Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
Bếp Hoàng Cầm
|
Có một Hoàng Cầm
(2005-05-06T12:55:30)
Có một sáng kiến đã theo hàng triệu
người lính ra trận suốt
những năm chống Pháp, chống Mỹ. Nó trở nên nổi tiếng và thân thuộc với
tất cả
các đơn vị quân đội. Đó là sáng kiến bếp Hoàng Cầm.
Cái bếp mang tên người “sinh” ra nó là
một anh bộ đội tên là
Hoàng Cầm, quê ở tỉnh Nam Định, nguyên chiến sỹ nuôi quân sư đoàn 308,
đại đoàn
quân tiên phong. Cái bếp kỳ diệu ấy đã cùng các đơn vị bộ đội tham gia
chiến
dịch biên giới, Hòa Bình, Điện Biên Phủ và sau đó tiếp tục cùng các đơn
vị thời
chống Mỹ xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Bếp Hoàng Cầm là một yếu tố tạo
nên sự
bất ngờ, bí mật cho bộ đội chiến thắng và biết bao người lính nhờ nó mà
không
phải đổ máu, hy sinh. Thời gian và năm tháng qua đi, nhiều người đã
quên tên
anh bộ đội Hoàng Cầm mà chỉ còn nhớ tên cái bếp Hoàng Cầm của anh. Cái
bếp đã
ăn sâu vào tiềm thức của bao người.
Cùng thời, có một vị tướng cũng tên là
Hoàng Cầm. Vị tướng
Hoàng Cầm khá nổi tiếng bởi những chiến công oanh liệt của ông đóng góp
cho sự
nghiệp giải phóng đất nước. Nhiều người lầm tưởng, họ cứ nghĩ anh bộ
đội tên là
Hoàng Cầm, người có sáng kiến đặc biệt chế tạo ra cái bếp Hoàng Cầm
thời chống
Pháp đã lên cấp tướng. Họ mừng và cho rằng ông rất xứng đáng. Bởi sáng
tạo ra
cái bếp có tầm chiến thuật kỳ diệu và hiệu quả, phải là bộ óc của một
ông tướng
hoặc là bộ óc của một con người tài hoa, tâm huyết và hết mình vì đồng
đội. Và
cho đến hôm nay, trong tâm khảm của
không ít người vẫn ảo tưởng tác giả bếp Hoàng Cầm là vị tướng Hoàng
Cầm. Đâu
phải như thế. Ông Hoàng Cầm, tác giả bếp Hoàng Cầm, một anh bộ đội bình
thường
về làng phục viên như bao anh bộ đội khác. Ông đã trải qua một chặng
đường đời,
có những ngày vinh quang và có cả những năm tháng dài gian nan, nghiệt
ngã. Dẫu
ở hoàn cảnh nào ông cũng luôn luôn nỗ lực vượt lên. Luôn luôn giữ gìn
phẩm chất
mực thước của anh bộ đội cụ Hồ.
*
Hoàng Cầm sinh ra và lớn lên ở làng
Cát Nội, xã Trực Đại,
tỉnh Nam Định. Sau gia đình chuyển lên sinh sống tại làng Đồi Mây, nay
là thị
trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 2 năm 1946, anh thanh niên Hoàng
Cầm tình
nguyện lên đường vào bộ đội chống Pháp. Trước khi vào quân ngũ, Hoàng
Cầm có
gần một năm đi làm thuê (làm đầu bếp) cho một gia đình ở Hà Nội. Có lẽ
vì thế
Hoàng Cầm được cử làm chiến sỹ nuôi quân thuộc đơn vị quân y tiền
phương sư
đoàn 308. Là anh nuôi, Hoàng Cầm luôn tận tâm, tận lực với công việc
nấu ăn
phục vụ bộ đội nhiều chiến dịch. Qua chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến
dịch
Hòa Bình năm 1952, Hoàng Cầm nhận ra chiến tranh ngày càng khốc liệt.
Bộ đội ta
chiến đấu, hy sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hy sinh,
thương
vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc
mất mát
ấy có một phần do việc nấu ăn. Khói lửa từ những cái bếp nuôi quân bốc
lên, máy
bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi của Hoàng Cầm và
nhiều
đơn vị khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn ban đêm, khi máy
bay địch
tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều
khi vẫn không tránh kịp tai họa. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê,
sống.
Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm nguội lạnh. Bộ đội ăn cơm sống, khê, nguội
lạnh,
không đảm bảo sức khoẻ. Hoàng Cầm nhớ một lần đồng chí thủ trưởng đơn
vị nhắc
tổ nuôi quân:
- Các đồng chí cố gắng xem có cách nào
khắc phục cái bếp. Để
anh em thương vong chết chóc ở ngay nơi đóng quân và ăn uống khổ cực là
mình có
tội với nhân dân, với bộ đội đấy.
Đúng! Để bộ đội chết vì nấu ăn là mình
có tội. Hoàng Cầm
trăn trở ngày đêm suy nghĩ. Có buổi anh ngồi hàng giờ đồng hồ dưới tán
cây rừng
quan sát anh em nhóm bếp và đăm đăm nhìn ngọn lửa, nhìn làn khói xanh
cuồn cuộn
bay lên.
Trong bản tự thuật quá trình mày mò,
sáng chế kiểu bếp mới,
Hoàng Cầm kể: “Một đêm nằm nghĩ miên man, tôi chợt nhớ đến cách nấu cám
lợn ở
vùng Nam
Định
quê tôi. Hồi đó bếp thường đắp bằng đất sét kín chung quanh chỉ để một
lỗ thoát
hơi phía sau, nên lửa cháy tập trung ít bốc ra ngoài. Nhưng làm thế nào
để bếp
đun không có khói? Suy nghĩ mãi đến hơn nửa tháng sau tôi mới nghĩ ra
cảnh mình
từng đi hun chuột ngoài đồng. Đào cửa hang sâu xuống, chất rạ đốt, hầu
như khói
hút cả vào trong hang. Tôi mừng quá, nếu áp dụng để cải tiến thành bếp
nuôi
quân kiểu mới sẽ hạn chế được khói và lửa bốc cao”.
Từ cơ sở đó, Hoàng Cầm miệt mài nghiên
cứu, vẽ sơ đồ một số
kiểu bếp. Ngày ngày anh tranh thủ trưa, tối, có khi cả buổi vác xẻng,
đeo xoong
nồi, trốn vào rừng đào bếp thử nghiệm. Không biết có thành công hay
thất bại,
nhưng sợ anh em tốn sức, vất vả, anh dấu kín mọi người. Anh đào hàng
chục cái
bếp khác nhau, có nhiều nhánh dẫn khói như hang chuột. Làm xong anh đặt
nồi lên
từng cái bếp chất củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói
ra vẫn
phảng phất bay lên. Lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa. Lần này
Hoàng
Cầm đào các đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp đôi. Trên rãnh
dẫn khói
rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu,
trên lợp
nilon hoặc lá vừa để đồ, vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút lửa
mạnh hơn.
Trong bản tự thuật, Hoàng Cầm viết:
“Lần này bếp có nhiều ưu
điểm, đã dấu kín được ánh lửa, nhưng khói trên ống dẫn vẫn lảng bảng
bay lên
ngọn cây. Nghĩ mãi, tôi chợt nhớ ngày ở quê, chiều chiều nấu cơm, gặp
trời mưa,
khói chui qua mái gianh ướt, bốc lên nhè nhẹ như sương mù. Tìm ra rồi,
sướng
quá, tôi lật hết cành cây khô lát trên đường ống dẫn rồi dùng cây chuối
rừng
chẻ ra lát lên trên, phủ đất san phẳng và dùng nước tưới đều lên rãnh
dẫn khói.
Quả nhiên khi đun khói cứ là là tỏa đều mặt đất, không bốc lên cao
nữa...”
Ông Đỗ Văn Cường, cùng đơn vị Hoàng
Cầm cho biết: “Anh em
chúng tôi ân hận mãi về chuyện anh Cầm trốn đi làm bếp. Ngày đó có mấy
cô gái
trong bản gần nơi đóng quân thường lui thới nhặt rau, đánh rửa xoong
nồi giúp
anh nuôi. Anh Hoàng Cầm có quen một cô. Các
buổi trưa, buổi tối thấy anh thường xuyên vắng đơn
vị, anh em cho là anh
Cầm dụ cô gái vào rừng tán tỉnh. Đang định kiểm điểm tội vô kỷ luật của
anh thì
có một chiến sỹ tinh nghịch đã bám theo để “rình” anh. Chỉ thấy một
mình Hoàng
Cầm mình trần dưới tán cây rừng, hì hục đào đất, mồ hôi ướt đìa. Thì ra
anh
trốn vào rừng đào bếp thử nghiệm chứ không phải đi tán gái”.
