Diary
|
Happy
Birthday To U, GrandPa
Say
Mưa từ đất ngược về trời
Trăng sao đi trốn sợ người
hay ta
Mây từng mảng trắng gót chân
Có nghe tiếng vỡ hồn hoang
xưa về
Ta, rượu, thuốc, môi ê chề
Đèn vàng đứng gác bồng bềnh
cơn say
Vuốt mặt, nghe mắt sao cay
Trăng sao thôi hãy về cùng bơ
vơ
Đài Sử
Gấu
có nhớ nhà không?
"He is a
pessimistic poet made melancholy by an intolerable political exile"
Poets
cannot live by sympathy alone.
TLS
viết về nhà
thơ vừa mới mất, Mahmoud Darwish
*
Vừa
nhận được Lần
Cuối Sài Gòn trưa nay. Đọc trên chuyến xe lửa từ nhà trở lại sở.
Đọc thích thú.
Đọc chia sẻ. Và đọc, không biết tại sao, lại rất buồn, có lẽ những
thành phố
anh đang gợi lại đã vĩnh viễn ngoài chúng ta, có phải thế?
Hà Nội là một
chiếc bóng đằng sau Sài Gòn. Sài Gòn là một chiếc bóng đằng sau hiện
tại. Chữ
gợi lại chập chùng những bóng. Những người đã từng có mặt. Những chỗ
ngồi.
Những góc đường. Những tàng cây.
Mới cách đây vài
hôm, đọc lại Rilke, toàn bộ thư của Rilke và tập Duino Elegies, vẫn còn
bần thần, vì nhận ra, quả là đúng, chúng ta vừa nhìn cái gì, là lập tức
cái ấy đã
là nội tại, là mất đi. Mọi thứ đều đã là Lần Cuối. Chúng ta tới đây,
như để có
mặt, một lần, nhìn, [hai chữ không rõ nghĩa], rồi qua đi.
Đọc mới xong phần
đầu của bút ký, và thơ, đã đầy cả Sài Gòn của một thời kỳ kỳ lạ, tan
hoang,
lãng mạn, đổ vỡ, và bi tráng của nó.
Cám ơn anh đã gửi
sách. Đã cho một buổi trưa [chấn động như nhìn xuống con nước Thị Nghè,
trưa có
mây - hay là “trưa cỏ may”?- chiều nhiệt đới, mù trắng xa xa Thủ Đức].
Vài
hàng viết gấp
kẻo anh trông, sợ sách có thể đi lạc.
Sẽ
đọc tiếp Lần
Cuối tối nay. Anh vẫn viết mạnh. Mong anh mãi được vậy.
[Thư
thân hữu,
1998]
TQ
Nhớ Bùn
"Sao
không hát cho những
người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi
không sao
chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi
tên
thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ
dại.
Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ
những
kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng
gần nhà
cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt
hải lắc
đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường
Gia Long.
Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt
nhìn
người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về,
cô tha
thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ
nhàng đậu
trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ,
nhớ..."Nếu mai
không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu
ngao
một mình trước khi bỏ đi.
Như
những lời chúc dữ, chúng
báo trước một Miền Nam
mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Trong
mỗi chúng ta đều có một
Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của
bạn sáng
ngời.
Lần Cuối Sài Gòn
*
Sóc
Trăng, cái tên thiệt là
ngộ. Sóc là làng, bản, thôn... theo tiếng Khờ-me (ở đây người
ta
thường gọi là tiếng Miên) là điều dễ hiểu. Nhưng còn Trăng
thì
sao? Có phải là con trăng trong tiếng Việt hay là mang một nghĩa nào
khác của
tiếng Khờ-me? Ðiều này tôi chưa kịp hỏi, nhưng được biết ở đây có trên
30% là
người Việt gốc Khờ-me, và cũng có rất nhiều người Hoa lập nghiệp đã từ
bao
nhiêu đời, nên nhiều người Sóc Trăng nói được cả ba ngôn ngữ Việt, Miên
và Tiều.
Nam Đan: Cười cho hết hàm răng
*
Sóc
Trăng ư? Khánh Hưng? Ba Xuyên?
Nơi thằng em nằm xuống.
*
Một thành phố không có gì
đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng đài người loắt
choắt
nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi
rảnh rỗi,
người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã
qua của
mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong
quân đội
Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách tốt nghiệp
đã lâu
chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc,
thường
là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để
nói, như
sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi châu
thành,
cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào nhà trong,
nói, ở
đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu mới hiểu chủ
nhà định
nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này.
Trở lại Ba Xuyên khi
được tin
đứa em trai chết.
