Diary
|
Beware of Pity
Hannah Arendt and the power
of the impersonal
Hãy coi chừng lòng thương hại
Hannah Arendt và quyền năng của sự vô ngã
In
1999, the Croatian novelist Slavenka
Drakulić visited The Hague to observe
the trials
for war crimes committed in the former Yugoslavia. Among the
defendants
was Goran Jelisić, a thirty-year-old Serb from Bosnia,
who struck her as “a man
you can trust.” With his “clear, serene face, lively eyes, and big
reassuring
grin,” he reminded Drakulić of one of her daughter’s friends. Many of
the
witnesses at The Hague shared this view of the defendant—even many
Muslims, who
told the court how Jelisić helped an old Muslim neighbor repair her
windows
after they were shattered by a bomb, or how he helped another Muslim
friend
escape Bosnia with his family. But the Bosnian Muslims who had known
Jelisić
seven years earlier, when he was a guard at the Luka prison camp, had
different
stories to tell. Over a period of eighteen days in 1992, they
testified,
Jelisić himself killed more than a hundred prisoners. As Drakulić
writes, he
chose his victims at random, by asking “a man to kneel down and place
his head
over a metal drainage grating. Then he would execute him with two
bullets in
the back of the head from his pistol, which was equipped with a
silencer.” He
liked to introduce himself with the words “Hitler was the first Adolf,
I am the
second.” He was sentenced to forty years in prison.
Anh ta thích tự giới thiệu về mình: Hitler là Adolf thứ nhất. Tớ, thứ
nhì.
Trân
trọng giới thiệu tác
phẩm mới nhất của Thảo Trường
Rừng
Tràm
Những
giấc mơ trong bệnh viện
Note: Chúc PCL chóng
lành
bịnh. Thăm NN. NQT & Tin Văn.
Ui chao lại nhớ lần tính dự đám cưới của hai bạn. Xong xuôi hết rồi,
thì xẩy ra dịch SAR! Tiếc quá! NQT
Nếu kể cả thời gian tá túc trên VHNT, thì Tin Văn cũng được 10 niên.
Rồi lại... 10 niên nữa?
Những đứa con của trí tưởng
Travels with Hodorotus Review TLS
Ryszard
Kapuscinski, widely
regarded as the greatest journalist of the twentieth century, died in
January
this year. Virtually the last sentence he wrote was the one that
concludes this
volume of memoirs. It is a description of the receptionist at a hotel
in Bodrum, Turkey,
the modern name for the ancient town of Halicarnassus,
where the ancient Greek historian Herodotus was born. As she greeted
the ageing
Pole, the “black-eyed” young Turk’s smile was professionally polite,
but
“tempered by tradition's injunction always to maintain a serious and
indifferent mien toward a strange man”.
Kap
được nhiều người coi là nhà
báo vĩ đại nhất của thế kỷ 20, chết tháng Giêng vừa rồi [2007]. Cứ kể
như câu
văn chót ông viết, là câu đóng lại tập chót cuốn hồi ức này của ông.
Câu văn tả
cô tiếp tân của một khách sạn ở Bodrum, Thổ nhĩ kỳ, tên mới của thành
phố cũ, Halicarnassus,
nơi sử gia
Hy Lạp thời cổ đại Herodotus sinh ra. Mặc dù lịch sự có thừa, đúng dân
nhà
nghề, nhưng nụ cười của cô thiếu nữ Thổ mắt đen lay láy vẫn phảng phất
sự khinh
khi, rè bỉu, lãnh đạm, đúng theo truyền thống, đối với một “người dưng”.
*
Đúng là một câu văn của một
tay
điểm sách nhà nghề, trên tờ báo văn học số
1 của thế giới. Lịch sự có thừa, nhưng gói gém tất
cả những gì bài viết sau đó sẽ mở ra.
1. Herodotus là thầy của Kap.
2. Vẻ lãnh đạm truyền thống này, cũng là vẻ lãnh đạm truyền thống, của
những xứ sở mà Kap viết về họ. John Ryle, trong bài điểm cuốn Bóng Mặt Trời xác nhận điều này:
"Tác phẩm của ông không được nhiều độc giả Phi châu đón nhận, và họ, cả
học giả, lẫn ký giả, thì đều hồ nghi sự chính xác của nó".
