Diary
|
Phố
cũ, thu xưa, [2006]
Tưởng nhớ TTT
Nguyễn
Chí Kham
Đỉnh Gió Hú
Chạy ù lên vơi xô nước trong tay
Câu
thơ, thoạt đầu
xuất hiện trên blog NQL, như trên.
Khi Gấu đọc bài thơ,
tới đó, khựng lại
ở từ ‘vơi’, và Gấu nghi,
thoạt đầu, ông tác giả tính lập lại dòng thơ
trước đó:
Nên
Anh lên với
xô nước trong tay
Nhưng
tiềm thức làm việc, biến “với” thành “vơi”.
Bèn hỏi, nhưng không phải.
*
Vơi ở đây, phải
hiểu như là một
động từ. Giống “tề phi”, trong “lạc hà dữ cô vụ tề phi", hay ‘đáo”,
“đáo khách
thuyền” trong Phong
Kiều Dạ Bạc… chúng
khiến bài thơ thoát cõi tục, con tằm cắn
kén chui ra thành bướm, con rồng được điểm nhãn, “nhất khứ bất phục
phản”!
*
Nhớ một lần ngồi Quán Chùa, lèm
bèm về thơ với ông anh, lạc vào Tống
Biệt của Tản Đà, ông anh gật gù,
từ “bảnh” nhất của cả bài thơ, là từ “huê”:
Nưóc chẩy huê trôi
Chỉ nội một từ ‘huê’ đủ uy lực
khiến:
Cái hạc bay lên vút tận
trời
Trời đất từ nay xa cách
mãi
Ngàn
năm thơ thẩn ánh trăng trôi
Của cải
của cái xấu.
Difficile
héritage: Di sản
khó nhai!
"Tình
yêu sau cùng được cứu rỗi nhờ bùn ở trên trời":
Nhà
thơ René Char định nghĩa tác phẩm của Sade, và món nợ của ông đối với
Sade,
l’éternel scandale.
Vĩnh Biệt
Bạn Cờ
Lèm
bèm về cờ
có lẽ là cách tưởng niệm tuyệt nhất
về bạn!
Có lần
Gấu nói bậy
nói bạ, cái
hồn của văn chương Miền Nam
nằm ở trong nhạc sến.
*
Những
bài hát nửa lạ nửa
quen, tôi nghe suốt từ thời thơ ấu, giờ vẫn gặp lại trong quán cafe,
quán nhậu,
trên đường phố… Tôi không mang về nhà thì thằng Bạc đem về, như thể nó
biết tôi
đã để quên, đã đánh rơi bên đường, như thể tất cả chúng là của tôi. Chỉ
có bài
hát “mèo hoang” nào đó mà thằng nhỏ nhắc, tôi thấy hơi xa lạ. Bạc tỏ ra
thất
vọng ghê gớm, bài đó hay lắm. Hát cho mấy người làm nghề bán bia ôm, mà
hay,
“có phải em về trong đêm nay, bước thấp bước cao ngã nghiêng trên đời
này…”
Bài
hát nào cho Bạc
*
Theo
Gấu, cái hồn thực sự của
văn học Miền Nam,
nó nằm ở trong lời nhạc, nhiều hơn là trong văn chương, trong thơ. Nằm
trong
những bản nhạc vàng, nhạc sến. Trong những bản thơ phổ nhạc, và nếu
không được
phổ nhạc, chẳng ai biết tới chúng.
Người
ta đã làm những công
việc thu gom, bảo tồn thơ văn miền nam, giá mà có một ai bỏ công sưu
tầm những
lời nhạc, rồi đi vài đường Mao Tôn Cương, chắc cũng đủ lãng quên đời VC.
Mấy
anh Yankee mũi tẹt, do
cái tâm ăn cướp, thì làm sao mà làm được, những lời nhạc rất ư là tuyệt
vời,
thí dụ:
Một
mai qua cơn mê, lại cùng
lũ em cắp sách đi học
Những
ánh mắt hỏa châu là hoa
đăng ngày cưới
Ngoài
kia súng nổ, đốt lửa
đêm đen, tầm đạn thay tiếng em
Ui
chao, còn nhiều lắm.
Gấu
đố mấy anh VC, tìm được,
dù chỉ một mẩu thơ, mẩu nhạc, đỏ, có được cái chất thần sầu, như trên.
