất
chấp chị
đang lơ ngơ cầm trên tay loại sách mà tôi cực ghét “cẩm nang chăm sóc
gia
đình”.
Sau này mới
biết lúc ấy Hảo cứ cầm sách trên tay cho vui, cho hết những buổi tối
Thư Viên
dài dằng dặc. Chị không có gia đình, không có riêng một người đàn ông
nào để thực
hành những thứ ngớ ngẩn kiểu như “đừng quên nhìn sâu vào mắt chàng”,
hoặc “hãy
đánh thức tình yêu của chàng bằng một món ăn ngon” mà sách dạy. Thứ Tư
tuần nào
Hảo cũng tới Thư Viên, rảo một vòng, nấn ná giữa hai kệ sách văn học
một lúc,
thử hình dung từ chỗ này Sinh đi đâu mất biệt. Sinh vòng qua chỗ sách
từ điển
hay rẽ sang khu sách kỹ năng sống để bước về phía cửa, gần chỗ chị
đứng. Nếu vậy
sao chị không có một cảm giác gờn gợn nào, không nghe thoáng mùi mồ hôi
quen
thuộc lúc người đó lướt qua? Hay Sinh đi thẳng vào vách tường vôi trắng
như người
ta vạch một cái rèm, bóng khuất sau tiếng lao xao.
- Có khi nào
Sinh đi vô trong mấy cuốn sách kia không ta?
Một bữa Hảo
chợt hỏi tôi, mắt lấp lánh bởi ý nghĩ mới mẻ vừa nảy ra trong đầu. Nó
khiến chị
bắt đầu cầm những cuốn sách lên ngấu nghiến, dù trước đó chị hay trề
môi bảo nuốt
chữ mắc nghẹn chết, bảo cứ cầm lên buồn ngủ, cho cuốn sách thà cho củ
khoai
thích hơn.
Đó là năm thứ
bảy Sinh đi và là năm thứ ba tôi đưa đón Hảo tới nhà sách Thư Viên vào
mỗi tối.
Từ trường về, không kịp thở hơi nào dài được một lóng tay, tôi xấp xải
tắm táp
để kịp chạy đi đón chị. Tôi tới muộn Hảo sẽ tới nhà sách bằng xe bus,
những
chuyến xe chiều luôn đông nghẹt người, chị phải đứng suốt mười một cây
số đến
trung tâm thành phố, đôi khi xuống xe thì bị móc túi lấy sạch tiền,
chân sưng.
Tôi xót lắm, nên thường để cái đầu tóc còn nhỏ nước ròng ròng hớt hải
chạy tới
chị. Và má tôi chỉ biết ngó theo, thở dài.
Những hậm hực,
cằn nhằn, sự thất vọng của má, sau ba năm tôi yêu Hảo, giờ teo quắt lại
thành
những tiếng thở dài. “Đời mày rồi không biết tới đâu…”, má tôi thường
nói vậy.
Chắc là không người mẹ nào hân hoan khi thấy thằng con trai nheo nhẻo
của mình
yêu con đàn bà lớn hơn nó tám tuổi, con nhỏ từng sống thử với người
khác như vợ
chồng, từng có bầu, từng đẻ non.
Rả rích thu
lượm, má tôi lần dò được khá nhiều chi tiết cuộc đời Hảo, cả chuyện chị
từng được
nuôi dạy trong nhà mở. Hồi đầu bà đấm ngực kêu trời trong lúc tôi tỉnh
bơ nói,
“Có sao đâu. Nhằm nhò gì.” Tức mình bà tới tận nhà trọ của Hảo để xin
người ta
tha cho thằng nhỏ con bà, nhưng nhìn thấy chị thì bà lẳng lặng về. Gương mặt và cặp mắt lơ ngơ cứu Hảo khỏi những
lời nặng nhẹ. Vừa có vẻ đói khát vừa mệt mỏi, vừa tìm kiếm vừa hẫng
hụt, vừa hy
vọng vừa vô vọng, như má tôi miêu tả, mặt con nhỏ đó như chó con đi lạc.