3. Sự tiếp nhận của Tây phương,
cũng dè dặt. Đây là nói về tác phẩm
The Emperor của ông, vẫn theo John Ryle. Bởi
vì "hai lần dè dặt" đối với nguồn, [awareness of its doubly
exotic origin]: Một cuốn sách viết về một xứ sở xa vời, và được viết
bởi một tác
giả cũng vời xa không kém, một "rara avis" [a rare or unique
person
or thing, nhân vật độc nhất], một bậc thầy, bề ngoài, của một thứ
ký giả mới của Tom Wolfe, từ bên trong
thế giới CS bò ra.
Ai điếu Kap. trên TLS
Phi Châu Truyền Kỳ:
Kapuscinski và chủ nghĩa thực dân thuộc địa văn chương
John Ryle đọc Bóng mặt trời, The
Shadow of the Sun, của Ryszard Kapuscinski
TLS 27 July 2001
Note:
Nhân trong nước cho ra
lò một tác phẩm của ông.
*
Ông không viết về những thế
giới tưởng tượng, cũng không viết về thế giới nội tâm của riêng ai, mà
là một
thế giới thực, những sự kiện đã xảy ra, những gì chính mắt ông đã nhìn
thấy, và
bằng thiên tài của mình, ông phân tích, xâu chuỗi, đánh giá chúng, nâng
chúng
lên một tầm cao mới; do đó những gì ông viết, ngoài giá trị văn học,
mang một
sức nặng hiếm có của các tư liệu, dữ kiện."
BBC
Tôi sợ,
ngược lại! Me-xừ này vừa
làm phóng viên, vừa làm gián điệp!
Tin Văn mới đi một đường về tay này, trục trặc kỹ thuật, bị mất, nay
đành phải
dịch một số đoạn, trên TLS, để minh chứng cho điều trên.
Herodotus được coi là 'cha già của dối trá', còn Kap
(1),
thì TLS gọi là
'bà mẹ dối
trá'. Vậy mà dám phán là ông không viết gì về thế giới tưởng tượng!
Bài của John Ryle, trên TLS được đánh giá là bài viết hay nhất về Kap.
Tin Văn
sẽ chuyển ngữ trong những kỳ tới.
John
Ryle: Tales
of mythical Africa
Where
fact meets tropical
baroque: Kapuscinski and literary colonisalism
TLS 27
July 2001
*
Kap, Kap, nghe như
Cạp, Cạp, khiến
Gấu nhớ ra câu
chuyện tiếu lâm tại sân gà vịt vào một buổi sáng sớm, anh cu chó hỏi
chị gà mái:
-Này,
có tin gì mới không?
-Tớ chưa gặp con vịt!
*
We have
recently learned from
TLS how to review books one has not read (or how to teach about such
books at
the university). The glorified Ryszard Kapuscinski has experienced more
than
most, but those who are properly familiar with themes and places he
wrote about
know that his version is basically fictional--even when there is enough
of a
veneer of truth to make it believable to many superficial readers. If
Herodotus
was the "father of lies",
Ryszard Kapuscinski deserved the title "mother of lies".
That said, it is very enjoyable to read his books,
as fiction. And he deserves credit for cutting dictators down to size,
but it
would have been even better it he had stuck to the truth about them.
That is
already bad enough..
Chúng ta vừa mới biết, qua
TLS, về chuyện làm sao đìểm những cuốn sách mà người điểm chưa đọc, hay
là làm
sao dậy về những cuốn sách như thế ở Đại học. Kap còn hiển hách hơn thế
nhiều,
nhưng với dân nhà nghề, họ coi sách của ông là giả tưởng, tuy nhiên,
vẫn đánh lừa
được nữ dịch giả như Thái Linh, thí dụ! Nếu sư phụ của Kap được coi là
'cha dối
trá', thì Kap cũng xứng đáng gọi là 'mẹ dối trá'. Nhưng đọc chúng như
là
giả tưởng,
thì cũng dzui! Ông ta được coi là người nhét những ông khổng lồ bạo
chúa vào trong chai, nhưng giá mà ông cố bám vào sự thực về họ. Như vậy
cũng đủ khốn nạn rồi!