Ui
chao, Ui choa, liệu câu
Brodsky vinh danh thơ Mandelstam, "thời gian qua thơ ông, lầu bầu với
"khoảng trống câm" của Stalin" [... where the time that utters
itself through Mandelstam conftronts the 'mute space' of Stalin], có áp
dụng
được vào trường hợp ở đây, khi, nhạc sến nhạc vàng lầu bầu trước "không
gian câm" của con quỉ chiến tranh?
*
Tuy
nhiên, số phận như lường
trước được, có những lúc, bạn quá bận rộn, để yêu, hoặc để [sợ ]chết,
nên bỏ
sót một hai bản nhạc, và nếu như thế, nếu như bạn sống sót, thì, bạn sẽ
được
nghe, lần đầu tiên, ở trong trại tù.
Cái
nhịp của thời gian được
lập lại, chỉ riêng cho bạn.
Gấu
này đã từng được nghe
những bản nhạc bị bỏ sót như thế, thí dụ bản Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng
của
Phạm Duy, phổ thơ của cô em, hoặc bà chị thi sĩ Vương Đức Lệ, như Gấu
được
biết, ở trong trại tù Đỗ Hòa, và cái cảm tưởng khủng khiếp, khi nghe
nó: Sống
trọn một lần nữa, cả cuộc chiến đã qua.
Blog
Tin Văn
Blog mới
*
Về già, nhớ lại, Gấu mới hiểu ra một điều, để được nghe bản nhạc đó,
Gấu cũng phải sửa soạn nhiêu khê, phải kinh qua bao điều thử thách, và
Ông Trời cũng phải chiều Gấu tới cỡ nào!
Kỷ niệm đẹp quá, khiến Gấu, cứ mỗi lần tính viết ra, thì lại tiếc, lại
viện cớ này, cớ nọ, để trì hoãn, y hệt kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết
văn của Gấu nhà văn!
*
Có thuyền viễn xứ Đà
Giang
Một lần
giạt bến qua
ngàn lau
thưa
Hò ơi
tiếng hát ngàn
xưa
Ngân lên
trong một
chiều mưa
xứ người
Thơ Huyền Chi
Gấu đã
từng kể, về
cái lần được
nghe một tay trại viên, cởi trần trùng trực, với lấy cây đàn ghi ta Gấu
đặt ở một
góc lán, và tấu lên khúc Thuyền Viễn Xứ,
và bao nhiêu năm sau, ra được hải ngoại, vẫn còn văng vẳng điệp khúc
ngàn năm
ru mãi, ngàn đời ru hoài của nó:
Trời
cao chìm rơi xuống đời
Biết
là bao sầu trên xứ người.
Đâu
có dễ được nghe nếu Gấu Cái
không tới Trại Tù thăm, lần đầu tiên, sau mấy tháng bặt tin nhà, vì còn
phải lo cho
thằng con lớn vượt biên đường Kampuchia bị bắt đưa về Chí Hòa, và giúi
cho tí tiền,
nhét trong bị gạo, và nhờ nó mà mua được chức y tế đội, và tối tối xách
cái đàn
ghi ta đi lán này qua lán khác, vừa đi vừa gẩy tỉ tì ti theo cái kiểu
chơi đàn măng
đô lin, nhờ vậy mới có cái duyên được nghe bản nhạc về một xứ Đoài mây
trắng lắm,
về một dòng Đà Giang, có thuyền viễn xứ, chiều nay trên bến muôn
phương, nhổ neo
lên đường!
*
Có vẻ như cái gọi là tinh tuý
nhất của văn học Miền Nam,
trước 1975, không ở trong thơ, văn, mà trong lời nhạc.
Gấu
đã có lần lèm bèm về mấy
câu trong bài Rừng Lá Thấp,
của Trần Thiện Thanh.
Trong
khói súng xây thành
Mắt
quầng thâm mất ngủ
Sao
không hát cho những bà mẹ
già từng đêm nhớ con xa
Sao
không hát cho những người
vừa nằm xuống chiều qua.
Chẳng
thua gì Kinh Cầu của
Akhmatova.
Không
phải tôi cầu nguyện chỉ
cho tôi,
Nhưng
còn cho những người
đứng trước và sau tôi
Vào
một ngày đông giá băng
hay
một ngày nóng tháng Bẩy
Trước bức tường Hoả Lò
chói
chang làm mù mắt
*
Not
only for myself do I
pray,
But
for those who stood in
front and behind me,
In
the bitter cold, on a hot
July day
Under
the red wall that
stared blindly
Kinh Cầu: Lời Cuối
*
Thay
cho một lời mở đầu -
Instead of a preface
Trong
những năm khủng khiếp
dưới thời trùm công an nhân dân N.I. Yezhov, tôi trải qua 17 tháng đứng
xếp
hàng trước một số nhà tù ở Leningrad.
