Diary
|
Mahmoud Darwish,
tiếng nói của Palestine,
đã mất ngày 9 Tháng
Tám, thọ 67 tuổi
Người
Kinh Tế 23
August, 2008
POETRY exercises a special
power for Arabs. To a people of desert origins, it takes the partial
place of
icons and cathedrals, stage drama and political oratory. Yet the Arab
canon
extends far wider, linking the tribal bards of pre-Islamic Arabia
to Sufi mystics, bawdy medieval jesters and angst-ridden modernists.
Poetry
also carries a special meaning for exiles, who must sustain themselves
with
what they can carry, their lightest but most precious burdens being
memory and
language.
Exile was certainly personal
to Mahmoud Darwish. His first forced flight came in 1948, when he was
seven.
Fearing the advance of Israeli forces, his family abandoned their
ancestral
wheat fields in Western Galilee and walked, destitute, to the apple
orchards of Lebanon.
Sneaking back across the border later, they found their village razed
to make
way for Jewish settlement. His father became a laborer; his family,
having
missed a census, were classed as "present-absent aliens".
But exile was also an
experience that Mr Darwish shared with his entire people, the
Palestinians.
Sixty years after the creation of Israel, more than half of
them
remain in physical exile from their homeeland, while the rest,
partitioned into
enclaves under various forms of Israeli control, remain exiled from
each other
and from the wider Arab world. Mr Darwish was their voice and their
consciousness.
It was a role that often
bothered him. Rightly, he felt it belittled his devotion to the poetic
craft
and made him over-solemn. He sometimes berated his huge audiences when
they
clamored for nationalist odes rather than the subtler, metaphysical
verse of
his later years. He fretted that some would recall only lines such as
"Go!
You will not be buried among us," and forget those praising a Jewish
lover
or commiserating with an enemy soldier. Yet it was inescapable that he
should
be lauded as Palestine's
poet laureate, and not merely because his words were made into popular
songs
and splashed as headlines to sell newspapers. His own life was entwined
with
the tragic Palestinian national narrative. When he was barely in his
teens, the
village schoolmaster tasked him with writing a speech to mark Israel's
independence
day. He wrote it as a letter to a Jewish boy, explaining that he could
not be
happy on this day until he was given the same things that the Jewish
boy
enjoyed. This earned him a summons before the Israeli military
governor, who
warned him that such behavior could get his father's pass revoked,
making him
unable to work.
A few years later
Mr. Darwish
took the bus to a poetry festival in Nazareth,
the largest Arab town in Israel.
He read one long poem, and was asked to recite more. All he had was a
crumpled
paper on which he had jotted some rough verse inspired by a visit to
the
Israeli police, to renew his travel pass. The poem included these lines:
Write down!
I am an Arab
You have stolen
the orchards of my
ancestors
And the land which I
cultivated
Along with my children
And you left nothing for
us
Except for these rocks
...
The result was electric. The crowd demanded
three
encores, and Mr Darwish's fame was born. By the mid-1980s, his 20
volumes of
verse had sold well over a million copies.
For all that time he had no country of his own. Though
a citizen of Israel,
he was too often jailed there for his activism, and eventually had his
citizenship revoked. He tried living in Moscow,
then Cairo, then Beirut, where Yasser Arafat's
Palestine
Liberation Organization had been allowed to build a proto-state in
exile. When Israel
invaded in 1982, Mr Darwish sailed for Tunis
and later lived in Paris.
Not until 1996, after the Oslo peace
agreement made it possible, did he return to Palestine.
But Palestine
was a shambles. Arafat's dictatorial style repulsed him; the drift
towards the
second intifada of 2000, and the vicious schisms that followed, reduced
him to
despair. Much of his later verse avoided overtly political themes.
After a
heart attack in 1998, he wrote:
One day I shall become what I want.
