Diary
|
Phố
cũ, thu xưa, [2006]
Mác
đội mồ sống dậy, và lý do tại sao
Prix Goncourt 2008
Atiq Rahimi: "Ecrire
dans une autre langue est un plaisir"
Viết bằng một ngôn ngữ khác là một niềm vui
Ông mê Tây, mê Đầm từ thuở nào?
Vào năm 14 tuổi tôi khám phá
ra Những người khốn khổ, của Hugo, qua bản dịch tiếng Ba Tư. Tại Trung
tâm văn hóa Tây, tôi khám
phá ra Đợt Sóng Mới, Jean-Luc
Godard, Hisroshima tình tôi,
và những cuốn phim của
Claude Sautet mà tôi thật mê ý nghĩa nhân bản ở trong đó.
Ở xứ Afghanistan CS đó mà
cũng
có thể tiếp cận văn hóa Tây sao?
Đúng như vậy, mặc dù khủng bố,
mặc dù kiểm duyệt. Ở chuyên khoa đại học, tôi trình bầy một đề tài về
Camus, và
được Thành Đoàn hỏi thăm sức khoẻ, “Cấm không được nói về đám trí thức
trưởng
giả”.
Viết văn bằng tiếng
Tây,về nỗi
đau và sự bất bình, nổi loạn, muốn “làm giặc” của một đàn bà ngồi bên
cái thân
hình mê man bất động của người chồng, một câu chuyện xẩy ra ở Afghanistan hay
một nơi chốn nào đó…
-Có thể là do đề tài của cuốn
truyện. Tiếng mẹ đẻ là thứ tiếng người ta học sự cấm đoán, điều cấm kỵ.
Để nói
về một thể xác người nữ, chắc chắn là phải sử dụng thứ ngôn ngữ thứ
nhì, ngôn
ngữ của sự thừa nhận. Viết bằng tiếng Pháp cho phép tôi thực sự xâm
nhập vào bên
trong những nhân vật, và nói về thân xác. Viết bằng một ngôn ngữ khác
thì là một
niềm vui thích, giống như làm tình.
Interviewer:
Some people say
they can’t understand your writing, after they have read it two or
three times.
What approach would you suggest for them?
Faulkner: Read it four times.
-Một số người nói, đọc ông chẳng
hiểu gì hết, ngay cả khi đọc hai, hoặc ba lần. Ông có lời khuyên nào
cho họ
không?
Faulkner: Nói họ đọc bốn
lần.
The Paris
Review.
Đơn Dương ngây ngô quận
Ta sẽ
kể cho người nghe về miền cố quận, bắt đầu từ ngày ta mới đến với vùng
cao nguyên đất đỏ ấy. Nhưng trước hết, người cứ ngồi xuống bên ta đã.
Dù ta đã sống hối hả thế nào, đến khi tất cả qua đi và được xếp vào 1
ngăn có tên gọi là kí ức thì lúc ta ngoái nhìn lại chúng đều thành một
dòng chảy chậm. Cả ta và người đều không cần vội vã, chúng ta đã vội vã
trong quá nhiều điều rồi. Người biết đấy, ta rất dông dài khi kể về quá
khứ. Lại còn thêm cả bệnh nói chuyện không đầu không đuôi nữa. Nhưng
dẫu sao thì chuyện cũ bao giờ chẳng như một khúc nhạc từ đâu vẳng đến
với ta, cứ miên man không biết khởi đầu từ đâu và kết thúc nơi nào,
người nhỉ?
Ngày đầu ta đặt chân đến nơi ấy, ta không
nghĩ là sẽ ở lại. Chỉ ngỡ rằng đó sẽ là một chuyến đi chơi xa. Nhưng bố
mẹ ta không gặp may mắn trong kinh doanh, đành phải mang ta và các anh
chị em gửi lại cho nhà ngoại. Kể từ đó ta không về lại nơi ta sinh ra
và lớn lên đến năm 6 tuổi nữa, cho đến tận 11 năm sau ta mới về thăm,
nhưng ta sẽ kể cho người nghe vào 1 dịp khác.
Ấn tượng đầu tiên của ta dành cho cố quận
là sao xứ này lạnh quá, và buồn quá. Có khi vì lạnh nên buồn chăng? Bầu
trời cứ xám xịt và có cảm tưởng như rất thấp. Và sương mù nhiều lắm. Và
nhiều hoa. Cũng nơi xứ ấy ta lần đầu thấy những bóng đèn điện. Xưa nhà
ta ở trên kinh tế mới, đâu đâu cũng chỉ thấy những ngọn đèn dầu. Còn ở
quê ngoại thì có đập Đa Nhim nổi tiếng, và nguồn thủy điện ấy cung cấp
cho cả mấy tỉnh lân cận nên dù nghèo thế nào thì vẫn ko thiếu điện. Mà
nói thế thôi, Đơn Dương làm sao nghèo bằng cái nơi mà ta vừa rời khỏi
kia được.
