Diary
|
Ai Tín
Anh bạn Châu Văn Nam, cựu nhiếp ảnh viên UPI, mới mất cách đây mấy
tiếng đồng
hồ, lúc 4 giờ sáng, bây giờ là 9.36 sáng, [tính theo giờ Viên Chăn], do
bị ung thư thanh quản, thời kỳ thứ ba.
Anh có mấy người con trai,
đời vợ trước, hiện nay ở Sài Gòn, và một cháu gái, đời vợ sau, ở Viên
Chăn.
Xin được chia buồn với cháu Tuấn, [cháu lớn của anh Nam], Lộc [cháu gọi
CVN bằng chú], cháu
Nhung.
Gia đình NQT
*
Gấu và Châu Văn Nam, UPI's
photographer. Hình chụp tại Vientiane Lào, cc 1997. Nam là
cứu tinh của Gấu. Anh tin
tưởng Gấu, ngay cả khi Gấu hết còn tin ở mình.
Xin
vĩnh biệt. Cầu chúc bạn
ta sớm siêu thoát. NQT
*
Trong không khí hân
hoan
"cả nước đang sửa soạn làm lễ kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân
1985", tôi gặp lại anh bạn CVN
Trong
chiến tranh Việt Nam,
thời gian làm cho cơ quan báo chí Nhật (Asahi Shinbum), anh đã từng vào
chiến
khu chứng kiến cảnh Việt Cộng thả ba tù binh Mỹ, trong có một Mỹ đen,
tại Bến
Kéo, Trà Xim (Củ Chi). Đây là lần thả tù binh đầu tiên.
Chuyện
xẩy ra trước
ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, vì vậy anh bị rút thẻ báo chí Mỹ,
MACVI.
Anh cũng là người đầu tiên theo người Mỹ đổ quân tại Quảng Trị, từ
chiến hạm Okinawa thuộc Đệ Thất Hạm
Đội, vào năm 1967. Phóng viên
đầu tiên về Châu Đốc, tham gia chiến dịch đổ quân Trà Keo, giải cứu
thường dân
ở Kampuchia. Đã từng phỏng vấn tướng Đỗ Cao Trí tại Sawy Riêng. Tất cả
những sự
kiện trên, là do anh kể cho tôi nghe. Quan trọng nhất, anh nhấn mạnh
với tôi,
là hai chữ "đầu tiên".
Tôi
quen anh những ngày anh
bỏ tờ báo Nhật, qua làm cho thông tấn xã UPI. Gốc "chệt", người nhỏ
thó, tóc xoắn tít. Có lần trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào, về
mấy ‘quí
tướng’ của anh. Anh chỉ ân hận, là đã bỏ cuộc quá sớm. Sau Mậu Thân, bà
vợ rét
quá, bắt ông chồng ở nhà bế con, không cho vác máy hình nữa.
Anh
nghĩ rằng, anh vẫn còn nợ
chiến tranh một điều gì đó. (Món nợ này, độc giả cho phép tôi nợ lại,
vào một
dịp khác sẽ nói rõ hơn.)
Nhờ
vậy, mà có chuyến vượt
biển tại bãi biển Vàm Láng, Gò Công vào đúng đêm ông Táo cưỡi cá chép
lên chầu
Trời.
Trên
một số báo Văn, tôi đã
viết về chuyến đi này, và cái cảnh tượng bi hài: trong đêm tối, ghe gặp
bão
ngay bên ngoài cửa biển Vũng Tầu; một anh chàng thanh niên đã lầm tôi
với người
yêu của anh, và cứ thế vò đầu vò tóc "người yêu", lảm nhảm những lời
cuối cho cuộc tình, cho một tương lai tươi sáng ở nơi xứ người…
Sau
khi ra tù, anh bạn tôi
lại tìm cách đi nữa. Nhờ vậy, có chuyến du lịch Bangkok.
Hồn Thiêng Thành Phố
Trang
Coetzee
Giữa lòng đen
“My
homeland was a feeling,
and that feeling was mortally wounded…What we swore to uphold no longer
exists…
There was a world for which it was worth living and dying. That world
is dead”.