One day I shall become a thought,
Which no sword will carry
To the wasteland, nor no book;
as if it
were rain falling on a mountain
split by a burgeoning
blade of grass,
where neither has power
won
nor fugitive justice.
One day I shall become a
bird,
And wrest my being from
my non-being.
The longer my wings will
burn,
The closer I am to the
truth,
Risen from the
ashes.
Yet he could never fully escape the duty to
help his
people sustain their sense of destiny. In his last poem, Mr Darwish
described
Palestinians and Israelis as two men trapped in a hole:
He said: Will you bargain with me now?
I said: For what would you bargain
In this grave?
He said: Over my share and your share of
this common
grave
I said: Of what use is that?
Time has passed us by,
Our fate is an exception to the rule
Here lie a killer
and the killed, asleep in
one hole
And it remains for another poet to write the end of
the script. •
Gấu
có nhớ nhà không?
Le Magazine Littéraire, Juin, 2008,
đặc biệt về những nữ tiểu thuyết gia Anh, từ Jane Austen tới Zadie
Smith. Có một bài luận văn chưa từng được in [inédit] của Emily Bronte: Lâu Đài của Thần Chết, viết bằng
tiếng Tây, khi 'em' du học Pháp, tại Bruxelles.
Tờ Văn Học Pháp đổi mới, bỏ
một số mục, kể cả mục do Linda Lê chủ trì, Trở về với những nhà văn cổ điển,
tuy cả hai, Tran Minh Huy và Linda Lê vẫn viết thường trực trong mục
tiểu luận, phê bình.
Dương Thu Hương
Những Tác phẩm: Bên kia
bờ ảo vọng, Những Thiên Đường Mù, Tiểu thuyết
vô đề, Chốn Vắng.
Phan Huy Đường dịch, Nhà xuất bản Robert Laffont, 1056 trang. 36E.
Năm
2006, đại chúng biết đến Dương Thu Hương khi bà cho xuất bản Chốn
Vắng (Giải Thưởng của nữ độc giả báo Elle, năm 2007), một quyển tiểu
thuyết bậc thầy nói
về cuộc đấu tranh của cá nhân chống lại chế độ toàn trị. Đây không
phải là
cuốn sách đầu tiên của bà, chúng ta biết điều này khi nhà xuất bản
Robert
Laffont cho xuất bản tuyển tập đầu tiên những tác phẩm của bà, và ngoài
Chốn Vắng
ra, còn ba quyển tiểu thuyết “hải đăng”, thứ tiểu thuyết dẫn lối chỉ
đường khác.
Trong
các câu chuyện kể này, công khai nói về chính trị, và đây là tầm
vóc của chúng, những yếu tố chủ chốt, mang tính xây dựng đều có mặt, và
ở đúng
vị trí ở trong một cuốn sách bậc thầy, bắt đầu bằng một
vài hình ảnh: người lính ma với nhân vật kể chuyện trong Tiểu Thuyết Không Đề, hay
người phụ nữ bị xâu xé bởi hai người đàn ông trong Bên kia bờ Ảo vọng. Hoặc
liên minh giữa đạo Khổng xưa cũ với kỷ luật Đảng Cộng Sản Việt Nam để
chà đạp
tự do cá nhân. Trong lời nói đầu tuyệt vời của Antoine Andouard, ông
nhắc tới điều,
tất cả các nhân vật của Dương Thu Hương đều có chung một số phận: “Họ
bị chiến
tranh và lịch sử nghiền nát.”. Cho nghĩa cả. Sự nghiệp văn chương của
nữ
sĩ này
luôn luôn đứng sau cuộc đấu tranh chính trị, đến mức bà thường coi
mình, chỉ là
một “văn sĩ nghiệp dư”, một “tài tử”. Nữ anh hùng thời chiến, cựu đảng
viên
Cộng Sản, từ lâu người phụ nữ này đã trả giá tự do của mình để đấu
tranh cho dân chủ và cho quyền làm người. Tác
phẩm của bà đẫm mình ở trong cuộc chiến đấu đó, và đây là điều Antoine
Andouard vinh
danh bà, thật nhiều, trong phần giới thiệu. Nhưng ông nói thêm: “Người
ta có
thể đọc các tác phẩm, mà chẳng cần biết đến đời tư của bà, và kinh
nghiệm này, thì
thật khó quên.” Tam Van Thi
Chuyện
cái hồ nước hiện ra chỉ sau một đêm,
và những chuyện cổ tích Việt Nam khác.