*
Đây là những tính chất đã trở
thành cổ điển của văn phong của Kap; một bên là bức tranh sống động,
nơi hầu như
chẳng có gì xẩy ra (cảnh tượng bên trong một chiếc xe taxi-bus, tiện
ích của những
chiếc túi ni lông đối với mấy bà nhà quê, một bên là những cuộc phiêu
lưu khiến
tóc dựng đứng, nơi Kap có thể mất mạng sống, chết đói, chết khát, chết
bệnh thời
khí vùng nhiệt đới, rắn cắn, đạn lạc…. hai bên nhập lại đẩy lên một
mức, trở thành
những suy tưởng mang tính triết học về một thế giới ở bên ngoài Âu châu.
Nhưng chính những dòng suy tưởng
triết học của ông làm người đọc nghi ngờ tính chân xác của Kap, khi
chọn lựa thể
văn “phóng sự”. Sức mạnh văn phong của ông dựa trên sự chính xác, dựa
trên một
giọng nói của kinh nghiệm, của quyền uy, của một con người, như chúng
ta được ông kể lại, trong Shad of
Shads, đã sống sót hai mươi bẩy cú
đảo chánh và cách mạng, người đã chạy trên những đoạn đường nóng bỏng,
những con phố buồn hiu [mượn chữ của Bernard Fall viết về Việt Nam], bị
cầm giữ bủa vây ở trong những thành phố, nhà phóng viên ngoại độc nhất
còn ở lại trong khi tất cả bạn bè nhà báo của ông đã cuốn gói, như ông
viết trong The Soccer War:
Tôi đi trên con đường nơi người ta nói,
không một tên mọi trắng nào đi mà thấy trở về, "I was driving along a
road from where they say no white man can come back alive"...
John Ryle
Chắc chắn, mấy anh Yankee Bi Bì Xèo chưa từng đọc Kap, chắc chắn Nguyễn
Thái Linh cũng chưa từng đọc TLS, chưa từng biết đến nghề tay trái của
Kap?
Thảm thế!
*
Phi Châu Truyền Kỳ:
Kapuscinski và chủ nghĩa thực dân thuộc địa văn chương
TRAVEL
Tales of mythical Africa
Where fact meets tropical
baroque: Kapuscinski and literary colonial
JOHN RYLE
Ryszard Kapuscinski
THE SHADOW OF THE SUN 336pp. Allen Lane The
Penguin Press. £18.99. TLS £18.49.
071399455 X
In a career extending over
four decades, Ryszard Kapuscinski has published accounts of Iran, of
travels in
his homeland, Poland, and the former Soviet Union, and a collection of
reportage from a number of Third-World countries including Honduras, El
Salvador,
Chile and Bolivia. But his principal subject has been Africa, where, in
the
late 1950s, in his mid-twenties, after a brief spell in India and Pakistan, he began his
career as a
foreign correspondent, working for the Polish state news agency. In the
1960s,
he covered the early years of independence and the first of the
postcolonial
civil wars that have ravaged the continent ever since. In the 1970s, he
revisited these conflicts in a sequence of works of reflective
reportage, works
in which he transformed himself from a journalist into an author of
international
stature. In The Emperor: The
downfall of an autocrat, his account of
the final
years of the reign of Haile Selassie I, which appeared in Polish in
1978,
Kapuscinski invented a new subgenre of political reportage. In a series
of
linked testimonies from former Ethiopian court officials he created an
arresting picture of the accelerating collapse of an authoritarian
regime. This
was a story that had special resonance for his audience in Poland,
where
dissent against Communist autocracy was growing. The Emperor was also
the book
that established Kapuscinski's reputation in the West. When it appeared
in
English translation, in 1983, it was an immediate critical success. In
1987, in Another Day of Life (published
in Polish in 1976), he chronicled the
beginning
of the civil war in Angola
and the disintegration of civil institutions in the capital, Luanda. In The
Soccer War (1990), he
collected vignettes of insurrection and revolution in Ghana and the Congo, Ethiopia
and Somalia,
juxtaposing them with accounts of
conflicts in South America. Each of
these
books added to Kapuscinski' s reputation, leading more than one critic
to
compare his work to that earlier chronicler of the tropics and human
beings in
extreme situations - his compatriot Jozef Korzeniowski, better known as
Joseph
Conrad.