Cái bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù
hợp với bộ đội thời
chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối,
không sợ
máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát
địch, anh
nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày.
Tháng 10 năm 1952, đơn vị quyết định,
cái bếp được mang tên
người chiến sỹ đã sáng tạo ra nó: Bếp Hoàng Cầm. Anh chiến sỹ nuôi quân
Hoàng
Cầm được tặng thưởng huân chương chiến công hạng 3. Và năm đó Hoàng Cầm
được
suy tôn là chiến sỹ thi đua toàn quốc. Bếp Hoàng Cầm được phổ biến, áp
dụng
trong toàn quân.
Từ đó cái bếp theo bộ đội hết chiến
dịch này đến chiến dịch
khác. Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, bếp Hoàng Cầm
tiếp tục là
bạn đồng hành của bộ đội nuôi quân suốt những năm chống Mỹ. Và nó đã đi
vào lời
bài hát làm cả triệu anh bộ đội xao xuyến khôn nguôi: “Nổi lửa lên em,
đánh Mỹ
đêm ngày... Đôi quang gánh nặng tình yêu đất nước. Hơi bếp Hoàng Cầm
sưởi ấm
khắp nơi nơi...”.
*
*
*
Trong con người ông Hoàng Cầm, người
ta bảo có đến hai con
người. Một Hoàng Cầm được tôn vinh, được
ngưỡng mộ bởi chiến công sáng tạo độc đáo của ông.
Một Hoàng Cầm bươn
trải trong cuộc sống đời thường, chuân chuyên và cơ cực. Nếu chỉ một
chiều ca
ngợi chiến tích của ông thì quả là còn thiếu trách nhiệm. Bởi nghị lực
vươn lên
trong sự chuân chuyên đời thường, nhiều lúc xót xa, nhưng chính nó lại
tôn vinh
phẩm chất cao đẹp trong con người Hoàng Cầm.
Sau 16 năm gắn bó với đơn vị, hiến
dâng cái bếp Hoàng Cầm kỳ
diệu cho quân đội, năm 1961, anh bộ đội Hoàng Cầm cấp bậc đại úy về
làng phục
viên.
Làng Đồi Mây, Tam Đảo quê hương thứ 2,
cũng chính là quê
ngoại của Hoàng Cầm. Về quê, ngày ngày vợ chồng ông lên đồi phát cỏ,
cuốc đất
trồng chè, trồng sắn. Đất ở đây đá sỏi, bạc màu, làm lụng vất vả cuộc
sống dân
làng và gia đình ông quanh năm vẫn nghèo đói. Làm ruộng không đủ nuôi
gia đình,
nhưng cái đói không trói nổi ông, ngay trong những năm sáu mươi, Hoàng
Cầm đã
xoay xở tìm cách làm kinh tế để tự cứu mình và cứu dân làng. Ông chuyển
sang làm
que kem và tổ chức cho bà con trong làng làm que kem bán cho các nhà
hàng ở Hà
Nội và Vĩnh Yên để kiếm sống.
Bán que kem, ngày ngày phải lang thang
khắp đây cùng đó tìm
nơi tiêu thụ thật vất vả. Nhớ một lần, Hoàng Cầm bảo thật không ngờ.
Hôm ấy ông
về Hà Nội bán que kem cho cửa hàng Thủy Tạ, tình cờ gặp người bạn gái
là Trần
Thị Lan chiến sỹ thông tin của đại đoàn 308 cũ. Lan cùng đi dự đại hội
chiến sỹ
thi đua toàn quốc với Hoàng Cầm cuối năm 1952. Ngày đó Lan rất ngưỡng
mộ Hoàng
Cầm, ngưỡng mộ tài năng của người làm ra cái bếp Hoàng Cầm, cái bếp
được toàn
quân khâm phục. Rồi Lan đem lòng yêu thương Hoàng Cầm. Lan xinh đẹp,
lại có ý
chí phấn đấu, nói năng hiền dịu, Hoàng Cầm cũng rất cảm tình. Nhưng vì
đã có
người yêu ở quê Nam
Định rồi, Hoàng Cầm và Lan đành phải xa nhau. Không được làm bạn đời
với Hoàng
Cầm, Lan vẫn yêu mến, ngưỡng mộ, và luôn cầu mong cho Hoàng Cầm tiến
bộ. Bẵng
đi thời gian khá lâu, Hoàng Cầm và Lan đều đã lập gia đình. Hai người
không còn
điều kiện biết về tin tức của nhau. Khi nghe nói có một ông Hoàng Cầm
được
phong quân hàm cấp tướng, Lan mừng lắm. Lan cứ nghĩ đó là Hoàng Cầm
ngày xưa
Lan đã yêu. Lan cho rằng người có công như Hoàng Cầm được phong tướng
là xứng
đáng lắm. Ai ngờ hôm gặp nhau, lúc đầu Lan không tin ở mắt mình. Hoàng
Cầm, Lan
gặp không phải một ông tướng bệ vệ, oai phong mà là một ông Hoàng Cầm
gầy nhom,
vai đeo thùng kem, tay dắt chiếc xe đạp cà tàng vừa đi vừa “que kem
đây”.
