Diary
|
Phố
cũ, thu xưa, [2006]
Nhớ
về đỉnh gió
Trạm
thông tin
của Em trên đỉnh dốc Chín trăm
Mỗi bận Anh lên ba lần đứng thở
Em nói đấy là đỉnh gió
Yêu chẳng thật lòng e chẳng dám lên
Bấy giờ
đang là mùa hanh
Nước hiếm hoi gió thì khô khốc
“Ai lên thăm nhớ xách giùm xô nước”
Cái biển đề tinh nghịch thế mà hay
Nên Anh
lên với xô nước trong tay
Tim đập thình thình chín mươi nhịp phút
Cứ nói dối gặp Em… Anh hồi hộp
Em biết thừa thương quá chẳng dám trêu
Lên đến
đây mới biết gió quá nhiều
Gió bốn hướng ù ù như xay lúa
Lời yêu thương thì rất cần nói nhỏ
Bực Mình trách gió quá vô tư
Em nói
gió nhiều nước mắt mau khô
Tiếng cười dễ tan điều riêng không giấu được
Có lẽ thế mà Em thường hay hát
Nỗi buồn riêng ai nỡ để đầu môi
Bây giờ
nơi xa xôi
Không khi nào nguôi nhớ về đỉnh gió
ước một mùa hanh lại về qua đó
Chạy ù lên “với” (1) xô nước trong tay
*
(1) Chạy ù lên "vơi "xô nước trong tay
Xin hỏi, vơi, hay với?
Nếu là với, thì là thơ Bút Tre?
Nếu là vơi, thì là do "chạy ù lên"?
NQT
quanglap52
11:18 13-12-2008
“Với”, bọ viết sai, bọ sửa lại ngay
[Blog NQL]
*
Theo
Gấu, NQT, vơi hay hơn nhiều, và
khoảng
cách giữa vơi và với, là khoảng cách giữa hai câu thơ,
một của
Huy Cận [?], nhớ đại khái “khi về nón nhỏ che trời lạnh”, và
câu thơ của
Nhã Ca:
Khi về tay nhỏ che trời rét
[Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ]
"Vơi" còn làm nhớ đến một truyện ngắn tuyệt vời của O.Henry, hình
như vậy, về quà tặng trong dịp Giáng Sinh, theo ý nghĩ, tình yêu tỉ lệ
nghịch
với xô nước, nhịp chạy, chiều cao ngọn dốc, và nước vơi đến đâu thì
tình đầy
đến đó.
Câu chuyện quà tặng trong dịp Giáng Sinh, đại khái, hai vợ chồng trẻ,
vợ có mái
tóc tuyệt vời, nhưng lại không có cây lược tương xứng với nó, chồng có
chiếc
đồng hồ, nhưng đứt sợi dây đeo.Và món quà chồng tặng vợ, là cái lược
ngà, bằng
tiền bán đồng hồ, còn vợ tặng chồng sợi dây tuyệt vời đeo đồng hồ, bằng
hy sinh
mớ tóc.
-
Vơi hay hơn nhiều, vì từ với đã
sử
dụng một lần rồi, trong câu thơ ở trên:
Nên
Anh lên với xô nước trong tay
NQT
Gió bốn
hướng ù ù như xay lúa:
Tuyệt. Đúng thứ Mít đặc!
Gấu đã từng có những kỷ niệm về 'ù ù như xay lúa', của quê hương Bắc
Kít.
NQT
Signs of dispute on Moscow's Solzhenitsyn Street
Locals opposed to renaming of
road in writer's memory tear down signs and demand old communist name
back
[Cư dân Moscow
không khoái lấy tên của Solz làm tên đường
phố của họ, và đòi tên cũ của cựu đảng viên CS]
Trên tờ
TLS, số đề ngày 5 Tháng
Chạp, 2008, có thư độc giả, ‘phản biện’ bài viết “Solz reclaimed”. Sẽ
post lại
trên Tin Văn, vì, tuyệt!
Vĩnh Biệt
Bạn Cờ
Baron of Imagination:
Một
best-seller gây ngạc nhiên trong cộng đồng Iraqi Kurds
TLS 5.12.2008
Lèm
bèm về cờ
có lẽ là cách tưởng niệm tuyệt nhất
về bạn!
