Diary
|
For U Only
NNT
vs Hiện Sinh
Off-course
HIRSH SA WHNEY
Nam Le THE BOAT 288pp. Canon
gate. £12. 9781847671608
"Ethnic literature's
hot. And important too", remarks a character in The Boat. Nam Le, an
Australian who was born in Vietnam
and studied writing in the US,
moves beyond the confines of that kind of cultural stereotyping. His
first
short story collection takes readers to a variety of places, including Tehran, Japan
in the Second World War and Manhattan's
Carnegie Hall, some of which he has never visited.
Ron, the protagonist of a
story called "Cartagena", lives in Medellin, Colombia,
a city ravaged by drug lords and guerrillas. An adolescent assassin
armed with
Glocks and grenades, he is in hiding because he has failed to carry out
his
most recent job - the murder of Hernando, a former partner in crime who
has
gone to work with "gringo-led programs" that "are known to
combat violence and drugs and poverty". It is a gripping, intricately
woven piece of crime fiction, and Le's attempt to imagine the boy's
world only
falls short when it comes to politics. The division between the
do-gooder
gringos and the Colombian drug lords lacks complexity. Another story,
"Tehran Calling", is hindered by its tendency to simplify. Sarah, a
corporate lawyer from Oregon, visits
her
friend, Parvin, a women's rights activist in Iran.
Seen from the vantage point
of Sarah, a typical American, the arguments
between mulllahs, secularists and those in between seem formulaic. The
story is
redeemed, however, by its depiction of the women's friendship.
Psychological insight is a
hallmark of Le' s work, but he also has a facility for a kind of dark
humour.
In "Meeting Elise", the narrator Henry Luff, a neurotic, ageing New York
artist, is
about to meet up with his estranged daughter, but first he must see his
gastroenterologist. His day doesn't go quite as planned: he is told he
has
cancer, and his daughter refuses to see him. Luffs life, like the lives
of many
here, is blighted by disease and death and dislocated love. But it is
not
morose plot twists that give this book cohesion. The Boat is most
compelling
when a mother's enduring battle with MS, or the human effects of racial
violence, are part of the background, while teenage romance and
betrayal
deliver the drama.
Le uses carefully imagined
details to conjure up distant worlds and individuals, most poignantly
in the
collection's title story. Mai, a young Vietnamese teenager, has been
sent away
from her war torn home to seek a new life abroad. For days she hides in
rat-infested boats, where she wakes "to the sound of wood tapping
hollowly
against wood". She makes it to the open ocean on a broken-down vessel,
but
a storm pushes the boat off course, and as supplies diminish, the dead
passengers are eaten by sharks. The voyage ends on a note of hope
conveyed with
the severity that marks this collection. Stories like this demonstrate
Nam Le's
ability to use sensory experiences to evoke the most distant situations
and
show that he has a considerable talent.
TLS 10.Oct.2008 đọc "Thuyền Viễn Xứ" của
Nam Lê. Khen
From The Times Literary
Supplement
October 22, 2008
Irène Némirovsky in the woods
One of the final works of a
lacemaker among savages – an heir to Chekhov who died in Auschwitz
Ruth Scurr
Oh Life! accept me – make me
worthy – teach me.
I write that. I look up. The
leaves move in the garden, the sky is pale, and I catch myself weeping.
It is
hard – it is hard to make a good death . . . .
To live – to live – that is
all. And to leave life on this earth as Tchehov left it and Tolstoi.
Thư tín TLS.
Trên số 26 Sept, Roy Foster điểm
cuốn tiểu sử mới ra lò của Roger Casement, của Séamas Ó Síochánin: Roger Casement vs British Empire. Số
17, Oct, có
hai thư độc giả, soi sáng thêm về trường hợp phản quốc
của Casement, và về “Nhật Ký Đen”,
tức cuộc đời thứ nhì của Casement: ông là một
người thích ngủ với thiếu niên. Nhật
Ký Đen liệu có phải là do Nhà nước Anh bịa ra, để bôi nhọ ông?