Ý nghĩ Sinh biến mất vào trang sách phả
một sức sống
lạ lùng vào Hảo, làm chị tươi tắn, rạo rực hơn. Như đang đói gặp được
củ khoai
lùi. Chị nói có thể Sinh đã đổi tên là Long trong cuốn “Ruồng rẫy”,
hoặc là Trọng
hóa sói trong “Lốt thú”, là Vũ trong “Đánh mất mặt người” hay vẫn chính
là Sinh
họ Phúc trong Vân Kiều truyện. Cuộc tìm kiếm ngày càng mênh mông vô
tận, và đôi
lúc đang hôn nhau Hảo nhắc tới một cuốn sách nào đó mà con mọt sách như
tôi còn
nghe xa lạ.
- “Đòn kết
liễu” của Marguerite Yourcenar có thằng
đại úy nhẫn tâm kinh khủng.
Tôi thấy hơi
khó chịu, không phải vì cách phát âm ma ri rít sai bét của cô công nhân
may
giày, cũng không phải vì con muỗi đang bay vo ve từ nãy giờ. Đập rát cả
tay mà
nó không chết, tôi hậm hực “người không ra gì mà nhớ hoài…”.
Hảo nói đâu
có nhớ. Chỉ tìm Sinh để hỏi cho rõ sao biến mất kỳ vậy, nếu chán nhau
rồi thì
nói thẳng, từ giã rồi đường ai nấy đi, sao lại phải âm thầm chạy trốn.
Không nhớ
đâu, tìm Sinh chỉ để cho hay Hảo đã chuyển thuê nhà khác rồi, không nấn
ná được
vì chỗ cũ bị giải tỏa, Sinh khỏi về lấy quần áo mắc công. Mắc gì mà
nhớ, tìm
Sinh để báo tin đứa con tên Nguyện mà Sinh đã đặt tên hồi còn chưa biết
là trai
hay gái, em bé đó đã hóa thành chất lỏng trôi tuột khỏi người chị sau
một cú trợt
chân ngoài thềm ướt. Hơi đâu mà nhớ, tìm Sinh để nói cho hay là có
thằng con
trai mới lớn thua Hảo tám tuổi, tức là tôi, đang mê chị. “Đeo dai như
đỉa vậy”,
chị véo mũi tôi, cười.
Tôi sướng lắm,
cứ nhìn thấy Hảo cười là tôi sướng. Nằm gối đầu lên bắp đùi chắc lẳn
của Hảo và
tưởng tượng ra nét mặt ngượng ngập của gã đàn ông kia, khi Hảo vênh mặt
kể với
hắn rằng tôi thường cắt giũa móng chân cho chị. Tối nào tôi cũng xoa
bóp đôi
vai mỏi nhừ của chị đến khi tay tôi mỏi nhừ. Áo mưa che chung tôi luôn
giành Hảo
phần ướt. Tôi còn đọc sách nữ công gia chánh, gạn hỏi má tôi cách nào
thịt bò
không dai để nấu vài món cho chị bồi bổ những hôm tăng ca. Tôi còn rủ
Hảo bao
giờ tôi ra trường, xin được việc sẽ làm đám cưới. Tôi không muốn Hảo
chờ tôi lớn
thêm nữa, vì muộn quá chị sẽ khó sinh con.
Trong lúc
tôi phổng mũi la đà thêu dệt thì Hảo di di ngón tay lên vành tai tôi,
nói nhân
vật Barrow bảnh trai trong “Những mối tình câm lặng” cũng biến mất khi
ngồi thổi
bong bóng, như thể bong bóng đem anh ta bay lên trời vậy. Tôi day qua
úp mặt
vào vào bụng Hảo, nghe ruột chị cồn lên trong đó, để giấu mấy giọt nước
mắt ủy
mị của thằng con trai mới lớn, vì ý nghĩ Hảo không thèm dòm ngó, đếm
xỉa gì
tôi.
Cuối năm tôi
hai mươi bốn tuổi, cái đám cưới mà tôi vẽ ra trong tưởng tượng đã đầy
đủ những
chi tiết cần thiết, tự dưng tôi thấy bồn chồn. Những tối ở nhà sách Thư
Viên,
tôi đứng ở một kệ sách nào đó và ngó về phía Hảo trong lúc chị nép giữa
những kệ
sách văn học, say sưa đọc. Sức sống rực lên ở Hảo khi chị cắm cúi vào
rừng chữ,
như chưa từng mệt mỏi sau một ngày làm việc với những cái máy may đầy
kim nhọn.