Bài
thầy giảng
The Lessons of the Master
An Nam nhất thốn thổ
Ta La Tai
Do
vi phạm qui định vệ sinh, và do xú uế cú hậu hiện đại, cửa hàng bán cá
tại Chợ Cá "Bơ Linh" tại Đức Quốc của dân Mít đã bị nhà chức trách sở
tại dẹp bỏ.
Nguồn
Liệu, đúng vào lúc
nữ bồ tát bị
tẩu hoả nhập ma biến thành nữ đại ma đầu, thì, cuộc chiến đấu thần
thánh chống Mỹ
cứu nước biến thành xâm lăng, kẻ cứu rỗi biến thành quỉ ma,
thành bọ, thành
ruồi?
Nói
rõ hơn, liệu, tất cả đều do Cái
Ác Bắc Kít mà ra?
Thì vẫn câu chuyện An Nam nhất
thốn thổ, cái tam giác nhỏ bé, là đồng bằng Sông Hồng, “bờ khe hạ”
nhiều hơn ruộng,
ruộng nhiều người cầy quá, cầy đi cầy lại, ngày càng khô cằn, khiến con
người ở
đây ngày càng quắt lại.
Đọc lại, bỗng giật mình, và phát giác ra một điều, đài gương quả là soi
đến dấu bèo: Sến Cô Nương chưa từng khen
một ai, trừ... Gấu!
Cô nương khen Gấu, không công khai mà là khen riêng, trong mail
riêng, những ngày đầu, khi Gấu tự nguyện đầu quân dưới trướng ta là gì.
Lần đó, Gấu viết bài Dịch Là Cướp,
cô nương mừng lắm, cám ơn rối rít,
vì đã kỳ vọng, và ban tặng ta là
gì toàn
những nhiệm vụ cao cả, [thằng ăn trộm, ăn
cắp, ăn cướp, tên
biệt kích văn hóa...], và cô nương hứa, sẽ quyết tâm thực hiện bằng
được những
nhiệm vụ lớn lao này. Và cô nương viết thêm, khi nhận xét về Gấu, nhà
văn: Cũng đã từng đọc, thấy thâm trầm, sâu sắc, nhưng chưa hề thấy tức
cười như bài viết mới này.
Ui chao, mới đó còn mặn nồng, mà nay sao đau thương như thế này ư, Giời
hỡi Giời!
Kể cũng lạ, Gấu có thói quen, giữ mail của "tri âm tri kỷ", vậy
mà không hề giữ, bất cứ một mail nào của một "nửa linh hồn" của mình!
Đúng là... tiên tri!
Lời nào em không nói em
ơi,
Meo nào không gian dối!
[Nhại Tình Khúc Thứ Nhất]
NQT
Viết tới đây, bỗng
nhớ nhà
văn nhớn Mai Thảo, và một giai thoại liên quan tới ông, do KT kể.
Bạn
ta kể là, một lần cả đám
ngồi hầu rượu MT, bỗng ông quay qua NMG hỏi, này, cái la dô ở nhà anh
còn chạy
tốt không?
NMG
ngớ người ra, MT
bèn gật
gù:
-Mình
hỏi thăm bà xã của cậu
ấy mà. Sao, thế nào, bà C. vẫn nói nhiều như ngày nào, như mọi ngày chứ?
Ui
chao, Gấu này quả là not
fair (1), khi lợi dụng lúc tang gia bối rối, Sến Cô Nương tự bịt
miệng,
để mà
xài xể hết lời!
(1) not
fair: không điệu, [chơi]
không đẹp… Đây là từ của Sến Cô Nương, trách Gấu, cứ một, hai viết, "ta
là
gì của Sến Cô Nương". Anh viết vậy không có fair, ta là gì là của một số
anh em.
Nhưng
Bi Bì Xèo, mới rồi,
trong lời ai điếu, cũng coi ta là
gì là tài sản, "của hồi môn", của Cô Sến, có anh em nào
đâu?
Hay
là bỏ chạy hết cả rồi?
NQT
*
Dịch là
cướp
Theo tôi, dịch là cướp. Nếu
không cướp được thì ăn cắp, như trường hợp một ông trạng đi xứ nhét hột
ngô Tầu
vào bìu khi qua ải Nam Quan, đem về Việt Nam làm giống.