Tin Văn sẽ post hai bức thư,
kèm bài điểm sách, để độc giả tiện đường theo dõi.
*
Casement's story is told
beautifully in W.G. Sebald's wacky masterpiece, The Rings of Saturn.
Well worth
digging out. Jonathan,Cambridge [Độc giả TLS]. Gấu biết đến
Casement khi giới thiệu Trái Tim Của Bóng Đen. Nhưng chỉ
đến khi đọc Sebald mới lại nhớ ra ông. Trong một bài essay, Sebald kể,
ông vừa
lái xe vừa nghe một chương trình BBC về Casement, và ông bắt đầu tìm
đọc.
Mọi
bình luận về lời trường
thiên độc thoại trong bầu không khí siêu thực ấy lại càng thừa. Có
cần
thêm, là
một thông tin : ngay chiều hôm đó, Ngô Đình Nhu thông báo cho Mĩ về
cuộc gặp
Maneli. Cũng như ông là người tung ra tin đồn, hôm nay là “ thương
lượng bí mật
với Bắc Việt ”, mai là “ điều quan trọng là tách Việt cộng khỏi ảnh
hưởng Bắc
Việt ”. Bộ trưởng Phủ tổng
thống Nguyễn Đình Thuần thố lộ với sứ quán
Mĩ là Nhu
hút thuốc phiện. Sau này, tướng Trần Văn Đôn phủ nhận. Không
biết ai
đúng, chỉ
biết chắc là ông Nhu say sưa với những chiến thắng tưởng tượng vừa bày
ra những
mưu ma chước quỷ để hù mấy ông tướng đang rục rịch đảo chính và làm
săng ta với
Mĩ bằng câu chuyện “ đi đêm ” với Hà Nội. Đi đêm thì có ngày gặp
ma. Không
đi đêm mà mộng du thì có ngày thành ma. Đó là ngày 2.11.1963. Sau
đó ít
hôm, Cabot Lodge nói với nhà báo David Halberstam : “ Nếu hai anh em
nhà ấy còn
sống, thì ta sẽ kẹt chứ ? Bất cứ thằng cha căng chú kiết phản động nào
trên thế
giới cũng sẽ mang ra xài để phá ta ” (16).
Nguồn
Đây là thứ văn mà Brodsky gọi
là văn bửn, bad style:... "Cái
ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị,
luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the other hand,
‘especillay
political evil, is always a bad stylist”. On Grief… trang 49].” (1)
Thằng cha này,
học cùng promo với Gấu, cũng dân CVA, cũng Bắc Kỳ
di cư như Gấu, nếu đúng như vậy, thì anh ta được đi du học là nhờ chính
sách gìn
giữ người có học, có tài không để chết uổng trong cuộc chiến, của Miền
Nam, vào
thời kỳ đó, còn ông Diệm, và như thế, một cách nào đó, anh ta thoát
cuộc chiến là nhờ ông Diệm.
Cái chuyện anh
ta tin tưởng Miền Bắc, và làm cớm nằm vùng, là chuyện
của anh ta, và anh ta phải đối diện với lương tâm của anh ta, như PXA
thí dụ, đến
lúc hấp hối đi không nổi, nhưng ông Diệm ông Nhu đều đã chết rồi, và
đều do Mỹ
và đệ tử, người hầu của chính hai ông ăn tiền của Mỹ mà giết chủ; cho
dù
tội lỗi của
họ như thế nào thì để lịch sử xét đoán. Vậy mà bao nhiêu năm rồi vẫn
còn hằn học như
trên?
Cái chuyện "đi đêm"
với Hà
Nội,
nếu có thật, và, giả như chỉ để làm “săng ta” với Mẽo, thì có gì là xấu
xa?
Thật thì quá
mừng, giả cũng
vẫn mừng, bởi vì ngay cả chuyện phịa ra như thế, thì trong lòng cũng đã
từng
nghĩ như
thế, cũng quá tốt, đâu có tà ma quỉ mị như tâm địa của mi?