Vĩnh Biệt
Bạn Cờ
Chân dung Trần Đăng
Khoa
TTD
TDK by NQT
Xuân Diệu: Phượng Hoàng đậu
chốn cheo leo...
Ẩn dụ, ám dụ, hoán
dụ... là
những hình tượng (figures) tu từ. Nói nôm na, chúng đều là chuyện ví
von, nói
gần nói xa, nói bóng nói gió, mơ mơ hồ hồ, về một sự kiện, một sự thật
nào đó -
con người chưa biết, hoặc là biết nhưng lại không thể nói thẳng ra.
Không có tu
từ là không có văn chương.
Con
người, và nhân loại, ở
vào thời trẻ thơ của nó, ngạc nhiên vì vẻ tự nhiên của sự vật. Đây là
thời đại
hoàng kim của những "nhà văn không văn chương" (écrivain sans
littérature). Nhưng dần dà (già), trở nên trơ ra, bị "lão hóa", hết
còn ngạc nhiên vì chuyện "tự nhiên". Văn chương bắt đầu bằng những từ
"hình như", "như là", "giống như"...
Nabokov,
nhà văn Nga, dùng
một ẩn dụ để diễn tả cùng một sự thực. Trong bài "Độc giả tốt và nhà
văn
tốt" ("Bon lecteurs et bon écrivains", trong Văn Chương I,
Littérature I, nhà xb Gallimard, tủ sách essais, loại bỏ túi), ông
viết:
"Văn chương không bắt đầu vào cái ngày, một đứa trẻ chạy trối chết từ
một
cánh rừng ra, và chạy và la "chó sói, chó sói", và một con chó sói
bén gót chú bé. Văn chương ra đời cái ngày chú bé la lớn "chó sói, chó
sói", và đằng sau lưng chú chẳng có con sói nào. Chuyện chú bé lập đi
lập
lại một lời dối trá, và sau cùng bị chó sói ăn thịt chỉ phụ thuộc,
nhưng điều
quan trọng ở đây là: giữa con sói ở góc rừng và con sói ở góc trang
sách, có
một mắt xích lóng lánh. Mắt xích đó, lăng kính đó, là nghệ thuật văn
chương."
Vẫn
theo ông, trong bài đã
dẫn: "Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là... giả tưởng. Gọi một câu
chuyện
là "chuyện thật, lịch sử thật", là làm "nhục" cả nghệ thuật
lẫn sự thực." Hãy bám hiện thực. Hãy viết dưới ánh sáng của hiện thực
xã
hội chủ nghĩa... phiền một nỗi, Thiên Nhiên, bà mẹ đẻ ra hiện thực chủ
nghĩa,
vốn luôn luôn đánh lừa. Một nghệ sĩ lớn đúng ra là nên đi theo vết chân
của bà,
thay vì trung thành với chủ nghĩa hiện thực!"
*
Tu
từ là con dao hai lưỡi.
Nước đẩy thuyền đi, nhưng nước cũng làm lật thuyền; đây cũng là nguyên
lý văn
chương: nó chết, khi bội thực tu từ.
Nói
nôm na: thùng rỗng kêu to.
Theo
ý nghĩa đó, những câu
thơ "thần" thường rất đỗi tự nhiên như... một lời nói. Thơ là lời
nói, là bề mặt cuộc sống, theo nghĩa, những băn khoăn, thắc mắc siêu
hình,
"gây ám ảnh" đều phải ngoi lên đó để mà thở. Thơ là lời nói để mà
quên đi, thay vì nhớ hoài, bởi vì có nhớ cũng không thể được. (Ôi, anh
đâu có
nhớ những lời em nói khi từ biệt, và sau này anh bịa đặt, tưởng tượng
ra chúng,
tưởng tượng ra em...).