*
Lovers
play chess to arrest
the gnawing pace of time and banish the world. Thus, in Yeats's Deirdre:
They knew that there was
nothing that could save them,
And
so played chess as they
had any night
For
years, and waited for the
stroke of sword.
I
never heard a death so out
of reach
Of
common hearts, a high and comely
end.
Steiner: A Death of Kings
*
Jorge Luis Borges
L'Immortel
Salomon saith. There is no
new thing upon earth. So that as Plato had an imagination, that all
knowledge
was but
remembrance; so
Salomon giveth his sentence, that all
novelty is but
oblivion.
FRANCIS BACON, Essays, LVlII.
…..
Quand s'approche la fin, il
ne reste plus d'images du souvenir; il ne reste plus que des mots. Il
n'est
pas étrange que le temps ait confondu ceux qui une fois me désignèrent
avec
ceux qui furent symboles du sort de l'homme qui m'accompagna tant de
siècles. J'ai
été Homère; bientôt, je serai Personne, comme Ulysse; bientôt, je serai
tout le
monde: je serai mort.
(Traduit par Roger Caillois.)
Gấu
đọc Võ
Phiến, rồi lần ra Zweig, rồi, nhân đọc một số Le Magazine Littéraire, đặc biệt
về Zweig, cùng lúc NMG order bài viết cho số VP trên báo Văn Học của
anh, đi một đường về nhà văn Bình Định [VL thích cái tít này lắm],
nhưng duyên nợ của Gấu với
Zweig
qua Người Chơi Cờ thì cứ còn
hoài.
Steiner, cũng
một cao thủ trong môn chơi cờ, trong bài viết Cái Chết của Những Vì Vua, cho
rằng
khùng điên và mê cờ có liên hệ mật thiết với nhau, và đây là đề tài
ruột của
Zweig. Ông cho biết thêm, Người Chơi
Cờ, nguyên tác tiếng Đức, Sehaehnovelle,
viết năm 1941, được dịch qua tiếng Anh với cái tít The Royal Game. Trò Chơi Vương Giả.
*
Người
ta nói tới truyền thống
Pháp, ở Zweig. Nhưng khác với Maupassant, vốn coi trọng những "rối loạn
tình cảm"; ở Zweig, là khúc mắc, hành động, sự nghẹt thở, của truyện
ngắn.
Kỹ thuật này thấp thoáng trong Bí
mật nóng bỏng, Brulant secret, xuất
hiện vào
năm 1911, trong đó một đứa trẻ, trong khi tra hỏi bà mẹ, xuyên qua cuộc
phiêu
lưu tình cảm của bà, khám phá ra kinh nghiệm đầu tiên của khổ đau. Sau
khi đọc
Freud, Zweig đã viết một tiểu luận về ông, vào năm 1930; nghiên cứu tâm
lý, nói
rõ hơn, sự phát giác những bí ẩn đáng sợ của ngành tâm linh học
(psychisme) đã
là nền cho nghệ thuật truyện ngắn của Zweig. Ông viết thư cho Freud,
vào ngày 8
tháng Chín 1926 (4): ... Nhờ ông, chúng tôi nhìn rõ nhiều điều. Nhờ
ông, chúng
tôi nói ra nhiều điều, nếu không có ông, chúng tôi chẳng nhìn (thấy),
chẳng nói
(ra được). Nhưng phải đợi truyện ngắn viết vào lúc cuối đời, trước khi
quyết
định tự tử, Người Chơi Cờ,
chúng ta mới có được nỗi hân hoan tuyệt vời
của một
độc giả mê thể loại truyện ngắn. Nhất là thứ truyện ngắn, giống như một
lỗ đen,
"nhốt chặt" cả một thế kỷ!
Ông B. nhân vật kể chuyện, bị
Gestapo bắt, ngay buổi chiều, ngày Hitler vào Vienne.
