Diary
|
Vĩnh Biệt
Bạn Cờ
Trong
bài viết Một Cái Chết của
Những Vì Vua, A Death of Kings, Steiner cho rằng có ba cuộc đeo
đuổi trí thức,
intellectual pursuit, con người đạt được những kỳ công lớn lao trước
tuổi dậy
thì. Đó là âm nhạc, toán học, và cờ tướng [chess].
Sự ra đi của bạn Nam, với riêng
Gấu này, cũng có thể coi là Cái Chết Của Một Vì Vua, ấy là vì anh là
một cao thủ
trong môn chơi cờ tướng.
Hồi ở
nông trường cải tạo Đỗ
Hoà, Gấu cũng nổi danh vì chơi cờ tướng, và khi sắp sửa được về đời,
băn khoăn
không biết làm gì sống, một trong những địch thủ của Gấu bèn gợi ý, sao
không
chơi cờ tướng ăn tiền nơi vỉa hè Sài Gòn, và Gấu bèn trả lời, nếu mà
đánh ăn tiền, thì không bao
giờ Gấu này đánh thắng, bất cứ một ai, vì cứ sợ thua!
Anh ta bèn dậy cho Gấu mấy
bàn cờ thế, đánh, chỉ có ăn, hay hoà, không bao giờ thua!
Khác hẳn bạn Nam,
chỉ thích đánh
cờ ăn tiền, và càng đánh lớn, càng thắng lớn.
Anh kể, thời gian Gấu qua Thái,
vô trại tị nạn, anh ở Lào sống bằng nghề đánh cờ tướng với đám tài xế,
con buôn
xe đò xe hàng từ Việt Nam
qua.
*
Nam rất giỏi tiếng Hoa. Gia đình anh gốc Tầu.
Khi còn nhỏ,
gia đình cho anh qua Viên Chăn sống với ông anh, một trong những thương
gia nổi tiếng ở thủ đô
Lào. Nhờ vậy, sau chuyến đi Vàm Láng thất bại, ra tù, trại Bà Bèo, anh
kiếm đường
qua Viên Chăn. Anh biểu Gấu, tao nghĩ không đi đường biển thì đi đường
bộ. Đến
khi Việt Nam mở tuyến đường du lịch bằng xe đò Sài Gòn-Viên Chăn, do
đám công an chủ trì, anh theo chuyến
đầu tiên trở lại Sài Gòn, gặp mấy tay trong “đường dây MIA” của anh, và
gặp Gấu,
hỏi, đi nữa không, chuyến này cho cả gia đình mày đi luôn!
"Nous
ne lui demandons
pas de devenir un traître. Nous lui proposons une nouvelle définition
du mot
loyauté."
Le
Carré, le grand réveil
Un homme très recherché
JOHN LE
CARRÉ
Chúng ta đâu có đòi hắn ta phải trở thành một tên phản bội. Chúng ta
chỉ đề nghị với hắn ta một định nghĩa mới về lòng trung thành.
Nam Le
was born in Vietnam
and raised in Australia.
He worked as a lawyer
before winning the Truman Capote Fellowship to Iowa Writers’ Workshop
where he
wrote The Boat, his award-winning collection of beautifully inventive
short
stories. The rising literary star talks to Megan Walsh
"Tôi là nhân vật thách
đố nhất của riêng tôi"
Nam Lê sinh tại Việt Nam,
và được
dậy dỗ nuôi dưỡng tại Úc. Anh hành nghề luật sư trước khi được học bổng
"the Truman Capote Fellowship" tham dự Xưởng Viết Văn "Iowa
Writers’ Workshop", tại đây, anh viết Con
Tầu, tập truyện ngắn mang chất sáng tạo tuyệt vời, được giải
thưởng Dylan Thomas. Ngôi sao
đang lên
nói chuyện với Megan Walsh, sau đây.