Một bữa, có một người 'nhận ra' tôi. Rồi thì một bà, môi tái nhợt vì
lạnh, đứng
đằng sau tôi, và, người này, lẽ dĩ nhiên, chưa từng bao giờ nghe tên
tôi, bỗng
như tỉnh ra, hết ngơ ngẩn - đây là tình trạng chung của tất cả chúng
tôi -, và
thầm thì vào tai tôi [mọi người ở đây chỉ nói với nhau theo kiểu thì
thầm]:
-Liệu bà có thể tả cái này?
[Can you describe this?]
Và tôi nói:
-Được!
Và thế là có một cái
gì đó
giống như là một nụ cười, thoáng qua trên một nơi đã có thời là khuôn
mặt của
bà.
Ngày 1 Tháng Tư,
1957 Leningrad
Anna Akhmatova
*
Buổi tối, lần Gấu nghe tay
bạn tù cải tạo chơi ghi ta bản Thuyền Viễn Xứ, và miệng lẩm bẩm hát
theo, thật
là tuyệt vời.
Tuyệt
vời và Ngỡ ngàng.
Thứ
nhất, Gấu không hề nghĩ
rằng, tay này biết chơi nhạc, không hề nghĩ rằng, lần đầu tiên cầm vô
cái đàn
ghi ta của cấm đó, anh chàng lại chơi đúng cái bản nhạc mà Gấu để mãi
tận đáy
lòng mình, tưởng đã quên nó rồi, lôi ra và tấu nó lên, ở giữa khoảng
trời đất
mênh mông là trại cải tạo thuộc đặc khu Rừng Sát ngày nào, ngoài kia là
trùng
trùng lớp lớp rừng tràm rừng đước, là trùng trùng lớp lớp mồ hôi, sức
tù đổ
xuống, và trên trời kia, là trăng sáng đang đổ xuống....
Đúng
ra phải nói, anh ta moi
bản nhạc từ đáy sông Đà, con sông khốn kiếp ám ảnh hoài thằng Gấu xứ
Đoài mây
trắng lắm, bỏ chạy nó, và bị nó hành, mỗi khi trái nắng trở trời, mỗi
khi đời
sống sang mùa, hệ thống tự bảo vệ của cơ thể oải theo, thế là con 'vai
rớt' Bắc
Kỳ làm ngụy!
Nhạc PD vs Tù VC
Giữa
lòng đen
Bất
khả thứ năm
Primo
Levi saved himself in Auschwitz
through the German language.
After the Holocaust, Paul
Celan wrote in the language of his mother's butchers. To the end,
Mandelstam's
motherland remained the Russian language, in which Stalin gave the
order for
his death.
Joyce, Musil and Thomas Mann,
Conrad and Nabokov, Gombrowicz and Bashevis Singer, Beckett and
Ionesco,
Brodsky and Cortazar have conferred a new legitimacy on the expatriate
writer.
They are no more than forerunners of the world of disjointed
conjunctions in
which we live.
Primo
Levi tự cứu mình ở Lò
Thiêu qua ngôn ngữ Đức. Sau Auschwitz, Paul Celan viết bằng ngôn ngữ
của đám
đồ tể đã làm thịt bà mẹ của ông. Sau cùng, quê mẹ của Mandelstam thì
vẫn là
ngôn ngữ Nga, thứ tiếng mà Stalin dùng để ra lệnh làm thịt nhà thơ.
Joyce,
Musil and Thomas Mann,
Conrad and Nabokov, Gombrowicz and Bashevis Singer, Beckett và Ionesco,
Brodsky và Cortazar đem sự hợp pháp mới đến cho nhà văn biệt xứ. Họ đâu
có khác
gì những nhà văn đi trước, những tiền trạm, những đầu cầu, của một thế
giới với
những liên kết rã rời mà chúng ta đang sống.
Đơn
Dương ngây ngô quận
Dọn
Đỉnh cao chói lọi.
Thú
thực, văn DTH không thuộc
thứ văn Gấu thích, cũng như văn PTH, thí dụ.