(1) “Trong diễn từ Nobel,
Brodsky
vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo] mà cuộc sống đạo đức của dân chúng
sẽ được
xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo
nghĩa,
con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và
nếu như
vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. [Good art is thus on the
side of
the good]. Cái ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính
trị,
luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the other hand,
‘especillay
political evil, is always a bad stylist”. On Grief… trang 49].”
Coetzee viết về
Brodsky trong Stranger Shores
*
Đi đêm thì có ngày gặp
ma. Không
đi đêm mà mộng du thì có ngày thành ma. Đó là ngày 2.11.1963.
Gấu này thực sự tin rằng, PXA đã gặp ma, rất nhiều
ma, trong những giờ phút cuối cùng của ông. Và khi trong nước xì cái
chuyện đó ra, là để "cảnh tỉnh" [làm "săng ta"] những thằng VC nằm
vùng: Coi chừng cái miệng, không là tao cũng cho mày gặp ma luôn! NQT
*
Làm sao
chúng tôi có thể
đọc được Quần đảo GULAK trước khi nó được
viết ra ?
Nguồn
Tay này [nhà thơ LX] ít ra cũng còn thành thật hơn đám VC nằm vùng.
Hiển nhiên, chúng đều biết, cái chế độ mà chúng huỷ diệt tốt đẹp hơn
nhiều so với chế độ hiện tại. Do đó, chúng không thể nào vịn vào lý do
nhìn thấy đất nước bị ngoại bang dầy xéo cho nên đi theo VC được. Ngay
cả bây giờ, có người chứng minh, ngoại bang dầy xéo là do VC nhử vô,
thì chúng cũng cũng đếch cần biết đến chuyện đó.
Shoot at the altar
KT thú tội
trước bàn thờ chưa
ghê bằng Dos: Bắn vào bàn thờ!
Bởi vì
bạn không thể nào đọc Anh em nhà Karamozov mà không bị
“tẩm độc”
bởi câu hỏi, liệu “thằng khốn kiếp” "Lão Tặc Thiên" đó có thực. Nếu có,
thì chỉ nội
nghĩ đến sự
đau khổ của một đứa con nít, cũng không thể được!
Những
cái nhìn của Dos về tôn
giáo thì cũng rối mù như văn của ông, và chẳng thể nào mà gỡ ra cho
được. Với
Tolstoy, chẳng nghi ngờ, người đọc có thể nhìn ra quan điểm của ông về
tôn giáo
trong những thời kỳ khác nhau của đời ông, nhưng với Dos, vô phương.
Heny
Miller đọc Dos và coi ông là một nhà cách mạng xã hội vĩ đại, trong khi
có những
người khác lại coi Dos là một nhà bảo thủ khó chết [diehard]. Người
khác coi ông
là kẻ “về thứ nhì” trong ý niệm thần học về “Cái chết của Thượng đế”,
[Người về
nhất là Nietzsche, chắc hẳn]. Người khác, Dos là một thí dụ về Chính
thống Nga,
người khác nữa, một kẻ “hậu-vô thần” trong Nga xô đương thời.
Rowan
Williams, qua cuốn sách
mới nhất “Dos: ngôn ngữ, niềm tin và tôn giáo”, [A.N. Wilson đọc, trên
TLS 10
tháng 10, 2008], đưa ra một cái nhìn “quái trạng nhất” về nhân vật
Thằng Khờ của
Dos. Thay vì coi Ông Khờ “xém một chút” thì bằng Chúa, thì ông coi đây
là là một
sức mạnh của huỷ diệt, một sự yếu đuối chết người [his “lethal
weakness”: “the
person who is presented as innocent and passionate, in Christ-like is
in fact
unwittingly a force of destruction”]
A
report on the Publishers
Weekly website last Friday morning suggested that, on learning of the
award of
the Nobel Prize for Literature to J. M. G. Le Clezio, "even the most
literate of Americans must have said, qui?". Michael Coffey's comment
sounds dispiriting, but it is untrue. We have the evidence. Indeed, we
are the
evidence. Many of the most literate of Americans have received informed
comment
on the novels of Le Clezio from the TIS, since publication of his
debut, Le Proces-verbal, in 1963. John Sturrock
described it as "an attractively playful and intelligent beginning",
and suggested that Le Clezio might "one day produce something quite
remarkable".