Tử
trận.
Mộ Tuyết
*
V/v
Mộ Tuyết
Quân bất kiến cao đường minh
kính...
Chiêu như thanh ty mộ thành
tuyết
Khi Nguyễn Đông Ngạc làm Hai
muơi năm văn học Miền Nam, còn có cái tên Những truyện ngắn hay nhất của
quê hương
chúng ta, Gấu chọn truyện này, một phần để vinh danh sư phụ
Faulkner
[văn phong
của truyện ngắn là từ Asalom,
Absalom!]
Như sợ không ai nhận ra, Gấu bệ
luôn tên
sư phụ vô, cho chắc ăn:
Khi anh
định viết về những chuyện đó, chắc là anh đã lập gia đình (đã
yêu
thương một người đàn bà), đã có con (đã có hai con, một trai, một gái),
và như
một kinh nghiệm của một nhà văn nước ngoài mà anh đã đọc và ngưỡng mộ
(W.
Faulkner), khi đó, bởi vì anh cần chút tiền để trả chút nợ, hay để mua
cho vợ
anh một chiếc áo mới nhân dịp sinh nhật, mua đôi giầy, đôi dép cho hai
đứa nhỏ,
chỉ vì chút nhu cầu tầm thường đó mà anh viết. Tất cả những nhu cầu nhỏ
mọn
chẳng liên quan gì đến văn chương, và cũng chẳng liên quan gì tới những
nỗi đau
khổ mà gia đình anh đã trải qua đó, đã xui khiến anh viết, đã cho anh
thêm chút
can đảm để bỏ một cuộc vui, một cuộc tụ tập với đám bạn bè nơi nhà
hàng, quán
nước (cái không khí túm năm tụm ba đó lúc nào mà chẳng toát ra một vẻ
quyến
rũ), đã cho anh thêm một chút sức mạnh để chống lại những giấc ngủ lết
bết,
chống lại sự lười biếng làm tê liệt mọi dự tính: anh sẽ viết về những
gì thật
nghiêm trang (những cái gì từa tựa như là là ý nghĩa về đời sống, cái
chết,
chiến tranh...) chỉ vì những nguyên nhân thật tầm thường giản dị, và
đem tập
bản thảo đi gạ bán cho một nhà xuất bản.
*
Và nhờ cuốn sách, tấm hình chụp
Gấu đứng ở Sở Thú Sài Gòn, và tí tiểu sử, Gấu qua được cửa ải thanh lọc.
Khi đó, có một bà đang tập tành
làm nhà văn, Gấu còn nhớ tên, sau đậu thanh lọc, qua Úc, rất mê văn
Nguyễn Ngọc
Ngạn, nhờ Gấu giới thiệu với ông, và tờ Làng Văn ở Canada.
Bà có mượn, đọc, chê: Viết về
đứa em trai tử trận mà không có một dòng xót thương, không một giọt
nước mắt.
Cũng góp mặt trong tập truyện,
TTT chọn Dọc Đường. Càng về
sau này càng thấy, đây là truyện ngắn tuyệt
vời nhất
của ông.
Gấu cũng nghĩ như thế, về
Mộ Tuyết. NQT
Gấu,
nhà văn
Nhiều
khi tí tiểu sử trở
thành bùa cứu mạng!
Trước
1975, Gấu có một cái
hình, độc nhất, đóng vai nhà văn, một cái tiểu sử độc nhất, như sau
đây. Không
thể ngờ, chúng trở thành những lá bùa cứu khổ cứu nạn, khi đi thanh
lọc, được
nhà nước tạm dung xếp vào thành phần tị nạn chính trị, thay vì di dân
kinh tế.
Nhờ vậy mà sau đó, được phái đoàn Canada chấp nhận.
Trích
Hai Mươi Năm Văn Học
Miền Nam, do Nguyễn Đông Ngạc biên tập,
xb trước 1975.
Năm sinh của Gấu, trên ghi
1938, theo thế vì khai sinh; sự thực, sinh 16.8.1937
Theo
Gấu đoán, sau khi gieo
quẻ mu rùa, cái sự đang từ ‘lưu vong chuyển sang di cư’ của NMG, là do
nỗi buồn
lớn trong đời viết văn của ông. Và Gấu từ đó, suy rộng thêm ra, mấy anh
chạy về
xin đầu thú đều có một cái “lấn cấn ở trong lương tâm”, ‘chết trong tâm
hồn’.
