*

Diary


















*
*

Gấu-Richie đọc Văn, số đặc biệt về Tennessee Williams,
Tháng Năm 1967, sau vườn nhà.

@ Markham Fair, Oct 4 2008


LE CHOC PICASSO

C'est l'événement artistique de l'année: l'exposition du Grand Palais, à Paris, confronte le maître du xxe siècle à ceux qui l'ont inspiré, du Greco à Van Gogh, de Velazquez à Manet. Ou comment ce volutionnaire sut faire sienne l'histoire de la peinture pour mieux la réinventer. Un rendez-vous exceptionnel qui valait bien ce dossier spécial.
Một biến cố nghệ thuật trong năm: Triển lãm tại Đại Cung Điện ở Paris: cuộc đụng đầu giữa Bậc Thầy của thế kỷ, Picasso, với những sự phụ của Thầy: Từ Greco tới Van Gogh, từ Velasquez tới Manet. Hay là, bằng cách nào nhà cách mạng nghệ thuật lấy cuộc đời của mình làm lịch sử nghệ thuật, để tái sinh nó.
Một cuộc gặp gỡ đặc biệt xứng đáng một số báo đặc biệt:
Một cuộc triển lãm đặc biệt
Hành trình của một thiên tài
Những tuyệt tác được giải mã.


Biết rồi.. xú nha đầu!
Thảo Trường


Góp chuyện hậu hiện đại
Từ "hậu hiện đại" (postmodern) xuất hiện lần đầu trong cuốn Hoàn cảnh Hậu hiện đại (La Condition Postmoderne)
TL
Cuốn này PXN dịch. Tren blog Nguyên Đầu Bạc, anh "chỉnh" TL, về chuyện gốc gác từ postmodern.
Nhưng "condition" có lẽ nên dịch là "điều kiện", vì nó dính dáng tới "legitimation", như trích dẫn sau đây cho thấy:
In The Postmodern Condition: A Report on Knowledge, viewed by some as the "bible" of the postmodernism movement, Jean François Lyotard analyzes how the legitimation of knowledge has changed in the computerized societies. Nguồn
Cuốn này, tác giả thú nhận, ông viết ẩu, theo kiểu má lỡ lấy tiền rồi, miễn xong một show, và chôm tứ lung tung, (coi Wikipedia), nhưng thiên hạ khen um lên, đành chịu thua!


Nobel 2008

Nobel goes to author of 'poetic adventure and sensual ecstasy'
Nobel về tay nhà văn Tây, Le Clézio, tác giả cuốn Le Procès-verbal, Biên bản, một trong những cuốn của thời mới lớn của Gấu, ở Sài Gòn.
Vinh danh ông này, một cách nào đó, là vinh danh thời của Gấu!
Thời của tiểu thuyết mới! [Le Clézio cùng dòng văn với Michel Butor]
*
"author of new departures, poetic adventure and sensual ecstasy, explorer of a humanity beyond and below the reigning civilization"