TLS
*
TLS là báo văn học số 1 trên
toàn thế giới. Joseph Brodsky có lần cho biết, cả nước Nga chỉ có một
dúm trên
đầu ngón tay, độc giả dài hạn, trong số đó, có Kim Philby, sư phụ
Graham
Greene, gián điệp Anh phản thùng chạy qua Liên Xô.
Gấu 'đăng ký' tờ này cũng
trên chục niên, cc 1997. Sắp đi, nghỉ, nhận được 'message', mày dân
"pro"
rồi, đọc
tiếp đi, tao chỉ lấy tiền tem thôi!
Tờ này, khi Linda Lê mới xuất
hiện, đọc Vu Khống, tác phẩm
của Linda Lê được dịch qua tiếng Anh, chê, đanh đá chẳng kém Sến Cô
Nương, khi ban cho em cái tít thật
nặng nề: Kiếm khách cho văn chương.
Nay khen hết lời Nam Le, lại đi một bài
phỏng vấn thật hoành tráng.
Sau Nguyễn Ngọc Tư, là đặc
sản Nam Lê! Thú vị thật.
Tin Văn sẽ chuyển ngữ bài
phỏng vấn. NQT
Bởi
vì ông ta,
bởi vì tui
22 tuổi, gặp ông ta,
tôi sững
sờ, biến thành linh hồn tượng đá. Ông ta giúi tôi xuống những nấm mồ mở
ra và đóng
lại không chặt, những lời trù ẻo, những tội lỗi tổ tông.
Miền Nam
âm u, chết
từ năm 1865, được lui tới bởi những hồn ma…
*
Một
bài viết tuyệt vời về ông thầy của mình. NQT
*
Thoạt kỳ thuỷ, khi bước vào
nghề, chàng nghĩ về chàng [Faulkner], như là một nhà thơ bị nguyền rủa,
a “poète
maudit”,
và, có quá nhiều nhà thơ bị nguyền rủa bị người đời coi thường, đếch
thèm trả
tiền, hoặc trả bằng một giá rẻ mạt.
“Tham vọng của tôi, là một cá
nhân tư riêng, a private individual, bị tiêu trừ, abolished, trở
thành trống trơn, voided, trước lịch sử, rời
lịch
sử mà chẳng để lại một dấu vết,” Faulkner viết cho Cowley: “Đây là điều
tôi muốn
đạt được… , tổng số và lịch sử đời tôi.. sẽ là… :Thằng chả đã làm ra
những cuốn
sách và thằng chả chết.”
Coetzee: Faulkner và những người viết
tiểu sử của ông
Trang
Coetzee
Đọc
những bài điểm
sách của Coetzee,
độc giả có thể nhận ra, không phải ngẫu nhiên, tình cờ, khi ông đọc và
điểm,
một tác giả nào đó. Hơn thế nữa, như Derek Attridge, trong lời dẫn nhập
vô tập
tiểu luận Inner Workings, viết:
However,
many readers looking for clues about
Coetzee's own practice will be tempted to turn to the only chapter on a
South
African writer, where they will find an account of Gordimer's 2001
novel The
Pickup. The question Coetzee poses to Gordimer cannot but be read
as a
question he has posed to himself 'What historical role is available to
a writer
like her born into a late colonial community”.
Độc giả tìm kiếm
những dấu vết về sự tu tập của riêng ông, sẽ chỉ tìm
thấy ở chương viết về Gordimer, một nhà văn Nam Phi, và câu hỏi của ông
đặt cho
bà cũng là cho chính ông: Vai trò lịch sử nào dành ra cho bà, sinh ra
trong một
cộng đồng muộn màng của chủ nghĩa thực dân thuộc địa?
Chúng
ta tự hỏi, vì cớ gì
Coetzee lại chọn Việt Nam
làm đề tài cho tác phẩm đầu tay của ông, và chúng ta sẽ tìm ra câu hỏi,
dành
cho chính chúng ta: Vai trò lịch sử nào, dành cho những tên nhà văn
Mít, sinh
ra trong một cộng đồng muộn màng hậu 1975, thí dụ? Và đâu là vai trò
lịch sử
của đám nhà văn Yankee mũi tẹt bỏ chạy ra ngoài nước, nếu không muốn
“được điểm
của hải ngoại”?