Ông may mắn đốt kịp giấy tờ quan trọng. "Chắc là ông nghĩ, tôi sắp kể
cho
ông nghe về những trại tù, nơi giam giữ những người Áo trung thành với
đất mẹ,
cũng như tất cả những đau khổ, nhục nhã tôi phải chịu đựng sau khi bị
bắt?
Chuyện đó không xẩy ra cho tôi. Tôi được xếp vào loại khác... những
người mà
đảng viên quốc xã hy vọng vắt ra tiền bạc hoặc những tin tức quan
trọng. Cá
nhân tôi chẳng là gì đối với họ, nhưng họ tin rằng chúng tôi chỉ là
những con
người rơm, phiá sau chúng tôi mới là cái mà họ nhắm tới."
Và Gestapo đã giam lỏng ông,
tại một căn phòng khách sạn. Tạo ra chung quanh ông, một quãng không
(chung
quanh tôi là hư vô, tôi ngập trong đó). "Phép lạ" xẩy ra: trong một
lần hỏi cung, ông "ăn cắp" được một cuốn sách dậy chơi cờ, từ trong
túi một chiếc áo treo kế áo ông nơi phòng cung. Nhờ nó, ông qua được
địa ngục,
sống sót, nhưng than ôi, con quỉ tò mò đã không buông tha ông, và trở
lại, một
lần nữa...
Người Chơi Cờ, như
một lời
chúc dữ, mang trong nó tất cả những vinh quang, những đau thương nghiệt
ngã của
một người, hơn thế nữa, một người Do-thái, (nạn nhân lý tưởng, kẻ thù
tuyệt
đối), trong thế kỷ đọa đầy, là thế kỷ của chúng ta."Tôi bắt đầu viết
một
câu chuyện ngắn về cờ tướng, gợi hứng từ một sách dậy chơi cờ mà tôi
mua để cho
đỡ cô đơn, trống trải, và hàng ngày, tôi chơi lại những ván cờ của
những bậc
thầy", ông viết ngày 29 tháng Chín, 1941, cho người vợ cũ, Friederike.
Một
cách nào đó, đây chỉ để cho qua thì giờ... nhưng thật ngỡ ngàng, khi
(chúng ta)
nhận ra, đây là lần duy nhất nhà văn đề cập thẳng tới lịch sử đương
thời, mà
không chuyển hóa (transposer) nó.... Một chứng tích nhức nhối, về những
toan
tính nhằm huỷ diệt con người của Nazi. (Lời giới thiệu bản tiếng Pháp,
tủ sách
bỏ túi).
Những độc giả say mê Võ
Phiến, những tác phẩm đầu tay của ông như Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm,
Thác Đổ
Sau Nhà... chắc chắn là nhận ra khí hậu Zweig ở trong đó. Nhân
vật của
Võ
Phiến, đều như bị con quỉ của sự tò mò hớp hồn, dẫn dụ, và khi đã hoàn
hồn, có
vẻ như nhờm tởm thế nhân: cô gái trong
Thác Đổ Sau Nhà, sau gặp lại
người tình
của một đêm, đã ngạc nhiên không thể tưởng tượng được tại sao mình lại
đã có
lần ngã vào một con người thô kệch, cù lần đến như thế! (Vì không có
văn bản
trong tay, tôi viết lại theo trí nhớ, ở đây là những cảm giác còn giữ
được, khi
đọc Võ Phiến hồi học trung học. Không hiểu đọc lại, những chi tiết có
đúng, và
cảm nghĩ có thay đổi hay không). (1)
Những nhân vật tiểu thuyết
hiện đại đều bước ra từ cái bóng của Don Quixote; ta có thể lập lại,
với những
nhân vật của Võ Phiến: họ đều bước ra từ Người Chơi Cờ. Tôi không hiểu,
ông đã
đọc nhà văn Đức, trước khi viết, nhưng khí hậu 1945, Bình Định, và một
Võ Phiến
bị cầm tù giữa lớp cán bộ cuồng tín, đâu có khác gì ông B. (không hiểu
khi bị
bắt trong vụ chống đối, Võ Phiến có ở trong tình huống đốt vội đốt vàng
những
giấy tờ quan trọng...). Nhân vật "cù lần" trong Thác Đổ Sau Nhà, đã
có một lần được tới Thiên Thai, cùng một cô gái trong một căn lều, giữa
rừng,
cách biệt với thế giới loài người, có một cái gì thật quen thuộc với
đối thủ
của ông B., tay vô địch cờ tướng nhà quê vô học, nhưng cứ ngồi xuống
bàn cờ là
kẻ thù nào cũng đánh thắng, đả biến thiên hạ vô địch thủ?