Ba năm bán que kem vất vả, thu nhập
thất thường và rất thấp,
Hoàng Cầm lại chuyển sang mở xưởng nấu nước chấm (nước mari) và làm
miến đao,
thu hút lao động trong làng vào cùng làm. Làm nước chấm và miến thu
nhập tạm
ổn, cuộc sống gia đình ông và dân làng đã vượt qua những ngày đói kém.
Vợ ông đau yếu luôn, nên tất tật công
việc nặng nhọc đều đổ
vào đầu ông. Phải cố sức làm quần quật ông mới nuôi nổi năm miệng ăn.
Người con
trai duy nhất của vợ chồng ông là Hoàng Thư đã khôn lớn. Những tưởng
Thư sẽ
gánh vác công việc nặng nhọc để bố đỡ vất vả. Nhưng năm đó, cuộc chống
Mỹ đang
khốc liệt, ông Hoàng Cầm đã động viên Thư lên đường giết giặc. Trước
ngày nhập
ngũ, ông căn dặn Thư:
- Con cứ yên tâm đi, bố tuy sức yếu
rồi nhưng vẫn cố gắng
làm lụng để nuôi mẹ và các em con được. Chiến trường đánh Mỹ chắc chắn
sẽ ác
liệt hơn thời bố đánh Pháp. Con cần phải cố gắng nhiều.
Tháng 4 năm 1963 Hoàng Thư vào bộ đội,
thuộc đơn vị C150 -
Bộ Tư lệnh B3 và chiến đấu “một lèo” tới năm 1975, năm giải phóng hoàn
toàn
miền Nam.
Con trai ra đi, ở nhà vật lộn với cuộc
sống giữa vùng quê
Vĩnh Phúc nghèo đói của thời kỳ bao cấp, thật gian nan. Tuổi cao, ngày
càng
yếu, Hoàng Cầm không còn đủ sức đi bán kem que, làm xì dầu, miến đao
nữa. Ông
tìm lên một ngôi đền trên núi Tam Đảo phục vụ đèn nhang, hương khói,
quét dọnvà
trông coi đền. Ngôi đền đó thờ Đức Thánh Trần.
Gặp những người dân sinh sống qnah đền
họ kể: ngày ngày ông
dạy từ tinh mơ, quét dọn, nhặt cỏ, tưới cây, lau bệ Phật, sắp hương,
nến để
người thập phương lên thăm quan, nhang khói Đức Thánh. Không phải nhà
sư tu
hành chính quả, nhưng cái tâm của ông với ngôi đền, với dân làng khiến
nhiều
người lui tới đều kính nể. Họ gọi ông với những cái tên thân thuộc:
Hoàng Cầm
giữ đền, ông từ Cầm...
Ông Nguyễn Đức Chiểu người bạn cùng
đơn vị với Hoàng Cầm,
hiện ở cạnh nhà ông Cầm kể lại:
- Tôi với ông Hoàng Cầm trước ngày
cùng ở tiểu đội nuôi quân
của sư đoàn 308. Hồi đó ông Cầm nghĩ ra cái bếp không có khói, cả đơn
vị chúng
tôi mừng lắm. Đến khi về phục viên, ông lên coi đền Đức Thánh Trần.
Ngôi đền ở
gần nhà tôi và nhà ông. Tư rằm, mùng một tôi thường lên đền thăm ông.
Liên
tưởng tới ngày ông Cầm còn ở đơn vị với tôi, ông phụ trách bếp nuôi
quân, ông
luôn phải ghìm khói. Bây giờ thắp hương, ông để mặc cho khói bay lên.
Nhìn ông,
lắm lúc tôi cứ bấm bụng mà cười.