Anh NBC, trùm bồi Mẽo tại WJC, nhờ gia đình có tiền, chạy du học, thoát
chết,
những vẫn tiếc hùi hụi số tiền bỏ ra, từ đó thù mấy thằng khốn nạn
VNCH. Tay đại uý QC, chạy trốn chiến
tranh bằng cách đẩy thằng
khác vô thế chỗ mình, mấy thằng đào ngũ, trốn trình diện, cũng lại một
nỗi “chết
trong tâm hồn” khác…
Thú thực Gấu chưa từng thấy một
anh nào ra hồn mà về với VC!
Cũng chưa từng có một bài viết,
bản văn nào biện minh đứng đắn cho cái sự về
châm đóm cho VC hút thuốc lào!
Thảm thế.
Gấu này đã từng về "bắt tay với
VC", và bây giờ vẫn muốn về, nhưng được cảnh cáo, thời tiết không đẹp
như ngày
anh về nữa đâu, về là chết anh, chết luôn tụi này, thành thử rét.
Nói rõ hơn, Gấu thù chủ nghĩa
CS, chưa từng thù một ông VC nào, trừ đám nằm vùng, không thù, nhưng
tởm.
Gấu tởm chúng một, chúng tởm Gấu muời. Hẳn thế!
Tribute
Paz kể, khi Quần đảo
Gulag ra lò, và phản ứng
của giới
nhà văn, nhà báo Mexico quan tâm tới Solz, đa số tỏ ra thận
trọng,
giữ được phẩm giá, và sự rộng lượng. Tuy nhiên, không có ai nói ra một
cách
thẳng thừng và can đảm như José Revuelta. Tiểu thuyết gia Mexico này đã
vạch
trần ra, rằng, những niềm tin cách mạng thì không thể nào “chửi bố”
lòng yêu sự
thực, và đây là lúc soi bói, đưa lên bàn mổ, điều gì xẩy ra tại những
xứ sở
được gọi là “xã hội chủ nghĩa”, và cái sự soi bói này, chính nó, đòi
hỏi một sự
xét lại toàn diện cái di sản mang tính nhà nước, nhà cầm quyền [the
authoritarian legacy], của chủ nghĩa Marx. Một sự nhìn lại, [Paz viết
thêm]
phải đi quá Lenin, và chứng tỏ ra những nguồn gốc Hegel của tư tưởng
của Marx.
Chắc
là để bênh vực Solz, Revuelta, tác giả Inventario, trích
dẫn Lukacs, mà theo ông, vào cuối đời đã coi Solz như
là một
nhà “hiện thực xã hội chủ nghĩa” thứ thực, Paz trích dẫn Revuelta:
Lukacs
giới thiệu tác giả Tầng Đầu
như là một
người
thực hiện bảnh nhất điều gọi là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa,
và là
người, về mặt xã hội cũng như về mặt ý thức hệ, đã có cơ may khám phá
ra tất cả
những khiá cạnh tức thời và cụ thể của xã hội và trình bầy chúng một
cách nghệ
thuật, theo những lề luật định giá của chính chúng.
Trong
bài diễn văn Nobel, Solzhenitsyn có nói
vài lời
tóm tắt cái điều mà Lukacs muốn nói đó, tức là chủ nghĩa hiện thực xã
hội, nó
là một cái gì khác hẳn những bản văn tuyên truyền, vốn đã chẳng hiện
thực, mà
lại chẳng có một tí gì là xã hội ở trong đó:
"Văn
chương là hồi ức của những con người; nó
truyền đi từ thế hệ này qua thế hệ kế tiếp, những kinh nghiệm không thể
nào bẻ
bác được về con người. Nó gìn giữ và thắp sáng, ngọn lửa lịch sử, vốn
miễn
nhiễm trước mọi bóp mép, và lại càng cách xa, mọi dối trá."
*
Trước
lời phán kỳ lạ trên, hai điều xẩy ra
đối với tôi
[Paz]:
1.
Kể từ gốc gác từ năm 1934 của nó, cái gọi
là “chủ
nghĩa hiện thực xã hội” là một giáo điều văn chương thư lại của chủ
nghĩa
Stalin [a literary bureaucratic dogma of Stalinism], trong khi Solz,
nhà văn
nổi loạn, a rebel writer, thì đúng ra phải là truyền nhân của Tolstoy
và
Dostoevsky nhiều hơn, một tay cắm sâu vào mảnh đất Slavic và Ky tô giáo.
2.
Ngay cả, nếu Solz là nhà văn hiện thực xã
hội chủ
nghĩa mà đếch có hiểu, mình được cái vinh hạnh là nhà văn hiện thực xã
hội chủ
nghĩa, thì nếu như vậy, Quần Đảo
đếch phải là một cuốn tiểu thuyết, mà
là một
tác phẩm lịch sử.