Thơ,
là để quên đi, chứ không
phải để nhớ mãi. Chính vì quên, nên anh tưởng tượng ra em. Chính vì
quên mà
chúng ta đọc. (It is precisely because I forget that I read. Roland
Barthes: Reading,
Forgetting; S/Z;
bản dịch tiếng Anh).
*
Một
hình ảnh thơ thuộc loại
quí hiếm thường không viện dẫn đến những hình thức tu từ. Gaston
Bachelard coi
thi ảnh, "image poétique" khác với ẩn dụ thơ (métaphore poétique), là
vậy. Khi dùng bóng hồng để chỉ giai nhân, cánh buồm để chỉ con thuyền,
tang
thương dâu bể... chúng là những ẩn dụ thơ. Nhưng những câu văn như sau
đây
chẳng hạn, là những hình ảnh thơ; chúng không cần đến tri thức, không
viện dẫn
tu từ:
"Cây
cầu kêu dưới bánh
xe với tiếng nước xoáy lạnh dưới chân cầu trong buổi chiều ngất ngư
chưa muốn
ngã". (Thanh Tâm Tuyền, Bếp Lửa)
"Trên
chòi canh, hai
con
mắt nguời lính gác tối đen nhìn qua núi". (TTT, sđd).
Quá
chút nữa, ẩn dụ trở thành
viễn dụ (vision): con sói trong mê cung của Kafka ngày càng nhập một
với con
sói của cuộc đời.
Theo
nghĩa đó, chúng ta có
thể hiểu được tại sao Xuân Diệu coi việc làm thơ giống như chuyện cháy
nhà. Và
đây là một viễn dụ, theo tôi.
*
Trong
"Chân Dung và Đối
Thoại", Trần Đăng Khoa kể lại lần gặp gỡ nhà thơ Xuân Diệu:
"Còn
nhớ dạo ông tặng
tôi tuyển tập thơ, tôi đọc và quả thật, rất kính phục. Khi gặp ông, tôi
thú
thực:
-
Trong này có mấy bài thơ tứ
tuyệt, cháu thuộc từ đời nảo đời nào, thuộc thơ, rồi lại quên mất tác
giả, lại
tưởng thơ Đường, cứ đinh ninh thơ Đường mới chết chứ!
Xuân
Diệu cười, tỏ ra rất tâm
đắc (...). Thấy ông vui, tôi lại càng chân thật:
-
Cháu rất thích tập thơ này.
Nhưng không hiểu sao, vẫn cứ tiêng tiếc. Cháu thấy có nhiều bài dở, chú
ạ.
-
Ơ, cái cậu này hay chửa? -
Xuân Diệu trợn mắt lên - Thế cậu tưởng đây là tuyển thơ à? Còn phải
sàng sảy
chán. Đời sau người ta sẽ tuyển lại chứ. Còn bây giờ có cái gì, cứ phải
quăng
ra đã. Nhà đang cháy thì cái thúng, cái mẹt, cái váy đụp gì thì cũng
vứt ra,
rồi sau sẽ nhặt nhạnh (...). Nhà cậu đang cháy, mà cậu còn ngồi nhặt
nhạnh của
nả hả?
Tôi
im tịt chẳng nói được gì.
Đầu óc dường như mụ lị. Đúng thật. Sao mình lại ngu thế nhỉ. Ai lại
chọn lọc
của cải khi mà nhà đang cháy. Mãi đến lúc thoát ra khỏi cái mê cung của
Xuân
Diệu rồi, đạp xe đi một quãng xa rồi, tôi mới sực tỉnh, mới nhận ra một
điều
quá ư là đơn giản: in thơ tập, và cháy nhà là hai việc rất khác nhau."
