Diary
|
My Turkish Library
By Orhan Pamuk, Translated
from the Turkish by Maureen Freely
Thư viện Thổ của tôi
Trên tờ
TLS, số 28 Tháng 11,
2008, Michael Nicholson dưới cái tít trên trang bìa, Nga khám phá ra,
uncover,
Solz. Và trang trong, Solz được đòi lại [reclaimed], điểm những cuốn
sách mới
nhất, vừa được xb tại Nga: Cuốn tiểu sử đầu tiên bằng tiếng Nga, một ấn
bản mới
nhất của Quần Đảo Ngục Tù, và một Tầng Đầu Địa Ngục mang tính hàn lâm,
biên
khảo, thông thái, uyên bác: Moscow và St Petersberg “viết lại” một nhân
vật của
chúng.
Có nhiều cái mới: Lần đầu
tiên Quần Đảo Ngục Tù công bố đầy đủ tên tưổi của 227 người đã cung cấp
tin tức
tài liệu cho Solz, những bạn tù của ông, mà hơi thở của toàn bộ tác
phẩm của
ông, là hơi thở của họ. Trong số đó, bảnh nhất, là Nadezhda Levitskaya.
Ngoài
chuyện cung cấp chứng cớ hiển nhiên, như là một kẻ sống sót Trại Tù, bà
còn
xuất hiện trong hồi ức của Solz như là một trong những đồng minh “vô
hình” [chữ
này của Solz’], bằng tinh thần vô vị lợi, vô kỷ, giúp ông sửa soạn,
giấu giếm
và gìn giữ những tác phẩm của ông, dưới sự kiểm tra, ruồng xét nghiêm
ngặt,
thường trực, trong nhiều năm, cuối cùng dẫn đến việc bắt bớ và tống
xuất ông ra
khỏi Nga, vào năm 1974.
Có một chi tiết thú vị, cuốn
tiểu sử của ông được xb dưới bảng hiệu “Cuộc đời của những vì nhân dân
đáng
kể”, do Gorky thành lập, dành cho những nhà văn Đỏ của Liên Xô. Cuốn
này cũng
có những chi tiết ly kỳ, mới mẻ về cuộc đời của Solz, và người viết, là
một
chuyên gia về Dos, và với cuốn Solz, bà được sự hợp tác giúp đỡ của
toàn thể
gia đình Solz, có được những nguồn thật đặc biệt, nhưng trên hết, là
phong cách
viết: Bà không coi mình như là một “detached adjudicator”, một vị quan
toà đặc
nhiệm để giảng hoà, giải quyết những tranh chấp, những đối nghịch, về
những gì liên
quan đến cuộc đời của Solz, nhưng như là một người viết lời “apologia”
theo
nghĩa thực, cảm nghĩ thực, in the true sense, … entailing
‘intercession, the
duty in all conscience to justify one’s subject in the eyes of history,
and to…
cleanse it from the slanderous attacks and false accusations”.
Còn điều này nữa, trong khi ở
Tây Phương, trong khoảng thời gian 15 năm đã có ba tác phẩm về cuộc đời Solz, thì ở Nga chưa có một cuốn nào.
Tuyệt thật. Giá mà chúng ta
cũng có những cuốn tiểu sử như thế, được viết ra, ở trong nước, về một
tiểu sử
văn học của Miền Nam trước 1975 và những tác giả của nó.
Trang
Coetzee
Dusklands
Inner Workings
Coetzee
ngay trong tác phẩm đầu
tay của ông, tuy giả tưởng, nhưng còn thực hơn cả sự thực, đã “đau đáu”
vì nỗi đau
Việt Nam.
Dusklands gồm hai
“truyện” ngắn, và mở ra bằng truyện ngắn có tên là Dự Án Việt
Nam, lấy câu của Herman Kahn, làm đề từ:
Obviously it is difficult
not
to sympathize with those European and American audiences who, when
shown films
of fighter-bomber pilots visibly exhilarated by successful napalm
bombing runs
on Viet-Cong targets, react with horror and disgust. Yet, it is
unreasonable to
expect the U.S. Government to obtain pilots who are so appalled by the
damage
they may be doing that they cannot carry out their missions or become
excessively depressed or guilt-ridden.