do Minh Huy Tran trình bầy, và kể
Hài nhẹ khôn kham
Bóng ma chiến tranh
tại Việt Nam
Điểm Sách London
14 August 2008
Đế
Quốc Đỏ phản công [Time]
Sự trả thù của Nga [Người
Quan Sát Mới]
Nga trỗi dậy [Người Kinh Tế]
Đảng ta không biết vui hay
buồn!
Dọn
Theo
Gấu đoán, sau khi gieo
quẻ mu rùa, cái sự đang từ ‘lưu vong chuyển sang di cư’ của NMG, là do
nỗi buồn
lớn trong đời viết văn của ông. Và Gấu từ đó, suy rộng thêm ra, mấy anh
chạy về
xin đầu thú đều có một cái “lấn cấn ở trong lương tâm”, ‘chết trong tâm
hồn’.
Anh NBC, trùm bồi Mẽo tại WJC, nhờ gia đình có tiền, chạy du học, thoát
chết,
những vẫn tiếc hùi hụi số tiền bỏ ra, từ đó thù mấy thằng khốn nạn
VNCH. Tay đại uý QC, chạy trốn chiến
tranh bằng cách đẩy thằng
khác vô thế chỗ mình, mấy thằng đào ngũ, trốn trình diện, cũng lại một
nỗi “chết
trong tâm hồn” khác…
Thú thực Gấu chưa từng thấy một
anh nào ra hồn mà về với VC!
Cũng chưa từng có một bài viết,
bản văn nào biện minh đứng đắn cho cái sự về
châm đóm cho VC hút thuốc lào!
Thảm thế.
Gấu này đã từng về "bắt tay với
VC", và bây giờ vẫn muốn về, nhưng được cảnh cáo, thời tiết không đẹp
như ngày
anh về nữa đâu, về là chết anh, chết luôn tụi này, thành thử rét.
Nói rõ hơn, Gấu thù chủ nghĩa
CS, chưa từng thù một ông VC nào, trừ đám nằm vùng, không thù, nhưng
tởm.
Gấu tởm chúng một, chúng tởm Gấu muời. Hẳn thế!
*
Khi VC gọi Miền Nam trước
1975 phồn vinh giả tạo, hẳn không ngờ, họ tiên tri ra được số phận cả
nước, vào
những ngày như hiện nay.
Nhưng, huy hoàng, mặt nổi
của Sài Gòn làm Gấu nhớ những ngày 1954, khi mới tới thành phố, ở trong
con hẻm
lầy lội Đội Có, Phú Nhuận. Những con hẻm như thế, theo với đà chiến
tranh, với
quân đội Đồng Minh đổ vào Miền Nam, cứ ngày một đẹp đẽ thêm lên, nào
tráng xi măng, nào mở rãnh,
nào thay mái lá bằng mái tôn, nhưng con trai trong xóm cứ mất dần: Họ
đi lính, họ
tử trận. Cái sự giầu sang của đất nước bây giờ so với hồi đó, thì đúng
như Bác
Hồ nói, bằng 10 lần ngày trước, nhưng khủng khiếp thay, phần đạo đức,
phần luơng
tâm, không bằng 1/10.
Thời gian những người như NMG
bỏ nước ra đi, đất nước cũng khốn nạn, nhưng đâu có bằng lúc ông trở
về. Liệu ông có nhận ra điều này?