Sándor Márai: The Candles Burn Down (1)
Quê Bắc của tớ là một cảm nghĩ, và cảm nghĩ này bị thương tổn trầm
trọng… Điều
mà tớ quyết tâm gìn giữ cho bằng được, thì đếch còn nữa… Có một cõi Bắc
Kít
thật đáng sống, đáng chết vì nó. Cái cõi đó ngủm củ tỏi mất rồi. NQT
Duc
Huy, Sai Gon
Giờ thì những người luôn luôn
tự hào mình là người Việt Nam
anh dũng kiên cường đã sáng mắt chưa? có thấy những gì mà Đức cha Ngô
Quang
Kiệt phát biểu là ông cảm thấy "nhục" khi cầm tấm hộ chiếu trên tay
chưa?
Tự hào nữa đi, tự hào vì lẽ
giờ cả thế giới đều phải nể Việt Nam là một đất nước tham nhũng đến thế
nào mà
bị cắt cả ODA, tự hào mà "bơi" trên phố mỗi khi mưa về nhé, tự hào mà
cỡi xe như cỡi ngựa chinh chiến trên những con đường đầy rẫy lô cốt
nhé, tự hào
vì không có một dân tộc nào anh hùng như VN dám "đi vào bóng đêm" như
thời trung cổ như vậy.
Tôi thấy rất nhục, rất tủi,
rất xấu hổ, rất đau đớn. Ôi... Việt Nam ơi!
BBC
Còn "Ôi... Việt Nam ơi!", là vẫn... OK! NQT
Ui chao, các thế lực thù nghịch, bọn Chống Cộng điên cuồng hải ngoại,
bọn âm mưu diễn tiến hòa bình chơi nhà nước, nhân dân ta cú này hơi bị
nặng quá! NQT
Đường
ra trận mùa này đẹp lắm
vs Gun Fight at The OK Corral (1)
Có
thể có một tiểu tít kèm
theo:
Tuổi trẻ MB vs Tuổi Trẻ MN?
Những gì gì, nào là nghĩa khí
giang hồ, tình bằng hữu… tất cả đều có ở trong những cuốn phim cao bồi
mà Gấu này
cùng lớn lên với chúng, ở trong Sài Gòn.
Và nghĩa khí giang hồ, tình bằng
hữu còn có cả ở trong tất cả những bản nhạc lính của Miền Nam.
Trong khi đó, tuổi trẻ Miền Bắc
được học những gì?
Học Toán bằng những xác chết Mỹ Ngụy. Học yêu bằng
cùng mắc
võng trên rừng Trường Sơn, hai đứa ở hai đầu xa thẳm. Học nói bằng
tiếng đầu lòng
con gọi Xít Ta Lin, vài thí dụ.
Kết quả Miền Nam
thua trận,
tất nhiên. Nhưng cái giá thắng trận mới khủng khiếp biết là chừng nào.
Koestler đã từng nói đến sự
chúc dữ, sự trù ẻo, lời nguyền rủa của cái vòng tròn, khi dẫn ra, vào
thời kỳ
Pythagore, con người đã mường tượng ra quỹ đạo của những hành tinh là
hình bầu
dục, nhưng liền sau đó, triết học Platon lên ngôi, chủ trương trần tục
vs thanh
cao, cái xấu vs cái đẹp… và còn gì đẹp hơn là hình tròn, so với hình
méo, bầu dục?
Đến khi Kepler tìm ra được quĩ
đạo mặt trăng, thì nhân loại mất đúng hai ngàn năm.
Phải bao lâu dân Mít mới thoát
ra khỏi sự trù ẻo, lời nguyền rủa của cái tuyệt hảo là chủ nghĩa Cộng
Sản?
Và của Cái Ác Bắc Kít?