"Nhưng đây là con lừa
Balaam", vị linh mục nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai
ngàn năm, một phép lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên
thốt ra
những điều đầy khôn ngoan.
Bởi vì nhà vô địch là một người không thể
viết một
câu cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt",
bộ não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14
tuổi
vẫn phải dùng tay để đếm.
Cuộc đụng độ giữa nhà vô địch
với ông B. đúng là khí hậu của cả thế kỷ được dồn nén vào trong một ván
cờ!
Nhà
văn Bình Định
(1) Liệu có thể, VP
đã tiên
tri ra được cái cảm giác cay đắng của cô gái Miền Nam, khi "ban ngày
ban
mặt", đối diện với “người tình ban đêm” của mình?
*
Thus the taste of ash in
one's mouth: Mùi vị của tro than trong miệng
chúng ta, sau cú 30 Tháng Tư 1975. NQT
*
Steiner viết về Người Chơi Cờ:
That chess can be to madness
close allied is the theme of Stefan Zweig's famous
Sehaehnovelle published in
1941 and translated into English as The
Royal Game.
Mirko Czentovic, the World
Champion, is aboard a luxurious liner headed for Buenos Aires. For two hundred
and fifty
dollars a game, he agrees to play against a group of passengers. He
beats their
combined efforts with contemptuous, maddening ease. Suddenly a
mysterious
helper joins the browbeaten amateurs. Czentovic is fought to a draw.
His rival
turns out to be a Viennese doctor whom the Gestapo held in solitary
confinement.
An old book on chess was the prisoner's sole link with the outside
world (a
cunning symbolic inversion of the usual role of chess). Dr B. knows all
its
hundred and fifty games by heart, replaying them mentally a thousand
times
over. In the process, he has split his own ego into black and white.
Knowing
each game so ridiculously well, he has achieved a lunatic speed in
mental play.
He knows black's riposte even before white has made the next move. The
World
Champion has condescended to a second round. He is beaten in the first
game by
the marvelous stranger. Czentovic slows down the rate of play. Crazed
by what
seems to him an unbearable tempo and by a total sense of déjà vu,
Dr B.
feels the approach of schizophrenia and breaks off in the midst of a
further
brilliant game. This macabre fable, in which Zweig communicates an
impression
of genuine master-play by suggesting the shape of each game rather than
by
spelling out the moves, points to the schizoid element in chess.
Studying
openings and end-games, replaying master games, the chess player is at
once
white and black. In actual play, the hand poised on the other side of
the board
is in some measure his own. He is, as it were, inside his opponent's
skull,
seeing himself as the enemy of the moment, parrying his own moves and
immediately
leaping back into his own skin to seek a counter to the counter-stroke.
In a
card game, the adversary's cards are hidden; in chess, his pieces are
constantly open before us, inviting us to see things from their side.
Thus
there is, literally, in every mate a touch of what is called 'suimate'
- a kind
of chess problem in which the solver is required to manoeuvre his own
pieces
into mate. In a serious chess game, between players of comparable
strength, we
are defeated and at the same time defeat ourselves. Thus the taste of
ash in
one's mouth.
"Nous
ne lui demandons
pas de devenir un traître. Nous lui proposons une nouvelle définition
du mot
loyauté."
Chúng
ta đâu có đòi hắn ta
phải trở thành một tên phản bội. Chúng ta chỉ đề nghị với hắn ta một
định nghĩa
mới về lòng trung thành.
Le
Carré, le grand réveil
Un homme
très recherché
JOHN LE
CARRÉ
Trang
Coetzee
Giữa
lòng đen
"Chúng tôi
“quét” hết tất cả các thông tin về các vấn đề trong xã hội, có các
phòng chức
năng để nghiên cứu từng loại vấn đề: Người dân nghĩ gì? Nói sao? Ở đâu
xảy ra
chuyện gì? Tầng lớp nào bức xúc cái gì?...