Phải
chăng, vai trò của chúng
là chửi đám ở trong nước, vì tranh giành địa vị, quyền lợi, hay tí danh
hão?
Giữa
lòng đen
“My
homeland was a feeling,
and that feeling was mortally wounded…What we swore to uphold no longer
exists…
There was a world for which it was worth living and dying. That world
is dead”.
Sándor
Márai: The Candles Burn Down
Quê
Bắc của tớ là một cảm nghĩ, và cảm nghĩ này bị thương tổn trầm
trọng… Điều
mà tớ quyết tâm gìn giữ cho bằng được, thì đếch còn nữa… Có một cõi Bắc
Kít
thật đáng sống, đáng chết vì nó. Cái cõi đó ngủm củ tỏi mất rồi. NQT
Bất
khả thứ năm
Franz Kafka's three
impossibilities are
the impossibility of not writing, of writing in German, and of writing
differently.
To these he adds a fourth, comprehensive
impossibility: namely, "the impossibility of writing per se." Actually,
the impossibility to live per se, the impossibility "to endure life"-
as he confesses in a letter to Carl Bauer in 1913. "My whole being is
directed toward literature ... the moment I abandon it, I cease to
live.
Everything I am, and am not, is a result of this." Few people have had
their homeland as dramatically located in writing as the Jewish Franz
Kafka
writing in Prague
in German - his paradoxical way of "crossing over to the side of the
world" in the struggle with himself. "I am nothing but literature and
can and want to be nothing else," he often repeated.
Ba không thể của Kafka là không thể không
viết, không thể viết bằng tiếng Đức, và không thể viết khác.
Và ông thêm vô cái không thể thứ tư, không
thể viết ‘per se’, ‘bởi chính
nó’, và, sau cùng, không thể viết bởi chính nó,
trở thành không thể sống per se,
không thể tiếp tục ‘kéo dài cuộc sống’ – như ông
thú nhận trong thư gửi Carl Bauer vào năm 1913. “Trọn đời tôi hướng về
văn học…
vào lúc mà tôi bỏ rơi văn học, là tôi ngưng sống. Tất cả những gì tôi
là, và tôi
không là, là hậu quả của điều này.” Ít người có quê hương của mình cắm
rễ thật
cách thê thảm trong việc viết như là nhà văn Do Thái Franz Kafka, viết
ở Praque
ở trong tiếng Đức – một cách thức ngược ngạo để 'qua đi cuộc đời này’
trong cuộc
chiến đấu với chính mình. “Tôi chẳng là gì ngoài văn chương, và muốn
chẳng là gì
ngoài điều đó ra”. Ông thường lập đi lập lại điều này.
Đơn
Dương ngây ngô quận
Ta La Tai
Tanvien
vs talawas?
Những
chuyện không vui gì giữa
Gấu và bà chủ quán cá, xẩy ra ngay từ ngày đầu tiên Gấu này xung phong
xung
phong đóng góp bài vở, và ngay cả khi Gấu bị phạng tới tấp, mà vẫn nín
thinh, đến
nỗi bị bà chủ quan mắng mỏ, anh già thực rồi ư, tại sao không đích thân
trả lời,
lại phải nhờ đến độc giả bênh vực, chứng tỏ: Gấu không hề muốn viết về
quán
cá, nhất là khi nó tự ý đình bản.
Có một sự thất vọng nặng nề về sự vô dụng của
một diễn đàn đa số gồm những cây viết ra đi từ Miền Bắc, và cùng với
nó, là sự
thất vọng về tài năng, về tri thức, về trí thức, về sự đóng góp của họ,
so với những người
ra đi từ những nước CS khác, thí dụ từ Đông Âu, thí dụ những nhà văn
như
Milosz, như Kundera, như Manea.