Ông Chiểu cười rồi nói tiếp:
- Một lần đơn vị 308 hành quân qua
chân núi Tam Đảo. Lúc
dừng nghỉ, được tin người chiến sỹ Hoàng Cầm của đơn vị 308 năm xưa,
người làm
ra cái bếp Hoàng Cầm vĩ đại, đang coi đền Đức Thánh Trần trên núi. Thế
là anh
thủ trưởng đơn vị đích thân lên đền thắp hương và đón ông Hoàng Cầm về
đơn vị
cũ chơi 3 ngày. Tôi là người cùng tiểu đội với ông Hoàng Cầm nên cũng
được đón
đi cùng với ông.
Chị Hoàng Thị Định, con gái ông Hoàng
Cầm hiện ở thị trấn
Tam Đảo kể với chúng tôi một chuyện rất cảm động: “Một hôm tôi lên đền
giúp đỡ
bố. Gần trưa có đoàn cán bộ từ Hà Nội lên Tam Đảo tham quan và vào thắp
hương
Đức Thánh Trần. Có ông cán bộ ăn mặc chỉnh tề, đầu đội mũ phớt, đeo
kính trắng,
sau khi thắp hương, quay ra cứ chằm chằm nhìn bố tôi. Lúc đó bố tôi
đang mải
quét lá khô dưới gốc cây đại. Ông cán bộ bỗng kêu lên:
- Anh Cầm hả?
Ông cán bộ tháo kính ra, cái chổi trên
tay bố tôi rơi xuống
đất, hai người ôm chặt lấy nhau.
- Sao anh lại ở đây, anh Cầm?
Rồi ông quay ra giới thiệu với những
người cùng đi:
- Đây là anh Hoàng Cầm, bạn cùng đơn
vị với tôi, người chế
tạo ra cái bếp Hoàng Cầm nổi tiếng thời chống Pháp đấy.
Mọi người
vây quanh,
hình như họ đều đã từng nghe tiếng cái bếp Hoàng Cầm của bố tôi. Có
người đi bộ
đội từng nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm. Được thấy tác giả chế tạo ra cái
bếp nổi
tiếng, họ chăm chú nhìn bố tôi vẻ thán phục.
Ông cán bộ buông bố tôi ra hỏi:
- Anh ở đền này lâu chưa?
- Hơn chục năm rồi. Bố tôi nói. Ông ta
tròn mắt:
- Sao anh không chuyển ngành hay đi
làm một nghề gì đó mà
lại ở chùa?
- Tôi đã làm nhiều nghề rồi. Giờ đây
sức yếu, ở đền cái tâm
mình nó tĩnh tại, tôi thấy khỏe ra.
Ông cán bộ nói:
- Anh hay thạt, người ta mong có thành
tích xuất sắc để được
“làm quan” có tiền, có chức, anh lại vào chùa để được hưởng tĩnh tâm.
Ông nói tiếp vẻ nhiệt tình:
- Không. Người vĩ đại như anh, người
“đẻ” ra cái bếp Hoàng
Cầm cho anh nuôi toàn quân không thể đi quét chùa. Về Hà Nội, tôi sẽ
báo cấp
trên đề bạt để anh đi làm cán bộ.
Bố tôi lắc đầu:
- Cảm ơn anh. Ước nguyện của tôi giờ
chỉ mong mình sống khỏe
mạnh. Làm được việc gì có ích cho dân, cho nước thì tôi làm.
Bố tôi bảo, ông bạn gặp bố tôi hôm đó
là cán bộ cấp Vụ
trưởng. Về sau không thấy ông ta liên lạc lại, tôi nói hay ông ấy quên
bố. Bố
tôi bảo, ông ấy làm lãnh đạo công việc bận mải, chứ ông không quên đâu.
Vì ngày
ở đơn vị hai người rất thân nhau mà”.
*
*
*
Mười lăm năm hương khói trên cõi “niết
bàn”, tuổi cao, đau
yếu luôn, ông Hoàng Cầm không còn đủ sức coi đền Đức Thánh Trần núi Tam
Đảo
nữa. Lộc Thánh và sự giúp đỡ của địa phương cũng không cưu mang nổi ông
lúc
cuối đời. Ông về Hà Nội nương nhờ người con trai Hoàng Thư. Sau hơn 10
năm
chiến đấu ở chiến trường B3, Thư về, học sư phạm rồi làm giáo viên
trường PTTH
Phan Đình Phùng, Hà Nội. Đồng lương giáo viên ít ỏi, phải nuôi vợ không
việc
làm, nuôi con nhỏ và người bố già bệnh tật, hoàn cảnh gia đình Hoàng
Thư thật
khốn khó. Thương con, ông Hoàng Cầm không muốn mình thành gánh nặng cho
con.