"Xin hỏi thật ông, có
bao giờ
ông cảm nhận được cảm giác: liệu có người nghĩ rằng Viện này na ná một
cơ quan
mật vụ không?
*
Đo,
điểm, quét, nửa kín nửa hở, bức xức, rậm rựt, ở đâu, chỗ nào...
Văn
phong thoát thai từ Bóng Đè? Hiếp? Ám
Thị?
Tuyệt!
Bất
khả thứ năm
Đơn
Dương ngây ngô quận
Ta La Tai
Tanvien
vs talawas?
Thiên
Sứ vs Peter Pan
Dọn
A Thousand Rooms of Dream
and Fear
(Ngàn Căn Phòng của Những
Giấc Mơ và Sợ Hãi)
[Nguồn: Gió O]
Tay này, ngay cái tít của người ta, đã dịch ẩu
rồi.
*
Note:
Mới ghé thăm Gió O, thấy
đã sửa cái tít, bỏ đi ‘những’. NQT
Lại nói về ... tu tập.
Vila-Malta
viết về Conrad: Ông gia nhập truyền thống rất xa xưa, theo đó, cái gọi
là kỷ
luật, sự tu luyện phải đến từ bên trong, bởi vì đây chính là sức mạnh
tâm thần
bật ra từ thiên tài về nơi chốn của chính bạn, le genius loci, nói một
cách
khác, từ chính chúng ta.
Ông bạn Đào quân [thì cứ gọi đại
như vậy, vì ông đã từng ghé thăm Gấu, cùng với ông anh BHD, khi Gấu còn
ở hẻm Đội Có,
Phú Nhuận, và ông cũng là bạn của những đấng bạn quí của Gấu], thiếu sự
tu tập
[ la discipline] không phải về triết, món khoa bảng của ông,
hay về tiếng Anh, tiếng
U, hay tiếng Phú Lãng Sa, nhưng mà là về…. tiếng
Việt, nhất là thứ tiếng Việt hiểu theo nghĩa mà Vila-Malta viết về
Conrad, nó
liên quan đến, nào là “từ bên trong”, “sức mạnh tâm thần” "thiên tài
của nơi chốn", [Gấu không nhớ, nhưng chắc ông cũng Bắc Kít di cư như
Gấu này?].
[Joseph
Conrad
adhérait à la tradition la plus ancienne, selon laquelle la discipline
doit
venir de l'intérieur, puisqu'il s'agit d'une force mentale émise par
notre
propre génie du lieu, le genius loci, autrement dit nous-mêmes. L'homme
ne se
libère pas en donnant libre cours à ses impulsions et en se montrant
changeant
et incapable de se contrôler, mais en soumettant la force de sa nature
à un
projet prédominant, à un code mental d'acier qui sache éliminer sa
liberté la
plus sauvage et le situer dans le cadre d'une vie disciplinée, en
faisant appel
aux desseins intérieurs du génie du lieu.]
Đọc thử
một cái tít nữa, là
ngộ ngay ra, Đào quân rất tệ tiếng Việt:
Đào Trung Đạo
điểm qua cái chết
của nhà văn hậu hiện đại Mỹ
vừa treo cổ tự sát
thôi thế thôi...
[Gió O]
Người
ta chết rồi, ông không đi
một đường tưởng niệm, mà lại điểm qua cái chết, là cái quái gì cơ chứ?
Thôi thế thì thôi, đành chịu thua Ngài thôi!
Chắc là
ông tính viết, “nhà văn
…vừa tự sát, để tưởng niệm ông, chúng ta đọc lại, điểm qua một vài tác
phẩm của
ông".
Viết lách như thế, thù Gấu là
phải rồi!