Chúng đưa đến kết luận về một miền đất: Tại làm
sao mà nó nghèo nàn, khô kiệt đến như thế?
Đã nghèo nàn, mà lại ưa cấu xé lẫn nhau. Kẻ
ra được bên ngoài, ngoái cổ lại chửi những người ngày nào còn là bạn
của họ.
Trong quá khứ quán cá chưa hề
có một bài viết nào về DTH. NHT có, nhưng chê, thí dụ bài của DT, và
Gấu phải
nhẩy vô ‘phản biện’, như đã từng "phản biện", trong những trường hợp
liên quan tới
HNH, PTVA, PHT…
Thiên
Sứ vs Peter Pan
Mát Két ở
Việt Nam
Dying For Love
Chết Vì Tình
Tin Văn
đã có một bài viết về
cuốn Nhớ Bướm Buồn, của Garcia
Marquez, "lồng" vào bài của Hai Lúa,
nhân lần được chiêm ngưỡng Bướm Buồn Vạn Tượng.
Đi được
vài kỳ, gây
"phản cảm" [gây sốc] đành phải ngưng. Ngưng luôn phần dịch cuốn
truyện.
Nay có
hai bài điểm cuốn
trên. Một của Alberto Manguel, trên
The Guardian, và một của John Updike, trên Người Nữu Ước.
Alberto Manguel chê, nhạt, thiếu muối, ít hồ [little of
substance]. Còn Updike thì truy đến tận cùng, cái thú mê con nít của
nhà văn
nhớn này, ở trong những tác phẩm trước, thí dụ như trong Trăm Năm Cô Đơn, đoạn
tả Aureliano Buendía đi thăm một bướm còn quá trẻ, không thể làm ăn gì
được
trước những vẻ đẹp đã bị lạm dụng tối đa của khách làng, bèn bỏ ra
ngoài phòng,
bèn chỉ muốn khóc, bèn yêu liền cô bé, và hôm sau đi đến một quyết định
là sẽ
lấy nàng làm vợ [Aureliano does not take
advantage of her overexploited charms, and leaves the room “troubled by
a
desire to weep.” He has—you guessed it—fallen in love: He felt an
irresistible
need to love her and protect her. At dawn, worn out by insomnia and
fever, he
made the calm decision to marry her in order to free her from the
despotism of
her grandmother and to enjoy all the nights of satisfaction that she
would give
the seventy men.
John
Updike coi, tác phẩm của
Garcia Marquez, là về một thứ bệnh, trầm luân, vô phương cứu chữa, nếu
lậm vào
nó: bệnh yêu và chết vì nó. [The works of Gabriel García Márquez
contain a
great deal of love, depicted as a doom, a demonic possession, a disease
that,
once contracted, cannot be easily cured].
*
Coetzee, đọc Bướm Buồn, truy
tìm nguồn của nó, ở trong Tình Yêu
Thời Tổ Tả, và từ đó, truy lên ngọn
nguồn của nó, từ Dostoevsky.
*
Tình Yêu Thời Thổ Tả chấm
dứt
khi Florentino Ariza sau cùng tái hợp người yêu mà anh chờ đợi suốt
đời, cả hai
xuống tầu rong ruổi dọc theo con sông Magdalena River,
trên tầu cắm ngọn cờ vàng báo động dịch tả. Chàng và nàng đều hơn bẩy
bó.
Và để được tái hợp với người
yêu Fermia, Florentino phải cắt đứt mối tình già dê mắc dịch của mình
với cô bé
14 tuổi, mà anh già dê mắc dịch này đã dẫn dụ cô bé vào con đường tội
lỗi [nàng
tỏ ra là một cô học trò rất thông minh, học một hiểu mười]. Cô bé sau
đó tự tử, mang bí mật xuống mồ cùng với mình.