Gấu đọc, thượng vàng hạ cám,
nhưng nếu phải thú tội trước bàn thờ, thì chỉ khoái thứ văn đẫm chất
thơ, thứ văn
mà người đọc, khi đọc, là nhập vào với nó, không phải thứ văn chương
đọc tỉnh
queo, mà là thứ làm bạn tệ lắm thì cũng bần thần mất vài bữa!
Pankaj Mishra, trong bài điểm
cuốn Hôn Thuỵ Bắc Kinh, Beijing Coma,
trên tờ Người Nữu Ước, có
nhắc tới một ý
của Philip Roth, nhà văn Mẽo, ông này có vẻ như thèm thuồng, khi cho
rằng, nhà
văn Mẽo muốn viết gì thì viết, thành ra đếch ai thèm đọc, trong khi nhà
văn Đông
phương đối tác của ông, his Eastern Bloc counterpart, bị cấm viết,
thành ra viết cái đếch gì cũng được độc giả vồ lấy!
Ui
chao, quả là quá đúng, nếu
phải tìm ra một tí văn chương, “thứ thiệt”, ở những tác phẩm nổi đình
nổi đám ở
trong nước!
*
When he was twenty, Kafka
wrote in a letter: 'If the book we are reading does not wake us, as a
fist
hammering on our skull, why then do we read it? So that it shall make
us happy?
Good God, we would also be happy if we had no books, and books as make
us happy
we could, if need be, write ourselves. But what we must have are those
books
which come upon us like ill-fortune, and distress us deeply, like the
death of
one we love better than ourselves, like suicide. A book must be an
ice-axe to
break the sea frozen inside us.' (1)
(1) Kafka cũng từng
nói như vậy: Ông viết cho bạn là Oskar Pollak, vào năm 1904: "Tôi nghĩ
chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn
sách mà
chúng ta đọc không lay động chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó
giáng
một cú vào sọ, thì ích chi đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh
phúc? Cám
ơn Trời, chúng ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn
sách làm
chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần,
chúng
đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái
chết của
một người thật thân thiết mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm
chúng ta
cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con
người, giống
như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái rìu phá cái biển đóng băng ở
bên trong
chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto Manguel trích dẫn, trong cuốn A History of Reading,
nhà xb
Alfred A. Knopf Canada, 1996)
*
Steiner, trong bài
viết Hãy dậy cho
chúng biết thế nào là văn minh, To Civilize our Gentlemen, cũng
nhắc đến câu trên, của Kafka, về thứ sách mà chúng ta cần đọc.
Về việc 'dậy cho chúng biết thế nào là văn minh', ông nhắc một câu của
Kierkegaard, đại ý, khi bạn đăng đàn giảng dậy, về Nguyễn Du, thí dụ,
thì hãy nhớ, có hai cách: một là, đau khổ, một là, trở thành vị thầy
giáo ưu tú của nhân dân, về cái sự kiện làm người khác đau khổ!
*
Đỉnh cao chói lọi,, Gấu chưa đọc, nhưng đọc tin tức báo chí, trong cuộc
họp báo ra mắt sách, tác giả công kích nhà văn nhà báo Tây, Todd, khi
ông này phản đối vinh danh ông Hồ của UNESCO, thì Gấu hơi khựng, thú
thực.
Như chúng ta biết, UNESCO sau đó, hủy bỏ ý định của họ. Như vậy, họ,
UNESCO, phải biết rõ, tại sao họ huỷ bỏ ý định tôn vinh ông Hồ, và nếu
như thế, tại sao bà DTH lại đòi Todd trưng bằng cớ? Đâu phải chỉ một
ông Todd phản đối? (1)
Khó hiểu quá.
(1) Được
biết có những người chống lại kế hoạch vinh danh ông Hồ tại UNESCO
như một
danh nhân nhân 100 năm ngày sinh của ông ta, gồm nhà báo Olivier Todd
hồi năm
1990. Tại buổi họp báo, Dương Thu Hương đã nêu ra vấn đề này và nói
rằng “ông
Olivier Todd đang còn sống, ông này phải đưa ra chứng cứ, nếu không ông
ta là
kẻ xuyên tạc lịch sử”. Bà nhận định: “lời lẽ của ông ta cũng giết người
như
súng đạn, không phải giết một con người đang sống mà là phá huỷ nhân
cách một
người đã chết, tức là người hoàn toàn không còn khả năng tự bảo vệ”.