*
Nhân tiện, đi thêm vài đường
về cái thời kỳ "gừng còn cay, muối còn mặn", giữa Gấu và bà chủ quán
cá. (1)
Cái tật của Gấu, viết bất
cứ cái gì, là để… sửa! NMG, chắc cũng bực, vừa mới nhận cái
text Tạp Ghi, chưa kịp đọc, nó đã gửi một cái revised text 1, rồi 2,
rồi final,
rồi defintive… bèn nghĩ ra một ‘giải pháp’, nhận, delete, đếch thèm
đọc, đợi khi nào đưa báo đi in, thì sẽ lấy cái text mới nhất, vừa mới
nhận được!
Một nhà văn ‘ra đi từ Miền Bắc’,
cũng hồi còn "gừng cay muối mặn", thử dò hai cái text mà Gấu gửi liên
tiếp, đã cho
biết, chúng chỉ khác nhau, một cái dấu phết!
Còn bà chủ quán, một lần nhận
bài viết của Gấu, đã giao hẹn, “đăng, nhưng với điều kiện, anh không
được làm
corrections”, sau đó, chắc cũng thấy tội cho Gấu, bèn “xoa đầu", thôi
được rồi,
cho phép anh tha hồ sửa, nhưng phải trước giờ.. G, tức là giờ post bài!
(1) Đùa hơi bị nhảm, nhưng biết đâu, nhờ vậy mà bớt đanh đá đi chăng?
NQT
*
điểm qua cái chết của nhà văn
hậu hiện đại Mỹ vừa treo cổ tự sát
thôi thế
thôi...
Độc giả Gió O, đọc
một cái tít như thế, bỏ qua, ấy là vì họ không “đọc”, mà “nghe”, hay
nói rõ hơn,
đây là thứ ngôn ngữ của “chuyện thường ngày ở huyện”, ngôn ngữ nói,
không phải
ngôn ngữ viết, và chính bà chủ diễn đàn Gió O cũng lầm, khi thay vì
“truyện ngắn”,
bà cứ vô tư “chuyện ngắn”, và coi đây là “thương hiệu” của bà! Rất
nhiều độc giả
bực mình vì ‘truyện’ này, bà vẫn coi như pha!
Cái tay Nguyễn
Quang Lập đang nổi đình nổi đám với blog của anh, cũng lầm, khi nghĩ
rằng ông đang
viết “chuyện”, ông đang làm một cuộc đại cách mạng văn hoá, khi biến
văn nói thành
văn viết!
Mở ngoặc một phát,
nói về thầy của Gấu, Faulkner, thời gian đói quá, vì phải nuôi cả một
hạm đội tầu
há mồm, đành thất thân, bán mình cho anh nhà giầu điện ảnh Hollywood.
*
Được xuất bản bằng
tiếng Pháp
với gần 800 trang, 'Đỉnh cao chói lọi' mang tựa là Au Zénith (1) do Đặng Trần
Phương, một Việt kiều Pháp dịch và sẽ được phát hành vào tháng 01/2009.
Đỉnh cao chói lọi
*
Thú thực, Gấu không
biết, mấy
anh Yankee mũi tẹt lấy ở đâu ra từ ‘chói lọi’?
Nguyên tác tiếng Việt?
Hay mấy tay này phịa ra, để
cho xứng đáng với đỉnh cao Bác Hồ?
Bỗng nhớ đến giai thoại về di
chúc của Bác, và bản dịch qua tiếng Tây của NKV: Bác thông minh ‘cực’,
sáng suốt
‘cực’ [très lucide]!
(1) Au Zénith: Ở Thiên đỉnh
*
'Đỉnh cao chói lọi' mang tựa
là Au Zénith….
BBC
Câu văn trên, và cái kiểu viết Việt Kiều [ở] Pháp, là cũng thuộc
"trường
phái" Đào quân, “nói sao, viết vậy, người ơi”!
Lẽ ra phải viết, "Đỉnh cao chói lọi', bản
tiếng Tây, Au Zénith, thí dụ
như vậy.
Mít có câu, "Uốn lưỡi bẩy lần trước khi nói". Từ "nói" đến "viết", cực
hơn nhiều, vì chiều dài của nó là cả lịch sử văn chương, của bất cứ một
ngôn ngữ.
*
Dịch
như luỷ là được rồi!