Vào cái thời chủ nghĩa thực
dân đang cực thịnh, chuyện học tiếng Tây tiếng U chỉ là để "tồn tại",
theo nghĩa của câu "bây giờ ông đổi lông ra sắt, cách kiếm ăn đời có
nhọn
không?" Nhìn rộng ra, cả một nền văn chương dịch thuật, hoặc
"bảnh" hơn, viết văn bằng tiếng Tây tiếng U, trước đây, đều qui vào
chuyện "cách kiếm ăn đời có nhọn không". Thời Tây thuộc còn khá, vì
còn có những bậc tiền bối dám mầy mò tới cõi văn Tây. Thời Mỹ thuộc thì
thật
quá tệ. Nhưng đây là do quan thầy chứ không phải do đầy tớ: Người Mẽo
chỉ muốn
có những thằng đầy tớ biết nghe răm rắp lời của chủ: tao là thằng chi
tiền! Tây
thì còn muốn "làm bạn" với một tên cô lô nhần nào sáng sủa một chút.
Ngay cả những bậc tiền bối
viết văn bằng tiếng Tây đúng mẹo văn phạm hơn cả Phú Lãng Sa, dưới mắt
một độc
giả mẫu quốc, những tác phẩm như "Cổ tích về những miền đất thanh
thản" [tạm dịch cái tựa "Légendes des terres sereines"
của nhà văn Phạm Duy Khiêm] cũng chỉ được coi
như là một thứ hương xa cỏ lạ.
Hiện hữu có trước yếu tính.
Tồn tại trước đã, kỳ dư là văn chương (tout le reste est littérature),
như
người Tây nói. Thành thử công đầu lại vẫn ở những bậc tiền bối như
Trương Vĩnh
Ký, hay những thầy thông, vào cái thời chữ Nho mới là chữ của nước. Vả
chăng,
quyền uy của chủ nghĩa thực dân lúc đó ghê gớm quá, dễ gì mà làm một
thằng ăn
cướp!
Phải đợi đến những nhà văn di
dân thời kỳ hậu thuộc địa, người ta mới hiểu được, chuyện viết văn bằng
tiếng
nước ngoài, không phải là mất gốc, mà là ngược lại: nói rõ hơn, muốn
không mất
gốc, là phải viết văn bằng tiếng nước ngoài! Theo nghĩa đó, Kazuo
Ishiguro, nhà
văn gốc Nhật viết văn bằng tiếng Anh, tác giả Tàn Ngày (The remains of
the
day), được coi là "một người Anh hơn cả người Anh", un Anglais plus
british que les autres, theo Sean James Rose, tác giả một bài viết trên
tờ báo
Pháp, Đọc (Lire), số tháng Chín 2001.
Salman Rushdie, một trong
những đứa con của giờ Tý thì cho rằng, muốn giải phóng ra khỏi giấc mơ
(muội)
vong thân trong ngôn ngữ là phải viết văn bằng tiếng Anh. Trong bài
viết
"Quê hương tưởng tượng", ông viết: Chinh phục tiếng Anh có lẽ là hoàn
tất tiến trình giải phóng của chúng ta.
Vả chăng, vẫn theo ông, những
nhà văn Anh gốc Ấn khó mà từ bỏ tiếng Anh. Con cái của họ lại càng khó
hơn nữa,
vì đây là ngôn ngữ thứ nhất của chúng. Phải chấp nhận, đối với tất cả
và chống
với tất cả. Theo từ nguyên học, "dịch", traduire, là từ tiếng La tinh
"traducere", "mener au de-là", dẫn (đi) đằng đó. Bị đá văng
ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn, chúng ta đều là những con người "bị
dịch" (nous sommes des hommes "traduits"). Cho dù ‘dịch là chết
ở trong hồn một tí’, ông vẫn khăng khăng với ý nghĩ, rằng có một chút
chiến lợi
phẩm, mỗi khi đi ăn hàng!
Chuyện cũng chẳng mới mẻ gì.
Cổ đại La tinh đã coi dịch là cướp, giống như mấy trò chém giết (đàn
ông), hãm
hiếp (đàn bà), cướp bóc vàng bạc của cải, đất đai.
Nói ngắn gọn, đây chính là sự
thành lập đế quốc.
Thành thử hủy diệt ngôn ngữ
một đất nước đã bị xâm lăng, là nhiệm vụ hàng đầu của kẻ thắng trận, là
vậy.