*
Như
trên đã nói, văn chương
bắt đầu bằng những từ: "là" (Em là gió, là mây...), "hình
như" (là tình yêu), "như" ("sáng nay Nga như một con mèo
ngái ngủ...", "buổi sáng sớm tinh sương như một vết thương mới lên da
non"...). Tu từ (ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, thậm xưng, cường điệu....) đề
nghị một nối kết, giữa hai sự vật. Chúng ta tự hỏi: tại sao Xuân Diệu
lại so
sánh chuyện cháy nhà với chuyện làm thơ? Và cảm giác "mụ lị" của Trần
Đăng Khoa, và thái độ "phản tỉnh" (tự kiểm thảo?) sau đó, có thể hiểu
như thế nào?
Liệu
có thể có một nối kết
giữa con sói ở góc rừng, nỗi sợ của cậu bé, chuyện cháy nhà (chiến
tranh, B.52,
chủ nghĩa toàn trị sẽ phần thư tất cả, chỉ để lại những câu vè...), nỗi
sợ của
Xuân Diệu, con sói giả tưởng của ông...
Cả hai nhà thơ, Xuân Diệu và
Trần Đăng
Khoa đều nhận ra một sự thực: có những câu thơ của Xuân Diệu đã vươn
tới cõi
thơ Đường, đã trở thành tự nhiên như cây cối, như sỏi đá, người đọc mê
luôn, và
chẳng cần biết tác giả là ai. Nhưng để cho những câu thơ tồn tại, phải
quăng
vào đó, một mớ váy đụp... Như một nhà thơ, Xuân Diệu biết rõ, thời gian
qua đi,
chủ nghĩa toàn trị sẽ qua đi, sẽ bị huỷ diệt, tới lúc đó, nàng công
chúa sau
giấc ngủ dài, rũ khỏi lớp váy đụp, vươn vai tỉnh dậy...
Là
thi sĩ, làm sao ông không
biết bài ca dao vịnh Phượng Hoàng:
Phượng
hoàng đậu chốn cheo
leo,
Sa
cơ thất thế phải theo đàn
gà.
Bao
giờ mưa thuận gió hòa,
Rũ
lông, rũ cánh, lại ra
phượng hoàng.
(Tôi
viết lại theo trí nhớ).
Chen Yun (Trần Vân), kinh tế gia, thuộc
đảng bộ Bắc Kinh, trước khi mất vào tháng Tư, 1995, đã so sánh chính
sách kinh
tế Thị Trường Mới (New Market economy) của Trung Quốc như một con chim
tư bản
lớn lên ở bên trong cái chuồng xã hội chủ nghĩa (a capitalist bird
growing up
inside a socialist cage).
Liệu đã tới lúc con phượng hoàng thơ vỗ cánh
thoát ra
khỏi cái chuồng giam giữ nó?
Note: Loạt bài về TDK, Gấu viết theo lời yêu cầu của một người bạn, cho
tờ Cánh Én. Một số, sau đăng trên Việt Mercury. NQT
Giữa lòng đen
Xa
Miền Bắc hơn nửa thế kỷ, khi trở về, Gấu canh cánh trong lòng một
điều, giả
như Gấu này không bỏ chạy vào Nam năm 1954, thì cái thằng Gấu ở lại, nó
sẽ như
thế nào.
Đỉnh
cao chói lọi
Dọn
Dư
luận cũng đặt giấu hỏi
về sự bất thường của động thái cưỡng chế này của chính quyền tỉnh Hưng
Yên ở
một địa điểm chỉ cách trung tâm Hà Nội 13 km về hướng Đông Nam.
Đây là thứ tiếng Việt của mấy
anh Bi Bì Xèo!
Chính tả sai, ở đâu, không thể sai ở BBC tiếng Việt được!
Thứ nữa, câu
văn trên không rõ nghĩa. Đánh dấu hỏi về sự bất thường? "Bất
thường" như thế nào? (1)
NQT
(1). Thành thực xin
lỗi, Gấu
không để ý đến câu sau đó:
Vì
thông thường, trong thời
điểm diễn ra các phiên họp quan trọng của Đảng và Nhà nước, chính quyền
thường
tránh không để xảy ra các vụ việc gây xôn xao dư luận, bất lợi cho
Đảng.
Salman Rushdie
Những
đứa con giờ Tý
Văn chương và Siêu
hình: Về
cuốn Linh Sơn
|
|