(1) Gấu vừa coi lại, trong khi chiến đấu với con vai rớt Bắc Kít! NQT
*
Vòng tròn ma thuật
Thành quả của Cái Ác, qua sức
mạnh và trí tưởng tượng của những Đại Ác Nhân của Shakespeare cùng lắm
thì cũng
chỉ đếm được trên chục xác chết. Bởi vì đám khốn kiếp này không có ý
thức hệ,
như là một "nghĩa cả" để mà phục vụ... Nhờ có "ý thức hệ",
thế kỷ 20 đã có được cái số phận khốn nạn của nó: kinh qua Cái Ác ở mức
độ hàng
triệu triệu tử thi."
("The imagination and
inner strength of Shakespeare’s vilains stopped short at a dozen
cadavers.
Because they had no idology... Thanks to "ideology" the 20th century
was fated to experience evil calculated on a scale of millions.").
Solzhenitsyn.
Koestler, trong Gót chân
Achilles, cho rằng, chính cái nhu cầu tự huỷ diệt, the Urge to
Self-Destruction, qua những hành động, thí dụ, trích máu ngón tay viết
huyết
thư tình nguyện vô Nam chiến đấu, mới đích danh thủ phạm!
*
Vòng tròn ma thuật? Không
biết có liên can tới cái gọi là sự chúc dữ, sự nguyền rủa, trù ẻo, của
cái vòng
tròn, la malédiction du cercle, là đề tài trọng tâm của cuốn Những Kẻ Mộng Du?
Koestler cho rằng, những nhà
khoa học, bác học... đều là những kẻ mộng du, và trong khi mộng du như
thế, họ
vớ được chân lý! Cuốn sách của ông chứng minh điều này, và có thể coi,
là câu
chuyện của mấy nhà thiên văn học, trong có Kepler. Điều mà Kepler khám
phá ra,
là quĩ đạo của mặt trăng, và cũng là nhờ khi đó nhân loại làm ra được
viễn vọng
kính. Khi quan sát quĩ đạo của mặt trăng, và nhận ra, nó là hình bầu
dục, ông
hoảng hồn, là vì điều này đã được Pythagore khám phá ra trước đó hai
ngàn năm
rồi!
Khám phá ra, bị gạt bỏ, ấy là
vì thời đó mê cái vòng tròn: Hình đẹp nhất, tròn trịa nhất.
Y chang chân lý Mác Xít!
Nhật ký những ngày ở
trại
Vượt
quá phê bình
Đơn
Dương ngây ngô quận
Rồi ta sẽ kể cho
người nghe về sương. Sương nơi cố quận có khi mỏng manh như một chiếc
khăn
voan, lúc ẩn lúc hiện và lạnh nhè nhẹ. Có những buổi sáng mùa đông
sương trắng
sữa như mây bồng bềnh khắp các đỉnh núi thấp và tràn xuống đầy những
vùng
trũng. Có những đêm sương phủ kín mịt mù, trăng run rẩy trên cao cũng
mờ đi vì
lạnh. Và có những ngày mùa đông sương rơi như mưa giăng mắc, đi một lát
đã thấy
ướt đẫm áo khăn, cái lạnh ngấm vào tận xương, buốt giá. Ở mảnh đất cao
nguyên
nghèo nàn ấy, những ngày nắng đẹp hiếm hoi biết bao nhiêu!
*
Ui chao Gấu Cái quá mê bài viết này. Hỏi ai đấy.
Bạn Gấu đấy.
*
Ngày mai
đi nhận xác chồng
Ta La Tai
Tanvien
vs talawas?
Gấu cũng có vài kỷ niệm thú
vị
với diễn đàn talawas. Viết ra đây, có khi nhờ đó mà hiểu thêm được, về
cái sự
chúc dữ của cái vòng tròn ma thuật, chăng?
Có một lần, Gấu viết
một bài
về cái sự mê mì gói của Mít, nhân một viết của Thảo Hảo, cũng về cái
thú sơi mì gói.
Ấy là vì đọc bài viết
của Thảo
Hảo, thì Gấu nhớ ra một kỷ niệm về mì gói, khi nó vừa mới xuất hiện ở
Miền Nam
trước 1975.