Ai cũng trở về, trừ một số rất
ít, nhất định không về. Tuy về, họ đâu có sung sướng gì, nhưng thái độ
đổi trắng
thay đen, liều chết vượt biển, chọn lưu vong và tự do, bây giờ biến
thành "di cư",
thì thê thảm quá.
Viết như thế, thì thú thực,
không thể nào hiểu được. NQT
1958. Học xong Trung học tôi
thi vô Trường Quốc Gia Bưu Điện vừa mới được thành lập sau một năm lân
la làm
quen cái không khí đầy nao nức của tương lai như đang giục giã ở ngay
đầu ngã
tư của cuộc đời, ở đại giảng đường Đại Học Khoa Học. Bạn thử tưởng
tượng một
học sinh nghèo, sống chui rúc ở cuối con hẻm Đội Có, Phú Nhuận, nơi đám
người
nghèo khổ bám quanh thành phố, khi chiến tranh chưa dồn dập đem những
tiện nghi
đến tận giường ngủ, xó bếp, rồi lấy đi một số người thân, quanh năm chỉ
biết
xài đèn dầu, uống nước giếng. Đám thanh niên, ngoài những lúc tự an ủi
lẫn nhau
bằng những mối tình tưởng tượng, bằng những tiếng hát nhái theo giọng
Út Trà Ôn,
Trần Văn Trạch quanh cây đàn ghi ta bên cạnh giếng nước, vào những lúc
con xóm
sau một ngày mệt lả, mặc tình cho bóng đêm và muỗi đói hành hạ; buổi
sáng chỉ
còn cách kéo nhau ra mấy dẫy nhà lụp xụp, mặc tình ngắm nghía mấy cô
gái họ vẫn
thường trầm trồ, mỗi lần thoáng thấy bóng. Các cô lúc này xắn quần cao,
thoăn
thoắt giữa đám rau muống xanh um phủ kín mấy vũng nước đen ngòm, nguồn
lợi thứ
nhì sau mấy ao cá, một nơi chốn hẹn hò khác nữa của các cô cậu choai
choai, và
của đám con nít; bỗng một ngày đẹp trời, thấy như Alice lạc vào xứ thần
tiên,
lạc vào trường Đại Học Khoa Học.
Phở hồi đó ba đồng một tô.
Tiền ông Diệm, như sau này người dân Sài-gòn vẫn thường xuýt xoa, tiếc
nhớ một
hoàng kim thời đại khi chưa nếm mùi Giải Phóng, và tệ hơn, mùi Cộng
Sản, thảm
hơn nữa, Cộng Sản Bắc Việt.
Lần Cuối Sài Gòn
Nhật
báo Người Việt
Buổi ra mắt sách
“Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết”
của THẢO TRƯỜNG
THƯ MỜI
Kính mời quý vị tham dự buổi ra mắt cuốn sách
“Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết” của nhà văn Thảo Trường.
Thời gian: Từ 1:00 pm đến 4:00 pm ngày Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2008.
Địa điểm: Phòng sinh hoạt Lê Đình Điểu nhật báo Người Việt,
14771 Moran Street, Westminster,
CA 92683.
Thảo Trường là nhà văn nổi tiếng của miền Nam, đã trải qua gần 17 năm
tù sau 1975 trong chế độ cộng sản. Từ khi sang định cư Hoa Kỳ năm 1993,
ông đã tiếp tục viết nhiều tác phẩm. “Những Miểng
Vụn Của Tiểu Thuyết” do Người Việt xuất bản là một Tuyển Tập gồm những
tác phẩm quan trọng nhất của ông.
Ban Tổ Chức kính mời
Miểng
Thảo Trường @ NDT's,
Cali, Tiểu Sài Gòn,
Tháng
Ba, 2008.
"Từ
lúc tôi bị té, cái
đầu lạ làm sao, sáng hẳn ra, đầy ắp những điều chỉ chờ dịp nhập vào
trang
viết..."
Nỗi
buồn Istanbul
|
|