[Hiển nhiên, khó mà không thông
cảm với khán giả Âu Châu và Mẽo, coi phim chiến tranh Việt Nam, cảm
thấy tởm,
nhìn mấy tên phi công Mẽo sướng điên lên khi dội bom VC chạy có cờ.
Nhưng chẳng
lẽ Quân Đội Mẽo lại tuyển mấy tên chết nhát làm phi công, và sau một
phi vụ là
phải chuyển chúng vào nhà thương tâm thần?]
Cái chuyện, mấy anh VC nằm vùng
sướng điên lên, khi chơi cái màn đặt bom, gài mìn nhà hàng quán nước,
trong thời
gian chiến tranh, điều này có thể hiểu được, nhưng sau khi hết chiến
tranh, đất
nước rớt xuống hố sâu thăm thẳm của băng hoại, của bọ, của ruồi, của ô
nhiễm, của
ô nhục… vậy mà chúng vẫn tự hào vì những tội ác như vậy, cái đó thật
lạ. Cũng
như đám Yankee mũi tẹt, khi ra được hải ngoại, bất cứ vì lý do, nguyên
nhân gì,
mặt mày vẫn vênh lên vì chiến thắng Miền Nam, thống nhất đất
nước….Chúng không
nhục vì đất nước thống nhất, mà đúng là giật lùi, là chia rẽ, là đau
thương… mà
lại nhục khi bị “hiểu lầm là được điểm hải ngoại”, quái đản thật!
*
The Arcades
book, whatever our verdict on it - ruin, failure, impossible project -
suggests
a new way of writing about a civilization, using its rubbish as
materials
rather than its artworks: history from below rather than from above.
And his
call (in the 'Theses') for a history centred on the sufferings of the
vanquished, rather than on the achievements of the victors, is
prophetic of the
way in which history-writing has begun to think of itself in our
lifetime.
(2001)
Coetzee: Walter
Benjamin, the Arcades
Project (1)
"Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào – điêu tàn, thất
bại, một dự án bất khả, impossible project – đề nghị một đường lối mới,
để viết
về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay vì
những nghệ
phẩm của cái nền văn minh đó; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ đỉnh.
Và lời
kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận đề" - "Theses"),
cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua, thay vì thành
tựu của
những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính tiên tri, về cung cách mà
việc
viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời [còn lại ngắn ngủi
của chúng]
ta.
*
Đám Yankee mũi tẹt và những nhà văn của chúng chắc là chẳng bao giờ
biết đến
thứ lịch sử của thời của chúng ta, thứ lịch sử xoáy vào nỗi đau khổ của
người
thua, thay vì thứ lịch sử của kẻ thắng.
(1) Bài viết sau được in trong Inner
Workings, tập tiểu luận, với cái tít như trên. Gấu đọc Coetzee, lần
đầu
tiên, là bài này, bèn dịch liền, với tí vốn Anh văn ăn đong những ngày
mới tới
xứ lạnh, và đã được ông bạn NTV giúp đỡ rất nhiều. Cả hai thường ngồi
trong một
tiệm cà phê bình dân của thành phố Toronto,
nơi gần nhà ông, và có lần say sưa bàn cãi về một từ cần phải dịch như
thế nào,
ồn ào đến nỗi anh chủ quán phải đến nhắc nhở.
Dân Mít chúng ta thiếu những nhà văn như Coetzee, và lại càng thiếu
những nhà
phê bình, điểm sách như ông. Nên nhớ, tác phẩm đầu tay của ông, lấy đề
tài Việt Nam
(2).
Trong những kỳ tới Tin Văn sẽ giới thiệu bài viết giới thiệu ông, ở đầu
cuốn
Inner Workings.