Since then, the TIS has kept
literate folk up to date with Le Clezio's progress, reviewing many of
this
prolific writer's books, mostly in the original French. When Adrian
Tahourdin
provided a refresher course in April 2006, he did not omit to mention
that in France
"Le
Clezio has a reputation that has prompted talk of a possible Nobel
Prize".
By contrast, Mr Coffey's report had the effect of underlining the
much-derided
comment of Horace Engdahl, permanent secretary of the Swedish Academy,
that the
United States is "too insular" in cultural matters, that it
"does not participate in the big dialogue of literature" .
Le Clezio belongs to a group
of French writers - Patrick Modiano and Sylvie Germain are among the
others -
who fell into a gulf created by the unrelenting inwardness of the nouveaux romanciers. Although the early
novels were translated, readers found it difficult to keep up with his
experimentation and output (Mr Tahourdin mentioned fourteen titles, in
addition
to the book under review, Ourania).
By coincidence, Le Clezio's new novel arrived in this office two days
after the
prize was announced. Ritoumelle de la
faim will doubtless be translated into English and eventually
reviewed
widely, but literate Americans will have the chance to read an account
of the
original before then. None need ever say "qui?" again (we suspect few
did).
Giai thoại Qui est Ky ? [Kỳ
là thằng nào, câu của de Gaulle] chúng
ta đã từng nghe, khi Tướng Râu Kẽm tới Paris dự hòa đàm Paris. Bây giờ
đến lượt Mẽo hỏi, Qui he?,
khi Le Clézio được Nobel.
TLS đi một đường tự nâng bi, chúng tôi đã từng viết về ông ta, ngay từ
cuốn đầu tay, và đã tiên đoán được cái chuyện ông ta sẽ làm được cái gì
đó.
Qui he? còn là do
cái gọi là tiểu thuyết mới mà
ra.
Thời
vô song
Gấu
có nhớ nhà không?
Nghệ
thuật điểm sách và viết tựa đề [préface]
Borges
có cả một cuốn gồm toàn
những bài đề tựa, nhưng coi chừng, có những cuốn chẳng hề hiện hữu.
Giống như
tay người Nga, Mendeleev phịa ra bảng tuần hoàn các
nguyên tố, và để sẵn những ô
trống, cho
những nguyên tố chưa lộ hiện, Gấu cứ tưởng tượng ra một cái lỗ, để
dành sẵn cho Gấu, ở đâu đó [ở trong nghĩa địa!].
Có
những cuốn sách cho dù đã
từng hiện hữu, nhưng người đời chỉ nhớ bài điểm sách, hoặc bài đề tựa,
chứ không phải
cuốn sách!
Cuốn
Nhà Hội theo Gấu, được tới
ba bài điểm, đều bảnh cả. Một, trên Người
Kinh Tế, một trên NYRB, và
một, trên tờ
báo Tây, Đọc.
Bons
baisers de Russie
Deux frères amoureux de la
même
femme sont envoyés au goulag. L'un d'eux se souvient, avec cynisme.
Un grand roman presque russe
de Martin Amis.
Le
nouveau Martin Amis a des
airs de roman sentimental. Ou presque, Si l'auteur narre une histoire
d'amour,
elle est « de forme triangulaire », et « se termine en une pointe très
aiguë ».
Comprenez qu'il ne faut pas s'attendre ici à un liivre « sympa », à
l'image du
narrrateur de cette Maison des rencontres, Cet octogénaire russe exilé
- dont
on ne connaîtra pas le nom - se confesse à sa belle-fille
afro-américaine.