Nhưng chẳng còn cách nào. Cuộc sống kéo dài ngày một chồng chất khó
khăn. Ông
đành viết một lá đơn đề nghị cấp trên cứu giúp. Vốn là người chỉ biết
tự lực
vượt khó, không bao giờ đòi hỏi kêu ca. Viết xong, ông ngần ngại rồi xé
đi.
Một người bạn khuyên: “Cái chất trong
con người ông là chất
Hoàng Cầm. Nhưng Hoàng Cầm cũng là con người. Mình hoạn nạn, mình kêu,
đấy mới
là con người”. Nghe lời bạn, cộng với gia cảnh bức thúc quá, lá đơn thứ
2 đề
ngày 15/3/1994 có
đoạn ông
Hoàng Cầm trình bày:
“... Cả gia đình tôi 4 bố con, ông
cháu ở nhà một “mái vẩy”
9m2 của trường PTTH Phan Đình Phùng cho mượn. Tôi không biết nằm dọc,
nằm
nghiêng, ngửa thế nào cho tiện. Các cháu học sinh của con tôi, bạn bè,
đồng đội
đến thăm khi đau yếu, thật ái ngại, xin ngồi xuống đất. Lúc ốm chìa tay
bấu
đồng lương ít ỏi của con để mua thuốc, thật không đành. Cực chẳng đã,
có lần
tôi chống gậy đến một bệnhviện khám bệnh và xin thuốc. Một nhân viên
phòng khám
bảo: Bác phải có sổ, có giấy tờ, chế độ mới được khám cấp thuốc. Tôi
trình bày,
tôi là Hoàng Cầm, bộ đội phục viên ở với con nên không có giấy tờ gì.
Họ nói:
Một Hoàng Cầm chứ mười Hoàng Cầm cũng vậy thôi. Tôi viết lá đơn này đề
nghị cấp
trên xét cấp cho tôi một cái sổ khám bệnh, một tiêu chuẩn nhà đất như
hàng vạn
người khó khăn khác để ổn định sức khoẻ đoạn đời còn lại. Năm nay tôi
đã 81
tuổi. Để khỏi có lúc chợt nghĩ “nếu có mệnh hệ nào” tôi không muốn nằm
tại 9m2
nhà đi mượn cho con cháu khỏi phiền lòng...”.
Nỗi lòng ấy âu cũng là cái chất rất
con người trong Hoàng
Cầm. Và chính nó đã làm nên một Hoàng Cầm chân thật, đáng thương và cao
thượng,
làm rung động trái tim của không ít người. Lời thỉnh cầu của ông đã
được những
người làm chính sách hết lòng giúp đỡ.
Gặp thiếu tướng Nguyễn Thế Kỷ, nguyên
Cục trưởng Cục quản lý
hành chính Bộ Tổng tham mưu, hiện ở phường 2, Quận Tân Bình, tp. Hồ Chí
Minh.
Ông cho biết:
- Nhận được đơn và ý kiến của cấp
trên, chỉ trong một tuần
lễ, chúng tôi đã lo chu tất cho ông Hoàng Cầm. Đã giải quyết cho ông
một căn
nhà 43m2 ở khu tập thể 28 Điện Biên Phủ, Hà Nội, một quyển sổ khám chữa
bệnh
tại bệnh viện quân đội và tạo việc làm cho người con dâu của ông là chị
Minh,
vợ anh Hoàng Thư vào giữ trẻ tại cơ quan.
Ông Hoàng
Cầm hưởng
cuộc sống đầm ấm trong căn nhà mới được gần 3 năm thì đi theo tiên tổ.
Ra đi,
ông để đời một công trình vô giá.
Dẫu mai này, có thể người ta lại quên
cái tên người chiến sỹ
nuôi quân Hoàng Cầm. Nhưng cái bếp Hoàng Cầm của ông. Cái bếp đã đi vào
lịch sử
hai cuộc kháng chiến vệ quốc của dân tộc, có thể sẽ trở thành cái bếp
huyền
thoại, truyền mãi đến muôn đời.
(Báo Văn nghệ)
|