Coetzee viết, América Vicuna,
cô bé bị dụ dỗ rồi bị bỏ rơi bởi một anh già, là một nhân vật bước
thẳng ra từ
Dostoevsky. Cái khung đạo đức của Tình
Yêu Thời Thổ Tả, một tác phẩm khá mùi mẫn,
tất nhiên, nhưng cũng khôi hài chẳng kém, với chút gia giảm của thời
tiết mùa
thu lá bay, quả là không đủ rộng, để chứa nổi, chỉ một nhân vật là cô
bé này.
Đây là ý định của Garcia Marquez, chỉ muốn coi cô như là một trong
những tình
nhân của Florentino, và ngoài vài giọt nước mắt cá sấu kín đáo dành cho
cô bé,
khi nghe tin cô tự tử, tác giả đã vờ đi những hậu quả của cái chết của
cô bé lên
anh già. Thực sự, tác giả cũng không biết phải xoay sở ra sao, nếu phải
viết tiếp.
Những câu văn, những đoạn tả cảnh anh già dụ khị cô bé làm chúng ta nhớ
đến một
nàng Lolita của Nabokov: anh già từ từ, vô tư lột dần từng mảnh vải
trên người
cô bé, như những trò chơi con nít, trước tiên là đôi giầy xinh xinh của
con gấu nhỏ… rồi tới cái quần dài của con thỏ xinh xinh… và nụ hôn nhè
nhẹ của
cha già dành cho con chim nhỏ xíu...
Một cách nào đó, Bướm Buồn bắt
đầu ở chỗ chấm dứt là cái chết của cô bé con trong Tình Yêu Thời Thổ Tả.
Kỷ niệm
vui nhất trong đời viết văn
Thế
rồi
bữa đó, cô bé gọi cho
Gấu.
Cô nói, cô đọc Gấu. Gấu cũng
chẳng hỏi đọc ở đâu, nhưng liền đó, cô nói giọng thủ thỉ, đúng cái
giọng cô con
gái con ông chủ nhà xuất bản, trong
Eva, người duyệt
bản thảo của anh chàng đạo văn [Đọc một cái
là rụng rời chân tay, “đây rồi, chàng đây rồi,
đúng là chàng rồi."], nhưng khác một chút, trong giọng thủ thỉ của cô
bé, là
ước mơ trở thành nhà văn, chứ không phải trở thành người yêu của Gấu
nhà văn, "ôi
chao, làm sao, làm thế nào, ước gì cháu viết được như thế, chú viết
đúng như là
cháu tưởng tượng ra, cháu sẽ viết như thế…"
Gấu
sướng mê tơi,
nhưng chợt giật mình, hỏng rồi, hỏng rồi, có cái gì ngài ngại ở đây,
phải coi
chừng, coi chừng…
Vào thời gian đó,
có cái trò, mấy bà mượn một cô nào đó, gọi điện thoại, tán
tỉnh ông chồng của mình, và sau đó, chọc quê đấng lang quân cứ tuởng bở.
Và khi cô bé nói,
nhà cô không có điện thoại, phải mượn điện thoại nhà cô bạn gọi cho
Gấu, Gấu bèn
nói, cô có số điện thoại của Gấu, có biết địa chỉ của Gấu, bữa nào
rảnh, ghé thăm
vợ chồng Gấu.
Nghe nhắc đến Gấu
Cái, cô bé cúp điện thoại.
Kỷ niệm đẹp nhất
trong đời viết văn của Gấu chỉ có vậy.
Rất nhiều đêm, Gấu vẫn được nghe giọng thủ thỉ của cô bé, tiếp tục câu
chuyện dang dở ngày nào.
Giọng Bắc Kít. Đúng giọng Cô Hồng Con của Gấu. Đúng giọng Bông Hồng Đen
của Gấu. Đúng giọng tất cả những cô gái Bắc Kít quê hương ngày nào của
Gấu.
Sau
này, Gấu đoán, có
thể cô
bé đọc Cõi
Khác, hoặc Ký Ức Còn Mãi.
Thời gian đó, Gấu
cho đăng, chỉ có hai
truyện đó, đều viết về cô bạn, nhân gặp lại nơi xứ lạnh, mà viết được,
và còn đẻ
ra được thêm một dúm thơ.