Aujourd'hui, c'est un homme riche, malade, qui reetourne en Sibérie,
région
qu'il a bien connue jadis.
Flash-back:
héros de l'armée
stalinienne de retour à Moscou, ce grand misanthrope tombe amoureux
d'une jeune
Juive, Zoya. « Quand un homme porte une femme, et une seule femme, aux
nues,
"par-dessus toutes les autres", on peut être plus ou moins certain
qu'on se trouve en présence d'un misogyne, Cela le libère, et il peut
penser
que toutes les autres sont de la merde. » Ces mots prennent une saveur
toute
particulière quand on connaît le passif de cet individu, «Nous savons
pas mal
de choses sur les conséquences d'un viol- pour les femmes violées, Au
juste
titre, personne n'a perdu le sommeil à réfléchir aux conséquences du
viol pour
le violeur, La résonance particulière de sa tristesse postcoïtale, par
exemple;
aucun animal n'est plus triste que le violeur ... »
Zoya
est belle, intelligente,
il en est fou, Son demi-frère, l'idéaliste Lev, aussi. L'amour pour
cette femme
ne sera pas la seule chose qui réunira ces nouveaux Caïn et Abel : tous
deux
seront enferrmés, en tant que prisonniers politiques, dans un camp de
travail.
Zoya choisira Lev pour époux, qu'elle aura le droit de voir dans la
Maison des
rencontres, ce chalet où ont lieu les « visites conjuugales ». Oubliez
le
besogneux Chien jaune paru l'an passé: La Maison des rencontres renoue
avec le
meilleur de Martin Amis. Creusant toujours ses mêmes obsessions,
l'Anglais
superpose avec virtuosité un roman d'amour déchirant, le portrait d'un
cynique
désabusé, un exercice formel de haute volée (l'hommage à la littérature
russe)
et une fiction abrasive sur un demi-siècle d'histoire russe, Ses pages
sur le
goulag, souvent sidérantes, nous valent d'ailleurs quelques formules
qui resteront
dans les mémoires: « Au goulag, il se trouvait que les gens ne
mouraient pas
comme des mouches. C'étaient plutôt les mouches qui mouraient comme des
gens. »
Alors, qui volera vivra.
Baptiste
Liger
Lire,
Avril 2008
*
La Maison
des rencontres
(House of Meetings) par Martin Amis, traduit de l'anglais par
Bernard
Hoepffner, 286 p., Gallimard, 15 €
Tờ Lire
đọc Nhà Hội, của
Martin Amis, bản tiếng Tây:
Những
nụ hôn bồng bồng từ
Liên Xô: Cái tít này, là từ Ian Fleming. Thành thử thật khó dịch
từ
"Bon", vì nó còn liên quan đến James Bond.
Tên tôi
là Bond. James Bond.
Tên tôi
là Gấu. Gấu nhà văn
Gấu có nhớ nhà không?
Có nhớ, nhưng nhớ nhất, là
nhớ Nhà Hội
Nhà
Hội, với Gấu, là cuốn
sách tuyệt cú mèo.
Buồn
buồn, là lôi ra đọc. Là
nhớ Phạm Văn Cội, Củ Chi. Nhớ Đỗ Hòa, Nhà Bè.
Câu khép lại bài điểm sách, như trên, tặng chiến hữu, đồng chí của Đào
Hiếu, thì thật là tuyệt: Kẻ nào biết
bay như ruồi, kẻ đó sống.
Alors, qui volera
vivra
Nhà Hội
*
Một trong những mánh
mở ra một
bài đọc sách, là dùng… chim mồi. Đây là cách Gấu nghĩ ra, ngay từ thuở
thoạt kỳ
thuỷ bước chân vào chốn giang hồ gió tanh mưa máu, nhưng sau này, về
già, đọc
những bài reviews của thiên hạ, thì hóa ra là, mánh chim mồi đã được
thiên hạ khám
phá ra từ khuya, y hệt lần chạy đi khoe anh bạn học, tao khám phá
ra phương
trình của đường thẳng, anh bạn thương hại lắc đầu, xưa rồi Diễm ơi.