Đứng lâu mỏi chân chị la cà ở gian sách khác nhưng mắt luôn ngó về nơi
gã đàn
ông xưa từng đứng. Tôi kêu trong câm lặng, Hảo ơi nhìn tôi đi, tìm kiếm
tôi đi.
Không âm thanh, nhưng cổ họng thì như bể nát. Nhưng buổi tối ở Thư
Viên, từ lúc
đặt chân vào đó cho đến khi nhà sách rung chuông đóng cửa, Hảo không
một lần
đưa mắt tìm tôi.
Một bữa đứng
ở kệ sách tôn giáo, tôi giơ một cuốn lên vẫy vẫy gọi Hảo, cuốn này có
nói về
nghệ thuật buông bỏ nè. Hảo ngẩng lên, hơi ngạc nhiên rồi quay lại với
cuốn
sách đọc dở trên tay, tìm kiếm trong đó một gã xấu xa nào hao hao một
người đàn
ông biền biệt từ lâu lắm. Hảo không biết đó là lần cuối cùng chị nhìn
thấy tôi.
Hôm ấy tôi mặc áo kẻ màu xanh xám, tóc tôi cắt cao. Biến mất như một
phụ diễn
trong màn ảo thuật, tôi đi vào khe của những cuốn sách, náu trong thứ
bóng tối
trong suốt, với ý nghĩ chỉ khi biến mất mình mới được tìm.
Nguyễn Ngọc
Tư
Nguồn
Note: Gấu có
mạn phép sửa vài lỗi chính tả [hỏi ngã], và nghĩ thầm, truyện ngắn này
có thể
được gợi hứng
từ truyện ông họa sĩ Tầu, không vừa ý vua, bị đám Cấm Binh kiếm làm
thịt, bèn đi
vô bức tranh đang vẽ, trên TV đã từng đăng. (1)
Nhưng cái kết, anh chàng
con nít mê bà chị già chui vô sách, "chỉ khi mình biến mất thì mới
mong được tìm", quả là đúng của Cô Tư!
Chúc Mừng Năm
Mới.
NQT
(1)
Hiếm nhà văn được như
Borges: ông đi vào truyền thuyết,
ngay từ khi còn sống, không như một nhà văn nổi tiếng, mà là một huyền
tượng.
Trong chuyện Tàu có trường hợp tương tự: Để trốn tránh cơn giận dữ của
nhà vua,
và cái chết tiếp theo đó, Wang Fo rời cuộc đời, bước vào bức tranh ông
vẽ.
Lần thứ nhất
biến vô sách thì cũng thường thôi, nhưng lần thứ nhì, quá thực.
Thực hơn cả sự
thực, và đó mới là văn chương, đâu có như mấy đấng cứ mỗi lần viết
truyện là một
lần biến người thực thành người dởm.
Hồi ở trại tị
nạn, Gấu biết một bà, chỉ mong trở thành nhà văn để đưa cái thằng khốn
đó vô
truyện, chửi một mách cho hả dạ.
Rất nhiều người, viết văn
là để làm cái chuyện
khốn kiếp đó.
Có cả NHT.
Trong bài phỏng
vấn dưới đây, NHT cho biết chưa nào giờ làm cái chuyện nhơ bẩn đó,
nhưng liền lập
tức, ông lại ân hận vì lỡ xúc phạm tới mấy ông quan VC. (1)
(1)
“Tôi cũng ân
hận”
- Có bao giờ
Nguyễn Huy Thiệp viết một tác phẩm nào đó chỉ để thanh toán “ân oán
giang hồ” với
một vài đồng nghiệp?
- Không bao
giờ! Vì việc ấy quá ư tầm thường.
Có những người
có lỗi không phải vì những việc họ đã làm mà vì họ đã không làm những
công việc
mà phận sự, chức danh bắt buộc phải làm. Và điều đó làm cho những người
trẻ tuổi,
nhất là những văn nghệ sĩ trẻ tuổi buồn...
- Đúng!
Đúng! Thậm chí trước khi viết Kiếm
sắc, tôi chưa bao giờ gặp mặt ông Nguyễn
Đình Thi, ông Nguyễn Khải...
- Nhưng ông
Nguyễn Khải đã nói về anh rất tốt...