Tất cả là nhờ cô bạn.
Nhờ cô ra lệnh, đọc vậy đủ rồi,
viết đi.
Chắc là cô muốn nói, viết về tôi đi, nhưng cũng ngượng!
*
Cái
mẩu
sáng tác đầu tiên,
khi tới xứ lạnh, Ký Ức Còn Mãi, Gấu viết
theo ‘order’, của một đệ tử của NTV, tay này lúc đó phụ trách một đặc
san sinh
viên học sinh Mít, Gấu nhớ đại khái.
Cô bạn
là người đầu tiên đọc
bản thảo, than, anh đâu phải là tôi, anh đâu phải là đàn bà, mà sao anh
đọc ra
hết lòng dạ của tôi, như thế?
Còn Gấu
Cái, thì bực lắm, và,
lẽ dĩ nhiên, chê, đúng là thứ văn cải lương, vãi lệ!
Mẩu văn
sau mất tiêu luôn
cùng tờ báo, và Gấu viết lại, nhưng, mất mát, phiêu lạc, quên lãng, tất
cả, chỉ
còn một câu độc nhất:
Tôi cứ tưởng
tượng ra một người đàn bà, sau khi làm hết bổn phận với chồng với con,
với cuộc
đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho người thân yên giấc, lặng lẽ
thả từng
cánh hoa xuống lòng giếng sâu là hồn mình, rồi hồi hộp, âu lo, đợi chờ
tiếng
vọng của một thời nào đã xưa, đã cũ…(1)
Câu độc nhất còn nhớ lại được đó, là để nói về
một… cô gái khác, khiến cô hiểu lầm, ‘chú
viết
như vậy không được kín đáo’, cô viết mail
than phiền.
Ấy là
vì, cô, dung nhan,
phong thái y hệt cô bạn ở trong Cõi
Khác, và trong Ký Ức Còn Mãi.
Cái cô than
thở, anh đâu phải là tôi, mà sao đọc ra lòng dạ của tôi, tại sao bao
nhiêu năm
rồi, mà những tình cảm của anh dành tôi ngày nào vẫn y như vậy?
Cái cô bạn, mà Gấu những ngày còn trẻ, khi, vừa
nghe nói
tên một cái, là
đã đinh ninh, đây là một nửa linh hồn của mình, vậy mà vẫn muộn màng,
không kịp
với số mệnh, số mệnh theo nghĩa, đến thần thánh, Thượng Đế, ma quỉ… bất
cứ cái
gì gì cũng phải cúi đầu khuất phục!
Ngay cả
Gấu Cái, lần đầu tiên
nhìn thấy cô sau, cũng giật mình, sao mà giống ’cô phù dâu’ ngày nào
thế!
(1) Câu
văn, mãi sau này, Gấu
tìm ra nguồn của nó, là của một nhà văn nước ngoài, nói về chuyện in
thơ ở Mẽo,
cứ như thả một cánh hoa xuống Grand Canyon, rồi đợi tiếng vọng của nó,
đại
khái như vậy.
Thú thực, không hiểu, Gấu viết câu của Gấu, rồi mới đọc câu
của người, hay ngược lại.
Tuy nhiên, đọc kỹ, thấy mùi vị hiện sinh, Camus, trong Người đàn bà ngoại tình. Truyện
ngắn này, hay đúng hơn, toàn cõi văn của Camus là đều chỉ để nói về Lưu
đầy và Quê nhà: Quê nhà là cõi đã mất kia.
Coetzee đọc The Pickkup của
Gordimer, coi như được mặc khải từ Người
đàn bà ngoại tình của Camus: Câu chuyện một người đàn bà
Algeria gốc Pháp, steals away from
her husband in the night in order to expose herself to the desert and
experience the mystical ecstasy, physical as much as spiritual, that it
induces. [Coetzee: Nadine
Gordimer] NQT
|
|