Gấu có hai kỷ niệm, thật là
tuyệt vời, liên quan tới chim mồi, một cũ một mới.
Bức
hình trên thuộc về hành
trang tị nạn của Gấu, cùng với bức hình Thượng tọa Thích Quảng Đức, gỡ
ra từ một
bức tường trong một căn phòng dành cho khách vãng lai tại ngôi chùa
Long Vân Tự,
tại Parksé, Lào, trong khi chờ qua sông Mekong, tìm đường vô trại tị
nạn.
Gầu vẫn
cứ nghĩ, Gấu có nó, từ
một Quán Đen ở Vạn Tượng. Mãi sau này, coi lại, thấy đề năm 1993, lúc
đó mới biết,
lấy từ thư viện Pháp ở trong trại Panat Nikhom, Thái Lan.
Kẻ Xa Lạ là một trong những bài viết
được đọc nhiều nhất của Tin Văn
Camus viết
về Kẻ Xa Lạ.
Vào năm 1954,
một người Đức đã gửi thư cho Camus, đề nghị và xin phép đưa Kẻ Xa Lạ
lên sân
khấu. Sau đây là lá thư trả lời của Camus (lần đầu tiên xuất hiện trong
cuộc
trưng bầy "Những câu chuyện về một cuốn sách: ‘Kẻ Xa Lạ’ của Albert
Camus". 1990).
Paris, ngày 8 tháng Chín, 1954
"Ông
thân mến,
... Ông
hẳn cũng đoán ra được,
dự án của ông làm tôi phân vân. Đã hai mươi năm tôi quan tâm tới kịch
nghệ, từ
đủ thứ khía cạnh của nó (tôi đã từng là diễn viên, và là nhà đạo diễn),
và tôi
biết rằng, thứ ánh sáng còn sống, còn tươi (cru) là ánh đèn chói lòa ở
sàn
quay, thật khác xa cái thứ ánh sáng được tính toán thật chi ly mà người
ta đưa
vào trong một cuốn tiểu thuyết. Trước ánh sáng chói chang đó, một nhân
vật, cho
dù đứng thẳng ở trong một câu chuyện kể, có thể ngã lăn đùng ra. Nhưng
lá thư
của ông, và của M. Deblue làm cho tôi thật muốn lao vào cuộc phiêu lưu
này. Và
do kinh nghiệm, tôi biết rằng, chỉ sự tương kính giữa hai cá nhân mới
là đảm
bảo số một, khi quyết định cộng tác. Và tôi đồng ý để ông thực hiện dự
án đưa
tiểu thuyết Kẻ Xa Lạ thành kịch trình diễn...
Được
đấy, ông bạn ạ, cái dự án
của ông. Chỉ có hai điểm xuyết nho nhỏ:
1. [Khán
giả mà] không được
coi cái xen giết người thì thật là bực mình lắm đấy. Bởi vì đây là trái
tim
[centre: trung tâm] của câu chuyện. Đây là một cú giết người có mặt
trời ở
trong đó. Mặt trời ở đây là trung tâm mà thảm kịch xoay quanh. Và thảm
kịch
sáng chói lên nhờ ánh sáng mặt trời chiếu vào nó. Theo tôi, đây là điều
làm cho
nó khác với một câu chuyện u tối, và thoát tục [désincarné: mất xác
phàm; có
xác phàm thì mới có chuyện giết người], theo kiểu của Kafka. Ông sẽ
nói, khó
lắm đấy, nếu trình diễn được như thế. Tôi trả lời: Đúng như vậy. Khó
lắm đấy.
Hãy cố mà tìm tòi, và một khi vớ được, vở kịch của ông mới nguyên xi
biết bao;
ấy là tôi muốn nói, cái chất sáng tạo của kẻ đạo diễn.