- Đúng,
chính vì điều đó nên sau này tôi cũng thấy ân hận. Hay là thái độ đối
xử của
ông Nguyễn Đình Thi đối với tôi cũng rất đàng hoàng... Và sau này mình cũng nhận
ra rằng họ cũng chả có tội gì, họ cũng là người của cơ chế mà thôi... Và
cũng
phải nói rằng, trong việc tôi đã làm cũng có sự lành mạnh của nó, nếu
xét theo
một khía cạnh nào đó. Và nếu như tôi không phải là một nhà văn hồn
nhiên thì
tôi không bao giờ viết được như thế.
Source
Giai thoại về
họa sĩ Tầu, GCC đọc trong cuốn trên
đây, những ngày mới ra ngoài này, 1997.
BORGES,
FICTIONS
Il est
arrivé à Jorge Luis Borges ce qui se produit très rarement pour un
écrivain,
d'entrer de son vivant dans la légende qu'il avait patiemment et
minutieusement
contribué à tisser et d'y prendre place non comme un homme que le
succès
littéraire aurait rendu célèbre mais comme une figure mythique «
Borges». Un
mouvement semblable, et même presque analogue, se retrouve dans
certaines
histoires chinoises; on se souvient que le peintre Wang Fô, pour
échapper à la
colère de l'empereur selon une tradition, parce que l'heure de sa mort
est
venue suivant une autre, quitte ce monde pour entrer dans le tableau
qu'il a
peint.
Đọc Blog GM,
thấy cũng đưa Cô Tư ra khen, nhưng lại chê, cái câu GCC khen nức nở.
Theo GCC, không
có câu đó, thì hỏng hết cả truyện.
Tất cả câu chuyện, hay thì hay thật,
nhưng
thiếu câu chót, là không có cú sét đánh về mặt thủ pháp viết văn.
Đây vẫn nằm trong "công
thức" của
G. Lukacs: Con
đường tận cùng, cuộc hành trình bắt đầu
[Nhân vật tiểu
thuyết là một kẻ vấn nạn (un être problématique), một gã khùng hay một
tên tội
phạm, bởi vì luôn tìm kiếm những giá trị tuyệt đối dù chẳng biết, sống
"chúng" một cách toàn diện (chính vì vậy) mà không thể tới gần. Một
tìm kiếm luôn tiến mà chẳng tới, một chuyển động Lukacs
định
nghĩa bằng công thức: "Con đường tận cùng, cuộc hành trình bắt đầu".
(Lucien Goldmann: Dẫn vào những bản viết đầu tay của
Georges Lukacs).]
“Chiếc Lư Đồng
Mắt Cua”, của Nguyễn Tuân, khủng như thế [cái xen anh già mê đánh cờ,
lụy 1 nước
cờ, chết ngay đơ ở giữa sân đình mà chẳng ghê sao], chỉ để đi đến câu
kết nhẹ òm,
“Xuyến người bên lương hay bên giáo?”
Câu chót của Bếp Lửa, anh yêu em, yêu quê hương vô
cùng, sến như thế, cải lương như thế, vậy mà thật là thê lương, nhức
nhối, thật
là… thật, đó là nhờ cả cuốn truyện. nhờ cuộc đời của 1 anh chàng thanh
niên Hà
Nội, vào thời điểm 1954, chống đỡ cho nó, bảo đảm cho nó.
Có hai
cách
viết, thuận và đảo.
Thuận, cả câu
chuyện, chỉ để làm sao phang ra cú đánh chí tử, bất ngờ, không làm sao
đoán được.
Đảo, là,
ngay vô đầu nói mẹ nó ra, rồi sau đó hì hục giải thích.
Nếu GCC nhớ
không lầm, Agatha Christie có 1 truyện được thiên hạ coi là số dách, The Murder of Roger Ackroyd, vô truyện 1
phát, là độc giả biết liền kẻ sát nhân rồi!
Bạn có thể
coi, cái xen "anh cu Hảo, thay vì tự tử vì tình, thì biến vô sách", là,
"đốt cây diêm đã đốt rồi, xài
rồi, mà vưỡn
cháy"!
Đòn này Kim Dung hay xài.
Nước Cờ Hư Trúc được ông xào đi xào lại mấy lần,
vưỡn
bảnh như thường.