Đọc
câu chuyện xung quanh bài ca chào mừng Sea Games, lời tiếng Anh, và
những lời
tuyên bố của các bố có trách nhiệm, tôi bỗng nhớ đến những mẩu "vừa dạo
quanh Hồ
Gươm vừa kể chuyện", giữa ông cậu của tôi, và thằng cháu Việt Kiều!
Lần
gặp cuối cùng cách đây hơn nửa thế kỷ, giữa hai cậu cháu, cũng diễn ra
tại Hà Nội,
ông cậu vừa từ chiến khu Việt Bắc về, còn thằng cháu thì đang lăm le
tìm cách
chuồn xuống Hải Phòng, trước khi thời hạn 300 ngày chấm dứt, cánh cửa
nhìn ra
thế giới của miền bắc hoàn toàn đóng sập xuống cho tới tận… Sea Games
22 này mới
lại hé ra!
Trong
những mẩu “vừa đi quanh Hồ Gươm vừa kể chuyện” đó, có hai mẩu liên quan
đến
chuyện dịch thuật của “đồng chí sếp” của ông cậu tôi, là Nguyễn Khắc
Viện.
Được
vinh dự trao nhiệm vụ dịch Di Chúc Bác Hồ sang tiếng Tây, khi Nguyễn
Khắc Viện
dịch cụm từ “rất minh mẫn” ở trong di chúc thành “lucide”, ông bị phê
phán, [bị “chỉnh” nặng lắm], rằng tại sao dám sửa Di Chúc, sao dám bỏ
đi từ “rất”.
Ông sếp của ông cậu tôi chỉ cười. Sau phải đem tới nhờ một ông Tây
chính gốc
100 phần dầu phân giải. Ông này nói,
lucide là đủ rồi. Thêm chữ très
nữa là… hỏng!
Nhân loại, không riêng gì giống Tây, khi nói về mình, không ai dám dùng
tới chữ
“très”, dù vào lúc hấp hối, con người hơi bị quá minh mẫn!
Câu
chuyện thứ nhì liên quan tới nhan đề cuốn sách viết về đồng chí Nguyễn
Văn Trỗi: Sống Như Anh. Sau
bao nhiêu đấng dịch, nào là vivre
tel qu’il
est... tới tai Nguyễn Khắc Viện, ông “phán”: dịch
"sống cẩm như lủy"
(vivre comme lui) là được rồi!
Nguồn
Mấy anh Yankee mũi tẹt này, cứ đụng tới Bác Hồ, là thổi lấy thổi để,
Bác cực chói lọi, Bác cực sáng suốt....
Chắc hẳn thế! NQT
*
Chính vì những “chói
lọi”, sáng
suốt ‘cực’, bước ngoặt lịch sử “vĩ đại”, chính vì thứ văn chương lạm
dụng tu từ,
thùng rỗng kêu to, nên Roland Barthes mới đề nghị một cách viết ở không
độ, một thứ viết
trung tính, một cách viết trắng của Camus, của Blanchot, hay của
Cayrol, thí dụ
vậy, hay cách viết nói [l'écriture parlée] của Queneau, và đây là
chương hồi chót
của một Đam mê viết, theo từng bước với sự tan hoang của ý thức trưởng
giả [le dernier
épisode d’une Passion de l’écriture qui suit pas à pas le déchirement
de la
conscience bourgeoise]. Roland Barthes: Le
Degré de l’écriture. Introduction.
*
Bản tiếng Anh của Độ
không của cách viết, có bài Tựa của Susan Sontag, nhà văn Mẽo,
viết, địch thủ đặc thù,
the specific adversary, của luận cứ của Barthes, là… Sartre. Đây là câu
trả lời của Barthes nhắm vào tác phẩm Văn
chương là gì? của Sartre
(1). Bà đưa ra thêm một số chứng liệu về ngày tháng: Mặc dù Độ
không được xb năm 1953, những chương
hồi của nó đã được in trong nhật báo Chiến
Đấu vào năm 1947, cùng năm Sartre cho xb cuốn sách của ông. Chương
I của
Sartre, và phần thứ nhất, first section, cuốn Độ không
có cùng tít: Viết là
gì?