Bữa đó, ngồi Quán
Chùa, có ký
giả Lô Răng, ký giả Ba Tê, và Gấu. Lô Răng khen um lên, Ba Tê lắc đầu,
sao bằng
phở được!
Lô Răng, dân nhà
binh, khen mì
gói, là đúng quá rồi. Ba Tê, lính bất đắc dĩ, làm sao mê mì gói?
Gấu nghĩ, bài này mà đăng ở
talawas thì mới đắc địa. Gửi. OK đăng, nhưng cuối cùng, bà chủ quán
mail, giọng
rất bực: Vừa mới tính post lên, tình cờ đọc Tin Văn, đã thấy post lên
rồi. Lần
sau, đừng làm chuyện như vậy nữa nhé: talawas không bao giờ đăng
bài đã từng đăng ở chỗ khác!
Bỗng nhớ đến chân lý:
Yêu nước
là yêu chủ nghĩa xã hội! Quái thật!
Ngợi ca mì gói
*
Miếng
cơm, manh chữ
Người
viết đọc lại những gì
đã viết, về một quãng đời trong có bóng dáng một họa sĩ (Ngọc Dũng) vừa
ra đi,
và nhận ra một điều: cái đói ám ảnh ngay từ dòng chữ mở đầu... Hay nói
một cách
khác: đây là những kỷ niệm về cái đói.
Nào là cái ruột tượng đựng
gạo, nỗi sợ mỗi lần nhìn thấy... cháo, cơn đói lả mà cứ tưởng là bịnh..
Nhưng “cái no” cũng có những
kỷ niệm để đời, đối với một thằng nhỏ Bắc Kỳ! Ông cụ tôi mất sớm. Bà cụ
một
nách bốn con, cứ phải tha đi nhà này nhà nọ, để ăn chực. Ăn chực chán
quê nội,
qua tới quê ngoại. Hai làng cách nhau cũng chừng gần chục kí lô mét.
Lần đó,
thằng bé tới nhà bà trẻ, được ăn no cành hông, đi không nổi, rồi đau
bụng quá,
vì quá nặng bụng! Thấy thằng nhỏ nhăn nhó, mọi người lại tưởng bịnh,
riêng bà
trẻ hiểu ngay nguồn cơn, ra lệnh: ra sân chạy! Ì ạch một hồi, mới đỡ
đau. Lúc
đó mới nhớ lại cái cảnh “tầu phù” nằm chết như rạ, khi sang tước khí
giới quân
đội Nhật, tại một ga xe lửa miền bắc. Do ăn no quá, bể bụng, (‘phù’ ở
đây chắc
là biến thể của ‘phình’).
Tác giả một bài viết trên tờ
Gió Ðông, xuất bản ở Ðức, (đã đình bản), sau khi đọc lại một số tiểu
phẩm, đã
đưa ra một nhận xét: nhà văn Việt Nam hay nói về miếng ăn. Và
hình
như đây là một nỗi ám ảnh, một “định mệnh văn chương”. Nhân đó, ông nói
về tác
phẩm Marie Sến, của Phạm Thị Hoài: cũng vẫn những chiếc phong bì. Cũng
vẫn
miếng ăn, miếng nhục.
Trần Ðăng Khoa, trong cuốn
Chân Dung và Ðối Thoại, chê Nguyễn Tuân, tuy mê ‘ăn’, nhưng chưa đưa nó
lên
thành nghệ thuật. Ông tự hỏi, hết chuyện viết rồi hay sao, chẳng lẽ văn
chương
chỉ là chuyện về miếng ăn... tồi tàn?
Theo tôi, cần phải phân biệt
giữa cái đói, ám ảnh của nó, với miếng ăn, như một cái cần, và sau đó,
như một
cái đẹp.
Trả lời phỏng vấn, về chuyện
phải từ bỏ đất nước, và quan trọng hơn, phải từ bỏ tiếng mẹ đẻ, nhà văn
Romania, Cioran cho biết: phải viết văn bằng tiếng “ngoại” là một tai
nạn lớn
lao đối với một nhà văn. Ông kể hai kinh nghiệm, tưởng như chẳng liên
hệ, về
chữ viết “ngoại”, và về miếng ăn “ngoại”.