Talawas: ta là gì? Ta là
thằng dịch thuật. Và dịch thuật với người Việt ở trong lẫn ở ngoài, là
vấn đề
sinh tử; nếu cần, hãy vờ đi chuyện sáng tác trong một thời gian; đổ
công, đổ
của, đổ sức vào việc dịch.
Nghĩa là cướp. Không cướp
ngày thì cướp đêm. Thành thử những "nhà dịch thuật" chính là những
tên biệt kích văn hóa, vậy.
NQT
[Bài viết cho diễn đàn
talawas, khi mới xuất hiện trên net]
*
Cái tay mới ăn Goncourt năm
nay phán về vụ ông từ bỏ tiếng Persan, để viết văn bằng tiếng Tây,
mà không thú vị sao!
Cũng
vẫn là ăn cắp, ăn cướp,
nhưng biến luôn nhà của người thành nhà của mình, đâu có khốn nạn như
mấy anh
Yankee mũi tẹt biến nhà người đất người thành bãi đánh hàng!
Like
the Coleridge hero who
wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these
objects were
not of the second world, which had brought me so much contentment as a
child,
but of a real world that matched my memories
Orhan Pamuk
Như nhân vật của Coleridge
thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của giấc mộng,
tôi
biết, tất cả những gì ở trong Tứ khúc thì không phải là từ thế giới tưởng tượng
bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là một, với hồi ức của tôi,
những
ngày ở Sài Gòn.
Cái tay chuyên khám đồ thăm
nuôi tại nông trường cải tạo Đỗ Hòa quả đúng là tri âm tri kỷ của Gấu.
Làm sao
mà anh ta lại nhận ra cửa sinh, dành riêng cho Gấu, tại “địa ngục trần
gian”? Không lẽ chỉ đọc một hai cuốn sách dịch mà nhận ra văn tài của
Gấu nhà văn?
Anh ta bảo Gấu, anh phải làm
sao phát huy tối đa cái nghề bồi bút viết dưới ánh sáng của Đảng, để mà
làm sao
cho tờ báo tường của Đội Ba luôn luôn chiếm giải mỗi lần ra số đặc biệt
chào mừng
những ngày hội lớn của Đảng. Đây là nhiệm vụ lớn không phải Đảng, mà
Thượng Đế trao cho anh, để mà sống sót, để mà còn có ngày trở về với vợ
con, với gia đình.
Giá mà anh ta đang đọc Gấu, có lẽ sẽ nói thêm, để mà làm trang net Tin
Văn!
Khi đã từ giã thiên
đường Đỗ
Hoà, trở về trần, có một lần tình cờ Gấu gặp lại một anh bạn, cũng đã
từng ở đó,
và là người kế vị Gấu, tiếp quản tờ báo tường của Đội Ba. Anh cho biết,
anh đã
từng loay hoay, hì hục sáng tác những bài
mừng Đảng, và thú thực, không thể nào bắt chước văn của Gấu, và vì
những bài viết
dở quá, báo mất hạng, tay Trùm Đội Ba, là Lưu Manh Sơn [tên thực Lưu
Minh Sơn]
ra lệnh, hãy cọp dê những bài viết của Gấu nhà văn, cho vô kho lưu trữ,
viện bảo
tàng của Đội Ba, và sau đó, mang ra xài dần, mỗi khi có dịp lễ lớn của
Đảng, của
Nhà Nước, của dân tộc Mít!
Đây là chuyện thực,
tuy viết
bằng một giọng cường điệu, nhưng không đanh đá, khốn nạn như giọng văn
của Sến
Cô Nương, và được viết dưới ánh sáng của chân lý "Dzui thôi mà", của
bạn hiền Đặng Tiến!
Gấu và tay kế vì Gấu
có rất
nhiều kỷ niệm thật là tuyệt vời, những ngày ở Thiên Đàng.
Thì đã
nói, viết hoài còn hoài
mà!
Trong số những trại
viên của Đồ
Hoà, có một tay, chắc cũng khá rành về Gấu, nhưng cho dù sau này có
liên lạc đôi
lần qua thư từ, Gấu vẫn chẳng nhận ra, đã quen anh trong dịp nào, ở nơi
gọi là địa
ngục cũng được, mà gọi là thiên đàng thì lại càng được. Thời gian Gấu ở
trại cấm,
đói ơi là đói, thì nhận được thư của anh, kèm tí tiền. Anh biết Gấu ở
trại cấm
qua một ký giả cũng đã từng ở trại, và đã đậu thanh lọc trước Gấu, và
đã đi định
cư tại Úc. Sau đó, anh gửi hình vợ con, và cho biết, hiện đang làm việc
cho sở
Bưu Điện Úc.
|
|