2. Cái
xen độc thoại kết thúc màn
thứ sáu, theo tôi, là bất khả thực hiện. Trên sân khấu độc thoại chỉ đi
được với
những cử chỉ, động tác (ấy là với những diễn viên số một). Thực hiện
theo cách
của ông, như ở xen đó, sẽ trở thành "lên lớp, giảng mo-ran", nghĩa là
rất kịch cợm, tôi muốn nói, giả tạo.
... Nói
ngắn gọn, tôi muốn làm
sao tránh xa khỏi kiểu đua đòi Kafka, và chủ nghĩa biểu hiện
(expressionnisme).
"Kẻ Xa Lạ" không hiện thực mà cũng không kỳ quái (fantastique). Với
tôi, đây là một thứ huyền thoại nhập thể (incarné: nhập xác phàm),
không lơ mơ
mà bám cứng lấy cõi người ta, tới tận da, tận xương, tận tủy. Và tới
tận cùng
của hơi nóng ngày ngày. Người ta muốn coi đấy là một kiểu cọ mới của vô
đạo đức
(immoraliste). Vậy là lầm to. Cái đập vào mặt chúng ta ở đây, không
phải là đạo
đức, mà là thế giới của vụ án, nó trưởng giả, nó quốc xã, nó cộng sản,
nói tóm gọn,
đây chính là vết lở lói đương thời.
Riêng
với anh chàng Meursault,
có chút hướng thượng ở anh ta, và đó là từ chối, tới chết: nói dối....
Meursault không ở phía những ông tòa, lề luật xã hội, những tình cảm
ước lệ,
đóng hộp. Anh ta có đó, như hòn sỏi, như ngọn gió, như biển cả, dưới
mặt trời.
Và cũng như sỏi đá, chúng có thể biết đau, nhưng không thể nói dối,
chẳng bao
giờ nói dối.... Nếu ông đọc cuốn sách theo kiểu tôi vừa đề nghị, ông sẽ
nhận ra
một thứ đạo đức của sự chân thành, và một niềm vui, vừa tiếu lâm vừa bi
thảm,
về cõi đời. Chính những điều này làm nó thoát ra khỏi vẻ u tối, biểu
hiện, hay
là thứ ánh sáng của sự tuyệt vọng....
Thân
ái...
Albert
Camus.
Trích dẫn trong
ngày
"Debauchery
is perhaps
an act of despair in the face of infinity."
Edmond De Goncourt (1822-1896) and Jules De
Goncourt
(1830-1870). French writers. The Goncourt Journals (1888-1896).
[Phóng
tác: Hiện tượng Bóng
Đè chắc là do chán ngán trước vô cùng. Debauchery: Trác tang, trụy lạc,
ưa khoe
hàng…]
*
Tin Văn trích danh ngôn trên,
thời gian đọc Bóng Đè. Quên luôn. Tình cờ lướt net, thấy có một vị sử
dụng câu
trên để giới thiệu một truyện ngắn "thật cao tay, hơn hẳn Bóng Đè",
theo vị này, [trên website ttvn]:
Truyện này tác giả viết thật
cao tay. Xin bàn zô hôm khác. Zì bi zờ phải nàm việc dồi. Trước khi tạm
piệt
xin tặng đôi dòng nầy của cụ Nguyễn Quốc Trụ trên tanvien.net:
"Debauchery is perhaps
an act of despair in the face of infinity."
*
Truyện này, thật cao tay, là truyện ngắn Hiếp, của Đặng Thân, trên
tienve.org. Đọc, thấy câu này:
Bạch Trĩ đã thấy kinh lần
đầu
ngay trước lễ tốt nghiệp đại học rực màu cờ đỏ và các loại cờ đèn kèn
trống.
*
Ui chao, Cụ Trụ!
*
Hiếp không cao
tay hơn Bóng Đè. Đúng ra phải
nói, chúng không cùng một thể loại, tuy đều là về "debauchery"!
Thứ văn chương như Hiếp, đầy
rẫy trong xã hội Mít. Cái cảnh làm tình trên chiếc giường dưới chân bàn
thờ và mặc khải về lá cờ, và nhờ nó mà có kinh đúng ngày lễ ra trường
rợp bóng cờ, tưởng giống mà khác hẳn nhau.