(2) John Michael Coetzee sinh tại Cape Town (Nam Phi) ngày 19.2.1940.
Học tại Đại học Cape
Town và sau đó tại Đại học Texas, lấy bằng Ph.D (1969), và trở lại Nam
Phi năm
1972, dậy Anh ngữ tại Đại học Cape Town. Tiểu thuyết gia, nhà phê bình,
dịch
giả; những cuốn tiểu thuyết của ông là về hậu quả của chủ nghĩa phân
biệt chủng
tộc. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, thực ra là hai truyện vừa,
"Dusklands"
(1974), ông đối chiếu sự hiện diện của người Mỹ tại Việt Nam với những
người
Hòa Lan đầu tiên định cư tại Nam Phi. Trong lịch sử 31 năm của giải
thưởng văn
học The Booker, ông là người đầu tiên hai lần đoạt giải, lần thứ nhất
vào năm
1983 với cuốn "Đời và Thời của (Life and Times of) Michael K.", và
năm 1999, với cuốn "Disgrace" (Ô Nhục).
Giữa lòng đen
“My
homeland was a feeling,
and that feeling was mortally wounded…What we swore to uphold no longer
exists…
There was a world for which it was worth living and dying. That world
is dead”.
Sándor Márai: The Candles Burn Down (1)
Quê Bắc của tớ là một cảm nghĩ, và cảm nghĩ này bị thương tổn trầm
trọng… Điều
mà tớ quyết tâm gìn giữ cho bằng được, thì đếch còn nữa… Có một cõi Bắc
Kít
thật đáng sống, đáng chết vì nó. Cái cõi đó ngủm củ tỏi mất rồi. NQT
(1) Cuốn này hình như trong nước đã dịch, và hình như có tranh chấp về
dịch
giả?
Note: Gấu có tới mấy
cuốn Trái Tim Của Bóng Đen,
nhưng cuốn trên, dành cho học sinh, phần chú thích, thật
tuyệt vời!
Người
Không Mặt:
Tự thuật của Trùm
Gián Điệp Vĩ
Đại Nhất của Chủ Nghĩa CS: Markus Wolf
Some
of these demarches were mistakes; but what
government doesn't make mistakes? As for the others, it is essential to
Wolf's
defense that they served the legitimate aspirations of a legitimate
state. Were
some illegal? Come, come. Every secret service sponsors illegality. You
think
the CIA and British intelligence are Sunday schools?
Thì cũng có những cú trật trìa, hỏng giò, nhưng có chính quyền nào
không lầm lẫn, lúc này lúc khác, vấn về thiết yếu là, tớ phục vụ những
hoài vọng chính đáng của nhà nước chính đáng. Có nhà nước nào không
chính đáng? Nè, mật vụ nào mà không bảo lãnh bất hợp pháp. Bạn nghĩ CIA
và MI là những nhà trường chủ nhật, ngôi nhà của Chúa?
Bất
khả thứ năm của Kafka:
Bất
khả lưu vong
Ba cái
“không thể” đầu tiên của
Kafka, thì đa số đều biết:
Không thể không viết,
Không thể viết bằng tiếng Đức,
Không thể viết khác [differently].
Bất khả thứ tư, theo Manea là: Không thể viết bởi chính nó
[the impossibility of writing per se]. Cái không thể này, đẩy cho tới
tận cùng,
biến thành, không thể sống, kéo dài cuộc đời [the impossibility of
‘endure life’], như
trong thư ông gửi Carl Bauer vào năm 1913: "My whole being is directed toward literature
... the moment I abandon it, I cease to live. Everything I am, and am
not, is a result of this." Few people have had their homeland as
dramatically located in writing as the Jewish Franz Kafka writing in Prague in
German-his paradoxical way of "crossing over to the side of the world"
in the struggle with himself. "I am nothing but literature and can and
want to be nothing else," he often repeated.