Dương Thu
Hương khẳng định rằng không chấp nhận việc bôi nhọ và sỉ nhục nhân vật
Hồ Chí
Minh, gán tất cả mọi điều xấu xa lên đầu ông ấy mà hoàn toàn không tìm
hiểu
hoàn cảnh lịch sử cũng như sự thật về cuộc đời riêng.
BBC
Bà DTH tuyên bố về cuốn sách của bà: Tôi viết để trả
thù cho Lưu Quang
Vũ.
Theo Gấu, không ai viết văn để trả thù. Người ta có thể viết một thứ gì
đó, để trả thù, để tố cáo, nhưng đó không phải là văn chương.
Ngay cả thứ văn chương Lò Thiêu, đâu phải để trả thù cho 6 triệu con
người chết vì Nazi, vì Lò Thiêu?
*
Đỉnh cao chói lọi,
như được
giới thiệu, là một cuốn tiểu thuyết, và nếu là tiểu thuyết, thì cần gì…
sự thực,
về một ông Hồ… có thực?
Ông Hồ, khi được đưa vô Đỉnh
cao chói lọi, thì sẽ biến thành một nhân vật giả tưởng, và nếu như thế,
khi DTH
công kích Todd, là, với tư cách tiểu thuyết gia, người viết sử, sử gia,
hay “Đại Phán
Quan”, như của Dos?
Lại khó hiểu quá!
*
Trường hợp DTH lên lớp Todd có
vẻ như phản ứng ngược lại vai trò của bà, như là một nhà văn, theo
nghĩa, một
người tôn trọng hơn ai hết, quyền tự do phát biểu của bất cứ ai khác.
Hơn thế nữa, một khi cấm người
khác nói khác mình, thì lập tức, bà biến thành nhà nước VC mà bà đang
chống đối
nó!
Đây là
điều Rushdie ‘khẳng định’,
[một trong những thông điệp từ những năm tháng thổ tả của ông, Messages from the Plague Years]
khi cuốn Quỉ
Thi của ông bị tấn công, bản thân ông bị hăm dọa làm thịt:
Như chúng ta
thường
nói, vào những năm 1960, có một sự khiếm khuyết ở trong thực tại, a
fault in
reality. Điều xẩy ra với Quỉ Thi, với tác giả của nó, nhà xb, dịch giả,
chủ tiệm
sách, là một tội ác chống lại sự tự do. Cuốn tiểu thuyết không phải là
một tội ác,
tác giả của nó không phải là một tên tội phạm hình sự.
Ông trích dẫn, từ một
tiểu luận lớn lao của John Stuart Mill, trong bài viết
“Về tự do”
[On Liberty], mà ông nghĩ, áp dụng cho trường hợp Quỉ Thi, thật tuyệt.
Gấu tôi nghĩ,
áp dụng cho DTH, và có thể, cho Đỉnh
cao chói lọi, cũng thật tuyệt:
Và cho nhà nước VC, lại càng tuyệt!
The
peculiar evil of
silencing the expression of an opinion is that it is robbing the human
race,
posterity as well as the existing generation - [robbing] those who
dissent from
the opinion, still more than those who hold it. [For] if the opinion is
right,
they are deprived of the opportunity of exchanging error for truth; if
wrong,
they lose what is almost as great a benefit, the clearer perception and
livelier impression of truth produced by its collision with error.
[Cái trò quỉ ma bịt miệng người
khác thì đúng là trấn lột nhân loại, sau này, cũng như hiện giờ - trấn
lột những
người bất đồng quan điểm, và còn trấn lột dữ dằn hơn, những người đồng
lòng với
quan điểm đó. [Bởi vì] nếu quan điểm đó đúng, bịt miệng như vậy là tước
đoạt cơ
hội đổi cái lầm lấy cái đúng; nếu quan điểm đó sai, họ, những kẻ bịt
miệng, mất một
lợi ích lớn lao vô cùng: một nhận thức, cảm quan sáng sủa hơn và một ấn
tượng sống
động hơn, về sự thực, khi nó có dịp may được va chạm với cái sai lầm].
Those words are from
John
Stuart Mill's great essay "On Liberty." It is extraordinary how much
of Mill's essay applies directly to the case of The Satanic verses.
Rushdie: Step
across this line [Hãy
bước qua lằn ranh này]
Chết Vì
Tình
Kỷ niệm
vui nhất trong đời viết văn
|
|