Đóa hoa
hồng vùi quên trong
tay
Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi
Like
the Coleridge hero who
wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these
objects were
not of the second world, which had brought me so much contentment as a
child,
but of a real world that matched my memories
Orhan Pamuk
Như nhân vật của
Coleridge
thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của giấc mộng,
tôi
biết, tất cả những gì ở trong Tứ
Khúc thì không phải là từ thế
giới tưởng tượng
bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là một, với hồi ức của tôi,
những
ngày ở Sài Gòn.
*
Bông hồng của
Coleridge
Vào
năm 1938, Paul Valery
viết, không nên coi lịch sử văn học như là lịch sử tác giả và những
tình cờ,
hay, đây là chuyện nghề của họ, nhưng mà là lịch sử của Tinh Anh, the
Spirit,
như kẻ sản xuất hay tiêu thụ văn học. Ông nói thêm, một lịch sử văn học
như thế
không cần phải kể tên, dù chỉ một tác giả.
Đây không phải là lần thứ
nhất Tinh Anh “phát tiết ra ngoài”. Vào năm 1844, một trong những thư
ký của
Tinh Anh, là Emerson, ở Concord, nói: “Nhìn bề ngoài văn học, có vẻ như
chỉ một
người viết ra tất cả những cuốn sách đó, nếu chúng ta để ý đến tự sự,
the
narrative, có vẻ như đây là do một bậc phong nhã, biết hết, hiểu hết,
viết ra,
chỉ một bậc phong nhã mà thôi". Hai muơi năm trước đó, Shelley đưa ra ý
kiến, tất cả những bài thơ của quá khứ, hiện tại, và tương lai thì đều
là những
mẩu đoạn, thời kỳ, của chỉ một bài thơ vô cùng, được viết bởi tất cả
các thi sĩ
trên trần gian.
Bây giờ tôi đề nghị, mời ba
ông thư ký của Tinh Anh kể trên, cùng tham dự với tôi trong một chương
trình
thật khiêm tốn: Truy tìm dấu vết của một ý nghĩ, an idea, qua những bản
văn hỗn
tạp của ba tác giả.
Người thứ nhất là Coleridge.
Tôi không biết ông viết ra ý nghĩ dưới đây vào cuối thế kỷ 18 hay đầu
thế kỷ
19: "Nếu một người đàn ông có thể đi qua Thiên Đàng, ở trong một giấc
mộng, và có một bông hồng dâng hiến cho anh ta, như là một vật làm tin,
rằng,
linh hồn của anh ta đã thực sự ở đó, và nếu anh ta nhận ra bông hồng ở
trong
tay của mình, khi thức giấc, thì… sao" [“Ay!- and what then?”]
Tôi tự hỏi, độc giả của tôi
nghĩ sao về một tưởng tượng như vậy. Với tôi, nó tuyệt hảo. Và do đó,
thật khó
mà dùng nó như là một cái nền cho những phát kiến khác. Nó có ở trong
nó, sự
toàn thể và nhất quán của một terminus ad quem, final point.
Thì lẽ dĩ nhiên, nó là như
vậy. Trong trái cầu văn học, như trong mọi chuyện khác, mọi hành động
đều là
cực điểm của vô cùng nguyên nhân, và nguyên nhân của vô cùng hậu quả:
Đằng sau
ý nghĩ của Coleridge là một ý nghĩ tổng quát và lâu đời, của hàng hàng
thế hệ
những kẻ yêu nhau, cầu xin một bông hồng làm chứng tích.
*
Note: Nhân “nan đề”, ai là
cha đẻ từ "hậu hiện đại", và những quái trạng [Gấu không hề có ý
nghĩ, coi những ông như TL và HNH là quái trạng. NQT], xuất hiện cùng
với nó,
Gấu giới thiệu bài viết thú vị của Borge.
|
|