"Tôi không là gì ngoài văn chương, và chẳng có thể, chẳng muốn cái gì
hết, ngoài nó ra."
*
Cũng hơi là
lạ, là, Kafka không nhắc tới một bất
khả thứ năm, cái bất khả này thì thật đặc chất Kafka hơn hết thẩy: bất
khả lưu
vong, hay bất khả ‘operetta’, nếu chúng ta chịu khó theo dõi nhà văn
lưu vong
Romania, Cioran, ông này phán, thà viết ‘operetta’[opera nhẹ] còn hơn
viết tiếng
ngoại. Và nếu như thế, có lẽ nên gọi bất khả thứ năm này bằng cái tên
“sự bất
khả của con sên”, nghĩa là, sự bất khả tiếp tục viết ở xứ người, ngay
cả khi mà
nhà văn khệ nệ bưng theo cùng với mình cái nhà [ngôn ngữ] của ông ta,
giống như
con sên mang theo cái nhà, tức cái vỏ, của nó.
Nhật ký những ngày ở
trại
Vượt
quá phê bình
The critic is an epistemologist [Nhà phê bình là nhà tri thức luận]
The reader is servant to the text [Nhà độc giả là đầy tớ của bản văn]
Great
Readers', says Borges,
who is himself one, are 'rarer than great writers.' The list would
include
Montaigne reading Seneca and re-reading himself; Coleridge reading
Jacobi and
Schelling, a reading whose motion of acquiescence and metamorphic
repossession
Thomas McFarland has analyzed with a tact equaling that of any other
study of
the stress of influence; Peguy reading Corneille and Victor Hugo;
Walter
Benjamin reading Goethe's Elective
Affinities; Heidegger reading Sophocles and
Trakl (not Holderlin, whom he often reads wilfully and with
opportunism);
Mandelstam reading Dante and Chenier; Alexandre Koyre reading Galileo;
Nabokov
reading (not translating) Pushkin; Jean Starobinski reading Rousseau;
William
Empson reading complex words; Gianfranco Contini reading the Proven~al
poets,
Dante, and Montale; Pierre Boutang reading Plato's Philehus; Michael
Dummmett
reading Frege, where depth and openness of reading are radically
creative; D.
Came-Ross reading Gongora and Ariosto; Gershon Scholem reading the
Kabbalists
and reading Walter Benjamin…
Nhà độc giả vĩ đại thì hiếm lắm, hiếm hơn, so với nhà văn nhớn, Borges
phán. Bản thân Ngài, là một nhà độc giả nhớn. Montaigne đọc Seneca và
đọc lại chính mình, Coleridge đọc Jacobi và Schelling....
G.
Steiner: "Critic/Reader"
Giá như mà có thể thêm vô: Gấu đọc Steiner và đọc
lại Gấu!
Đơn
Dương ngây ngô quận
Rồi ta sẽ kể cho
người nghe về sương. Sương nơi cố quận có khi mỏng manh như một chiếc
khăn
voan, lúc ẩn lúc hiện và lạnh nhè nhẹ. Có những buổi sáng mùa đông
sương trắng
sữa như mây bồng bềnh khắp các đỉnh núi thấp và tràn xuống đầy những
vùng
trũng. Có những đêm sương phủ kín mịt mù, trăng run rẩy trên cao cũng
mờ đi vì
lạnh. Và có những ngày mùa đông sương rơi như mưa giăng mắc, đi một lát
đã thấy
ướt đẫm áo khăn, cái lạnh ngấm vào tận xương, buốt giá. Ở mảnh đất cao
nguyên
nghèo nàn ấy, những ngày nắng đẹp hiếm hoi biết bao nhiêu!
*
Ui chao Gấu Cái quá mê bài viết này. Hỏi ai đấy.
Bạn Gấu đấy.
Ngày mai
đi nhận xác chồng
To die for others is
difficult enough.
To live for others is
even
harder.