Cho tới năm 1947, ông vẫn
viết văn bằng tiếng Romania.
Tới bữa đó, ông tính dịch Mallarmé sang tiếng Romania.
Bất thình lình, ông tự hỏi
chính mình: “Thậm vô lý! Ích chi đâu, khi dịch Mallarmé sang một thứ
tiếng mà
chẳng ai biết?” Thế là, tôi từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Tôi bắt đầu viết văn
bằng tiếng
Tây. Thật trần ai khoai củ. Viết văn bằng một ngôn ngữ khác là một kinh
nghiệm
đáng sợ. Người ta phải mầy mò với từng chữ. Khi viết bằng tiếng mẹ đẻ,
tôi cứ
thế mà viết, giản dị như vậy đó. Chữ viết không có quyền độc lập, đối
với tôi
(Les mots n’étaient pas ‘indépendants’ de moi). Khi viết văn bằng tiếng
Tây,
mấy con chữ như thách đố tôi: chúng như ở trong những xà lim
(cellules), và tôi
phải nhặt ra từng con: nào tên này, nào tên kia, ra đây biểu!
Kinh nghiệm đó, theo ông, y
hệt kinh nghiệm về miếng ăn, cũng ngày đầu tới Paris. Lần đó, ông trọ tại một khách
sạn nhỏ,
khu ‘người em xóm học’ (khu Latinh). Bữa đó, ông xuống nhà gọi điện
thoại, và
thấy nhân viên coi khách sạn, bà vợ, và ông con trai: cả ba đang sửa
soạn bữa
ăn, họ như đang sửa soạn kế hoạch cho một trận đánh! Tôi sững người: ở Romania,
tôi
luôn luôn được nuôi ăn như một con vật, chẳng thèm để ý tới “ăn nghĩa
là gì”. Ở Paris,
tôi mới
nhận ra ăn là một nghi lễ, một hành động văn minh, gần như xác định một
thái độ
chính trị.
Vũ Bằng phân biệt hai miền
qua món ăn: món ngon miền bắc ‘đấu’ với món lạ miền nam. Ôi chao, những
cái
lỉnh kỉnh, nhiêu khê, cầu kỳ, nhưng thật cần thiết, không có không được
của một
tô bún thang, cái mỏng dính của một lá bánh cuốn Thanh Trì, cái thú
ngồi canh
bánh trưng ngày tết... chỉ tới khi vào Nam, hết sợ đói, thằng bé Bắc Kỳ
mới mới
thấy “thấm thía” cái tuyệt vời của một miếng ăn.
Cái tuyệt vời của những kỷ
niệm khi còn là một đứa bé chuyên môn đi ăn chực, tại một miền đất.
[Tựa của PTH].
V/v
Thiên Sứ và Peter Pan:
Đứa trẻ không bao giờ trưởng thành.
Lost Heroes
Phil Baker đọc Piers
Dudgeon: Captived: J.M. Barrie,
the Du Mauriers and the dark side of Neverland
[TLS 28.11. 2008]
Cũng
khó mà coi là một phát
giác mới mẻ, điều sau đây: Những nhà văn viết truyện nhi
đồng thường còn là những cây viết biếm văn rất độc: Duyên Anh vs Thương
Sinh,
Lê Tất Điều vs Kiều Phong, Gấu của BHD vs Tên Sa Đích Văn Nghệ…
Danh sách còn dài dài.
Và tất
nhiên: Thiên Sứ vs Sến
Cô Nương!
*
Tuy nhiên, khủng khiếp nhất, có lẽ là J.M. Barrie với nhân vật Peter Pan
của ông.
*
Peter Pan: Đứa bé từ chối không muốn làm người nhớn, suốt đời trẻ thơ:
Gấu của Hà Nội?
Và trong thế giới trẻ thơ đó, thiếu, và phải đem vô, một Bông Hồng Đen?