(1)
"Mèo khen mèo dài đuôi", Gấu đã nhận ra điều này, khi viết về Bếp Lửa
của TTT. Bài Tựa của Susan
Sontag viết năm 1968. Bài của Gấu, sau chừng mấy năm, đăng trên Tập San Văn Chương, sau đăng lại
trên Văn, số đặc biệt về TTT,
1973:
Phải
chăng cuốn Bếp
Lửa cũng gặp một “tao ngộ” ly kỳ như cuốn La Nausée, Buồn Nôn, của Sartre?
Sartre, suốt đời đam mê, theo đuổi cách mạng, vậy mà khi có dịp được
"làm cách mạng",
ông lại để lỡ: Cuộc cách mạng văn chương ở Pháp, với những nhà văn như
A.R. Grillet, Butor,
những phê bình gia như Barthes, Genette…đã khởi đầu từ Buồn Nôn, từ những điều
Sartre phát hiện nhưng lại vô tình bỏ qua.
*
Câu thơ, bài thơ mới, đọc qua
thấy ngay. Câu văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình luận
phải phân
biện: mới so với cái gì, và mới ra sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là:
người
đọc đương thời có nhận ra nét mới ấy không?
Thưa rằng có. Nhà văn Nguyễn
Quốc Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn, có
một bài
viết căn cơ trình bày giá trị, nghệ thuật và tính chất súc tích của
truyện Bếp
lửa, 1957. Ông trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều tham khảo, để lại
một
chứng từ chính xác.
Đặng
Tiến viết về sự ra
đi của Thanh Tâm Tuyền
Note:
Tks. NQT
Chết Vì
Tình
To be in love is to create a religion whose god is fallible
Valéry
[Yêu có nghĩa là tạo ra một đạo giáo mà vị chúa tể của nó cũng có thể
sai lầm. André Maurois trích dẫn, trong bài Tựa cho cuốn Mê Cung của Borges]
Gấu đọc Trăm
Năm Cô Đơn, bản
tiếng Việt, thời kỳ đứng bán sách báo tại sạp báo của gia đình, ngay
trước chúng
cư Bưu Điện, số 29 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Và đã từng đi một
đường điểm cuốn sách này, trên tờ Thanh
Niên, và do quá rành sư phụ của Gấu, nên nhìn ra liền, nó là từ Absalom, Absalom! mà ra, đến khi
ra hải ngoại, đọc, thì mới biết, thế giới cũng nghĩ như Gấu!
Còn cuốn Tình Yêu Thời Thổ
Tả, đọc bản tiếng Pháp, tại thư viện của phái đoàn Pháp, tại
trại Panat Nikhom,
sau khi đã qua thanh lọc, được coi là tị nạn chính trị, và đang chờ gặp
một phái
đoàn để xin đi tái định cư. Sách ở thư viện, đa số là của những ông Tây
bà Đầm
ghé thăm, quăng lại, thay vì thẩy vô sọt rác. Thành thử cũng không
nhiều, và làm gì có tiểu luận, triết học. Gấu thèm đọc quá, bèn năn nỉ
mấy cô Đầm ra Bangkok
mượn giùm. Kỷ niệm thú vị nhất, là lần
nhờ muợn đọc cuốn Pour Marx
của Althusser, và cô Đầm mang sách về, kèm câu nói
của cô người Thái thủ thư, cuốn sách từ khi mua tới giờ mới có một
người mượn đọc!
Mê Tình Yêu Thời Thổ Tả,
một phần
còn là do anh chàng Florentino, trong khi chờ người yêu chết chồng, cầu
hôn trở
lại, và toại nguyện khi cả hai đã trên bẩy bó, trong khi chờ đợi, đã
hành nghề
viết muớn, y chang Gấu, những ngày ở Sài Gòn sau 1975, sau khi được tha
khỏi trại
Phạm Văn Cội, Củ Chi. Mỗi lần bị bắt, được tha, là lại mò ra Bưu Điện
Sài Gòn hành
nghề viết mướn, nhờ vậy mà gặp lại Châu Văn Nam, khi anh ghé Bưu Điện
làm hồ sơ
ODB.
Kỷ niệm
vui nhất trong đời viết văn
|
|