G. Steiner: Errata
Giữa “Đường ra trận mùa này
đẹp lắm” và “Ngày mai đi nhận xác chồng” là chân lý: Chết vì người đã
khó, sống
vì người còn khó hơn?
*
Tiếng hò khoan của Trương Chi
chỉ chịu tan ra, khi giọt nước mắt Mị Nương nhỏ xuống.
Tiếng hát Orphée ru ngủ được
cả ác thú trấn cửa địa ngục.
Nhưng liệu huyền thoại Trương
Chi tiên đoán sự trở về của anh chàng thuyền chài, trong lớp áo bộ đội,
và câu
hát của anh không còn mê hoặc một người đẹp, nhưng mà là biết bao thế
hệ: Đường
ra trận mùa này đẹp lắm?
Huyền thoại Orphée còn mù mờ
hơn nhiều: những “liệu, liệu...” xem ra chừng vô tận, theo George
Steiner: Cuộc
đối đầu giữa ấm và lạnh, giữa dâm thần (eros) và thần chết, cuộc lữ đi
xuống
tận cùng của bóng đen, rồi lại trở lại với ánh sáng....
Liệu Orphée đã phổ thơ vào
nhạc; nói rõ hơn, liệu ác thú bị mê hoặc vì câu thơ, hay là tiếng đàn?
Câu thơ
nào? Nhạc nào? Liệu Eurydice, người yêu của chàng nhạc sĩ, mong muốn
trở lại
dương thế, liệu nàng tìm thấy sự ấm cúng, sự tiếp đón ân cần, ở nơi địa
ngục?
*
Và Kafka trả lời: âm nhạc tới
nhất, bài hát đã nhất, là thứ âm nhạc, bài ca của những kẻ trầm luân,
hát ở đáy
địa ngục.
*
Mới đây, đọc Errata của G.
Steiner, tôi có cảm giác đã sống đoạn văn trên, một ngày nào, ở trong
trại cải
tạo. Và cái bản nhạc đã nhất, tới nhất, là bản “Ngày mai đi nhận xác
chồng” của
Phạm Duy.
Ta La Tai
Tanvien
vs talawas?
V/v
Thiên Sứ và Peter Pan:
Đứa trẻ không bao giờ trưởng thành.
Lost Heroes
Phil Baker đọc Piers
Dudgeon:
Captived: J.M. Barrie, the Du Mauriers and the dark side of Neverland
[TLS 28.11. 2008]
Cũng
khó mà coi là một phát
giác mới mẻ, điều sau đây: Những nhà văn viết truyện nhi
đồng thường còn là những cây viết biếm văn rất độc: Duyên Anh vs Thương
Sinh,
Lê Tất Điều vs Kiều Phong, Gấu của BHD vs Tên Sa Đích Văn Nghệ…
Danh sách còn dài dài.
Và tất
nhiên: Thiên Sứ vs Sến
Cô Nương!
*
Tuy nhiên, khủng khiếp nhất, là J.M. Barrie với nhân vật Peter Pan.
Kỷ niệm
vui nhất trong đời viết văn
Cái
sự lầm lẫn cõi văn Sến
Cô Nương, của Gấu, tưởng nữ bồ tát hóa ra đại ma đầu, y chang của cô
gái con
một nhà xuất bản trong cuốn Eva của J.H. Chase. Đây là câu
chuyện một
anh nhà văn hạng B, hạng C suốt đời mơ tưởng sẽ có ngày mình sẽ nổi
tiếng, tuy
có vài tác phẩm vẫn nằm trong dạng bản thảo, nhưng mình biết mình, thứ
này nếu
có trình Sến Cô Nương, chủ sạp cá chợ Bơ Linh, nếu không bị cô chửi như
tát
nước vô mặt như chửi anh già NDT, thì cũng bị vứt vô thùng rác lịch sử
văn học,
cho tới một ngày đẹp trời, được một ông bạn quí vời tới, nhờ giữ dùm
tác phẩm
ruột của ông, trước khi ông từ trần, hay biệt tích giang hồ, đại khái
thế, Gấu
không còn nhớ rõ.