*
Cuốn
tiểu sử J.M. Carrie, Captived này
hiện đang chấn động giang hồ
net, một phần do lời trù yếm của chính J.M.
Barrie, một phần còn liên quan đến Du Maurier, tác giả của những Jamaica Inn (1936) Rebecca (1938)...
*
'May
God blast anyone who
writes a biography of me,' said Peter Pan creator J.M.Barrie [Đ.M.
thằng nào
viết tiểu sử tao!]... and author Piers Dudgeon appears to have put
himself
right in the firing line!
*
Phim hoạt họa đầu tiên mà Gấu
được coi, là Peter Pan. (1953). Coi xong, là mất
Hà Nội. Sau người hùng Zorro, ở rạp Lửa Hồng, của hội
hướng
đạo, là tới Peter Pan, ở một rạp nào đó, của Hà Nội. Trong những
kỷ niệm
về Hà Nội, không thể thiếu Peter Pan, và biết đâu, chính vì thế mà sau
này, xa
nó, tìm cách thay thế Peter Pan [Hà Nội], bằng BHD?
Tay Barrie này, như Piers Dudgeon viết, làm Gấu nhớ ngay đến những ông
bố Bắc
Kít. Chỉ mãi đến khi BHD mất rồi, thì Gấu mới hiểu được, tại sao nàng
từ bỏ
Gấu. Một mình em gọi ông ta là Bố là đủ rồi. Mỗi lần Bố em vô phòng của
chúng
em là con Bé bỏ ra ngoài. Anh không làm được việc đó đâu.
Trước hết, phải nói, ông bố này không phải là một ông bố bịnh hoạn như
Barrie,
mà là một bố truyền kiếp Bắc Kít luôn muốn con cái phải quì phục
trước
mình. Kiểu bố của Kafka, đại khái như vậy
“Anh không làm nổi chuyện đó đâu”.
Đúng là tri kỷ của Gấu.
*
Đó là thời gian Sài Gòn hay xẩy ra đảo chánh. Gấu lần đó gọi điện
thoại, và hỏi
thăm về 'boyfriend' của BHD.
Anh ấy được lòng bố em lắm. Vừa mới nghe rục rịch đảo chánh là đã khệ
nệ vác
mấy bao gạo đến nhà rồi.
Em ngưng một lát, nói tiếp:
Anh
không làm được như vậy
đâu!
*
Ui chao, Gấu làm được, nhưng không nghĩ ra được!
*
Cha đẻ của nhân vật Alice Xứ Thần Tiên, Lewis Carroll, mà chẳng quái
đản sao? Chỉ mê con nít. Mê chụp hình con nít. Viết truyện vì con nít
order.
Gần đây nhất, sau Nabokov, là Garcia Marquez. Trong Inner
Workings, Coetzee liên kết được cả bốn
tác giả,
khi viết về Bướm Buồn: Dos,
Nabokov, Garcia Marquez
và Kawabata.
Càng làm Gấu nhớ BHD, chẳng hề giống bất cứ
một nhân vật nào của bất cứ tác giả nào.
*
BHD học
y khoa một phần là do
muốn trả ơn ‘sinh thành', sau khi ông bố thất vọng về hai ông
anh.
Còn một ông em trai. Khi Gấu quen BHD, cậu này mới mấy tuổi. Sau đi du
học, thành tài, không hề
về lại Việt Nam.
Không hề liên lạc với bất cứ một ai trong gia đình, trừ BHD. Khi BHD
mất, tay này
có đưa chị mình tới nơi yên nghỉ cuối cùng.
Những ngày nghe tin BHD bịnh,
Gấu có nhờ một anh bạn, gọi điện thoại cho Em, nói Gấu muốn nói chuyện.
Cô nói,
cho cô số điện thoại của Gấu, rồi cô sẽ gọi , khi nào rảnh.
Vậy mà quên.
*
Viết chuyện thần tiên, khi được con nít order.
Cô bạn cũng đã từng order Gấu: Đọc vậy đủ rồi. Viết đi.
Kỷ niệm
vui nhất trong đời viết văn
|
|