[Note:
Gấu bỗng nhớ
ra là NMG
coi Dostoevsky là Thầy. Liệu có thể đọc
Sông Côn Mùa Lũ, và Mùa Biển
Động, của
ông, theo dòng sử thi, của những Tolstoy, Dostoevsky?]
Đế
Quốc Đỏ phản
công [Time]
Sự trả thù của Liên Xô!
Đảng ta không biết vui hay buồn!
Dọn
Nhật
báo Người Việt
Buổi ra mắt sách
“Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết”
của THẢO TRƯỜNG
THƯ MỜI
Kính mời quý vị tham dự buổi ra mắt cuốn sách
“Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết” của nhà văn Thảo Trường.
Thời gian: Từ 1:00 pm đến 4:00 pm ngày Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2008.
Địa điểm: Phòng sinh hoạt Lê Đình Điểu nhật báo Người Việt,
14771 Moran Street, Westminster,
CA 92683.
Thảo Trường là nhà văn nổi tiếng của miền Nam, đã trải qua gần 17 năm
tù sau 1975 trong chế độ cộng sản. Từ khi sang định cư Hoa Kỳ năm 1993,
ông đã tiếp tục viết nhiều tác phẩm. “Những Miểng
Vụn Của Tiểu Thuyết” do Người Việt xuất bản là một Tuyển Tập gồm những
tác phẩm quan trọng nhất của ông.
Ban Tổ Chức kính mời
Miểng
Thảo Trường @ NDT's,
Cali, Tiểu Sài Gòn,
Tháng
Ba, 2008.
"Từ
lúc tôi bị té, cái
đầu lạ làm sao, sáng hẳn ra, đầy ắp những điều chỉ chờ dịp nhập vào
trang
viết..."
Nỗi
buồn Istanbul
Những ống
khói tầu mệt lả
Vào
giữa thế kỷ 19, những
chiếc tầu chạy bằng hơi nước đã làm một cuộc cách mạng về du lịch trên
biển,
đem những thành phố Âu châu tới gần nhau hơn, và khiến cho những chuyến
viếng
thăm ngắn hạn Istanbul có thể thực hiện được, và có một số nhà văn lợi
dụng
những chuyến đi như thế để đi vài đường tốc ký về thành phố. Những bài
viết như
vậy đã ảnh hưởng tới một số ít ỏi nhà văn địa phương, giúp họ có một ý
tưởng
mới mẻ về thành phố của họ. Nhưng, cùng với sự xuất hiện của những
chiếc tầu
chạy bằng hơi nước ở cảng Bopshorus, thành phố cũng có thêm một cái
nhìn mới.
Một công ty hàng hải, thoạt đầu có tên Sirket-i-Hayriye và sau này đổi
là
Sehir-Hatlari [City Lines: Những đường thuỷ trong khu vực thành phố]
được thành
lập, và chẳng mấy chốc, mọi làng bên vịnh Bosphorus đều có riêng một
bến đáp,
và khi những con phà đi đi lại lại giữa eo biển, Istanbul có thêm dáng
vẻ một
thành phố Âu châu. (Bạn hãy để ý đến từ “vapeur”, tiếng Pháp, có nghĩa
là hơi
nước, đã tìm đường vô Istanbul của Thổ nhĩ kỳ và vào cuộc sống thường
nhật của
nó, biến thành vapur, tiếng của chúng tôi - tiếng Thổ nhĩ kỳ - dùng như
tiếng
Anh, chiếc tầu, ship). Trong số những thay đổi mà những chiếc phà đem
lại, là
những làng xóm tấp nập ở hai bên vịnh Bosphorus, và Mũi Vàng, chúng trở
thành
một phần của thành phố, chưa kể những lâu đài, những toà nhà lớn, những
meyhans
rộn rịp, mọc lên ở những nơi mà những con tầu cập bến. (Trước khi có
những con
phà, gần như chưa có những con đường nối chúng lại với nhau).