Mang về nhà, giở ra đọc một phát, đang nằm phải nhỏm dậy, tắm rửa sạch
sẽ, diện
đồ lớn, thắt cà vạt, y chang anh chủ bút tờ báo Niên Xô trước bản thảo Một
ngày trong đời Ivan của Solz.
Thế là bèn nhận làm của mình, bèn trịnh trọng đem đến cho nhà xb của
ông via cô
gái nói trên, và cô là người đầu tiên đọc bản thảo. Đọc một cái là rụng
rời
chân tay, “đây rồi, chàng đây rồi, đúng là chàng rồi."
TaLa Tai
*
Gấu đã từng có một nữ độc giả y chang cô con gái nhà xb trên, ngay
những ngày đầu mới ra hải ngoại. Một cô bé đi du học, Bắc Kít, chắc
vậy, qua giọng nói, mà bây giờ Gấu chỉ còn nhớ mài mại. Gấu thật có lỗi
với cô bé sinh viên này, và chưa bao giờ có dịp để tạ lỗi.
Nay cũng sắp đi rồi, viết ra ở đây, kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn
của Gấu, chỉ mong cô bé đọc được, và hiểu cho Gấu, tại sao đã tạ từ
cuộc tình tưởng tượng, [chưa chắc, đừng tưởng bở], đúng ra, tạ từ cuộc
trò chuyện.
Đó là thời gian Gấu
tính từ bỏ
văn chương, chuyển sang làm một tay bán bảo hiểm nhân thọ, và trên
đường hành
hiệp trong cõi giang hồ Toronto, trong túi chỉ bỏ theo một tác phẩm của
Faulkner, đọc, những lúc đói khách.
Nhưng, để bán bảo
hiểm, thì cũng
phải kiếm khách chứ, phải làm sao cho khách biết đến mình chứ?
Cái nghề bán bảo hiểm
này, lần thứ
nhất trong đời, Gấu được biết tới, là qua lá thư của một nữ văn sĩ, rất
nổi tiếng
của Sài Gòn trước 1975, gửi cho Gấu, khi Gấu vừa đến trại tị nạn Thái
Lan. Bà lấy
chồng Mẽo, đi thật sớm, và khi ra hải ngoại, có thời gian tham gia một
tờ báo của
một lực lượng kháng chiến, một thứ chủ bút, chắc thế, có tên trên măng
xét tờ báo.
*
Gấu gặp lại cô bạn
ngày nào
[cô bạn của Cõi Khác], tại xứ
lạnh, nhờ vậy mà làm được mấy bài thơ. Trước Gấu
cứ nghĩ, mình chẳng bao giờ làm được thơ, và khi làm được mấy bài thơ,
thú
quá, và cứ tưởng tượng ra bộ mặt ngạc nhiên của ông anh, khi ông nghe
Gấu huênh
hoang tuyên bố, sẽ viết về thơ của ông, cho số Văn đặc biệt dành cho
ông.
Mấy bài thơ, sau được
in
trong tập Lần Cuối Sài Gòn.
Khi đó, không có địa chỉ của ông anh, phải nhờ một
người quen vẫn thường liên lạc với ông chuyển giùm.
Qua cô bạn, và có
thể, vì cô
bạn, nhưng đúng ra, vì quá chán văn chương, Gấu bèn học, thi, lấy cái
bằng bán
bảo hiểm nhân thọ, và phải mặc còm lê, thắt cà vạt, chụp cái hình, đi
vài đường
quảng cáo trên báo địa phương, kèm địa chỉ, số điện thoại, và, để kiếm
khách, đăng kèm bài viết [tưởng
đã thoát, không phải viết nữa]
Cô bé sinh viên Bắc
Kít đọc Gấu,
từ những tờ báo đó, và cũng có số điện thoại của Gấu, là do vậy. Thời
gian đó,
Gấu chưa viết cho báo Cali.
|
|