Khi những con phà bắt đầu đưa
hành khách lên xuống vịnh Bosphorus, chúng trở thành thân quen với
người dân
thành phố, như là những Kizkulesi, Hagia Sophia, và Galata Bridge, và
chẳng mấy
chốc, chúng nhập vào đề tài thường nhật và đóng một vai quan trọng, trở
thành
một biểu tượng, giống như lá cờ, nó nhắc nhở cho cư dân Istanbul chúng
ta cùng
sống trong một thành phố lớn. Như những người ở Venice quyến luyến với
những
“vaporettos”, người dân Istanbul rất thích phô ra cho những du khách
những hình
dáng, kiểu này mốt nọ của những con tầu “vapur” của từng tuyến đường
của công
ty City Lines. Có trọn một tủ sách dành cho chúng, với những hình ảnh,
minh
họa. Gautier viết, bất cứ một tiệm cắt tóc nào trong thành phố cũng có
ít nhất
là một tấm hình tầu “vapur” treo trên tường. Cha tôi có thể nhận ra bất
cứ một
chiếc nào được đưa ra sử dụng, vào thời điểm nào khi ông còn là một đứa
bé, chỉ
bằng cái hình dáng tuyệt vời của con tầu, và nếu không thể nhận ra liền
lập
tức, chỉ một lát sau là ông đọc lên cái tên của con tầu, và chúng ngân
nga ở
trong tôi, giống như một bài thơ: Năm mươi ba Insirah, Sáu mươi bẩy
Kalender,
Bốn mươi bẩy Tarz-I Nevin, Năm muơi chin Kamer…
Khi tôi hỏi cha tôi, làm thế
nào mà cha phân biệt được những con tầu bề ngoài trông hao hao như
nhau, ông sẽ
nêu ra những tính chất đặc biệt của từng con tầu – thí dụ như, khi hai
cha con
đang đi một vòng dọc theo Bosphorus, hay, nếu bị kẹt đường, kẹt xe,
ngồi tại
phòng khách trong căn nhà của chúng tôi ở Besiktas, hoặc, ngay cả khi
cha tôi
đã xác định tính độc nhất, cái chỉ có nó mới có, của từng con tầu – con
tầu này
thì trông như có một bướu, con tầu kia ống khói mới dài làm sao, cao
ngời ngợi,
còn con kia cái mũi của nó giống như cái mỏ chim, con nọ hơi nghiêng về
một bên
mỗi khi đi ngược dòng nước.. Nhưng ông nói gì thì nói, tôi vẫn thấy
thật khó
phân biệt chúng, cho dù đã nghiên cứu thật tỉ mỉ, đã dí sát mũi vào
từng chiếc.
Nhưng tôi học được sự khác biệt giữa ba con phà – hai được chế tạo tại
Anh, còn
con thứ ba, tại Taranto, Ý, vào năm 1952, đúng năm tôi ra đời – chúng
được đặt
tên theo những khu vườn; sau khi nghiên cứu, tìm hiểu dáng vẻ và chiều
dài của
từng chiếc, sau cùng tôi có thể chỉ ra, đây là con phà Fenerbahce, đây
là con
phà Dolmabahce, khác con phà Pasabahce: con phà may mắn của tôi. Cứ mỗi
lần đi
lang thang trong thành phố, mê mải suy nghĩ đến nỗi thất lạc ở trong
nó, và,
nhìn xuống một lối đi, nhìn ra ngoài cửa sổ, thoáng bắt gặp con phà, là
tôi
sướng mê tơi, mình may rồi, hôm nay mình gặp may rồi, và tôi vẫn còn
cảm thấy
như vậy, cho đến ngày hôm nay.
Tặng phẩm lớn lao, tuyệt vời
mà những con phà đem lại cho thành phố, hay, phần đóng góp của chúng
vào bóng
dáng Istanbul in lên nền trời, là những đợt khói phà, từ những ống khói
của
chúng, lẽ dĩ nhiên! Tôi mê làm sao, vẽ những đợt khói than mầu tối xậm
của chúng,
thay đổi tuỳ theo vị trí của con phà, và đó là con nào trong ba con
phà, tuỳ
theo dòng nước, và lẽ dĩ nhiên, tuỳ theo con gió. Trước khi tôi đi
những đường
cọ, đem những đợt khói phà vào trong bức tranh của mình, khi đó, bức
tranh phải
hoàn tất, chỉ còn thiếu những đợt khói, có khi, sơn đã khô được nửa
chừng. Giống
như chữ ký trên bức tranh, tôi thường để ở góc dưới, phía bên phải,
những đợt
khói là con tem sau cùng bạn dán lên phong bì một bức thư [giá là một
bức thư tình,
thì lại càng tuyệt!], vì đây là con tem đặc biệt của từng con phà, tỏa
ra từ cái
phễu, tức ống khói của nó. Khi những đợt khói dầy trông như một đám
mây, nhất là
khi chúng cùng bốc lên từ tất cả những ống khói của bao nhiêu là con
tầu di động
chung quanh cầu Galata, lúc đó có thể coi như thế giới của tôi được bọc
bởi một
bức màn đen.
|
|