‘tác giả của những cuộc chuyến đi mới, phiêu lưu thơ mộng và cực khoái nhục cảm, kẻ thám hiểm một nhân loại vượt quá, và chìm khuất [so với] nền văn minh trị vì”
Một vòng hoa như vậy là quá bảnh, tóm gọn khá đầy đủ cuộc đời và văn nghiệp của Le Clézio.
Cái vụ ông khám phá ra Mehico cũng có thể được coi là một cơ may tuyệt vời của ông, như ông viết trong Le Clézio par lui-même.
Thời gian Le Clézio thi hành nghĩa vụ quân sự, De Gaulle công nhận Trung Cộng, ông xin đi phục vụ tại Bắc Kinh, nhưng bị đưa tới Thái Lan. Tại đây, ông chê Phật giáo của Thái là một thứ “quốc giáo” (une religion constitutionnelle), và so sánh với Ky tô của vùng Breton [Bretagne]. Nhưng cú đó chưa ghê bằng cú ông tố cáo nạn đĩ điếm nở rộ cùng với cuộc chiến Việt Nam, vì đây là nơi nghỉ mát của lính Mẽo [vào thời gian đó, Mẽo lập những trại du hí, có những cái tên nổi tiếng một cách buồn thảm, tristement célèbre, “R and R” [Rest and Recreation: “Nghỉ ngơi” và “đốt tiền mua lấy một đêm vui”]: Người ta mua những bé gái ở biên giới phía Bắc Thái lan, rồi bán cho tụi ma cô ở Bangkok.
Vì vụ này, ông xém chút nữa là mất quyền lợi thuộc loại trừ bị, chuyển qua hiện dịch, tức là thành lính thực thụ. Ông phản đối, nếu làm như vậy, ông sẽ đào ngũ, và vì vậy ông bị chuyển đi Mexico. Và đây là ân huệ đối với ông: Sự khám phá ra Mexico đúng là một cú sốc đối với tôi.
Cái nền văn minh hiện đang trị vì, vòng hoa Nobel nhắc tới, không liên quan gì tới văn minh Mẽo, Tây, mà là văn minh nhân loại hiện đại, so với những nền văn minh vượt quá nó, hoặc chìm khuất ở bên dưới nó.
Sự kiện tay thư ký Nobel lèm bèm trước khi phát giải làm mọi người hiểu sai giá trị Nobel 2008, theo Gấu.
Vẫn theo Gấu, việc trao Nobel những năm gần đây, thật là tuyệt vời, và, nhất là năm nay, 2008, riêng với Gấu.
Nhờ Nobel năm nay, Gấu lại thấy mê văn chương Tây!
*
Lang thang và huyền hoặc.
Kể từ Biên bản, đem cho ông giải Renaudot, đã 35 năm [tính đến 1998], Le Clézio vẫn là nhà văn bí ẩn, nếu không muốn nói, ở ẩn một cách tự nguyện. Chuyên viên lưu trữ, thích đi xa nhưng một mình, như một gã du mục, bị sa mạc quyến rũ vì chờ đợi một cái gì có tí người từ đó, và những người thổ dân da đỏ, bởi vì chúng ta có nhiều điều phải học từ họ, ông [Lé Clézio] là một trong số hiếm hoi những người kể chuyện vào thời buổi bây giờ, tiếp cận huyền thoại một cách trần tục. Ông tới Emberas [thổ dân Panama], là để tìm một sự hài hòa, giữa trí tuệ và thể xác, một sự cân bằng triết học. Nghe những tiếng nói thầm lặng, văn chương của ông không phải là thứ đi hoang, tìm thú tiêu khiển bằng cách chạy trốn thực tại, nhưng mà là tìm kiếm; một kho tàng giấu kín mà một độc giả chú tâm cuối cùng thể nào cũng tìm được: những căn nhà không tường, chốn thời gian quay tròn, một hạnh phúc chinh phục. Nhưng, chớ lầm, Le Clézio không phải là một nhà văn mơ mộng, mà là một nhà văn tố cáo, chiến đấu, khiêu khích. Nhân dịp hai cuốn sách mới ra lò của ông, chúng ta đi một đường lần theo những dấu vết của ông, một kẻ đi bộ im lìm, một kẻ mà, như con rồng thủ thư của Khổng Tử, ‘không phát kiến, không bịa đặt, không giả tưởng, nhưng mà là chuyển giao”
Le Magazine Littéraire
*
Đọc, lại nhớ
Tahar Ben Jelloun
giới thiệu
Con Bệnh Anh

Sinh tại Sri Lanka, Michael Ondaatje học tại Anh, hiện định cư tại Toronto, Canada, nơi ông dậy môn văn chương. Tác phẩm của ông nhằm hòa giải những văn phong và những văn hóa, như chúng vẫn thường đối nghịch. Nhà thơ, tiểu thuyết gia, người kể chuyện phương Đông này cũng còn là một nhà văn luôn thử nghiệm những hình thức mới. Thấu thị, và hiện thực, ông sở hữu cùng lúc, khiếu chi ly về cõi riêng thầm và cảm quan sử thi (le gout de l'intimité et le sens épique). Bởi vì ông quan tâm, chỉ bước đi của cuộc đời, và những giả tưởng của ông giống như những căn nhà miền nhiệt đới, với những kiến trúc di động, mặc tình cho gió, không khí, và nước, qua lại.
(Bệnh nhân Anh đã đoạt giải The Booker năm 1992, được Anthony Minghella đưa lên màn ảnh, và là phim hay nhất trong năm 1996. Lần đầu dịch ra Pháp ngữ với nhan đề Người cháy, L'homme Flambé, nhà xb Olivier, 1993. Bài giới thiệu dưới đây, bằng Pháp ngữ, là từ tủ sách Points, nhà xb Seuil, 1995.
Tahar Ben Jelloun, sinh năm 1944, người Ma-rốc, viết văn bằng tiếng Pháp, tác giả nhiều tiểu luận, tuyển tập thơ, truyện kể, kịch, giải thưởng Goncourt 1987 với cuốn tiểu thuyết Đêm Thiêng, La Nuit Sacrée).
*
Nguyên lý Ngàn Lẻ Một Đêm là nguyên lý tạo nên văn chương. Ông hoàng khát máu nói với Schéhérazade: "Kể cho ta một câu chuyện, nếu không ta giết mi." Nỗi hăm dọa của cái chết làm cô gái trẻ đẹp biến thành một người kể chuyện, với một trí tưởng tượng lạ thường. Nguyên lý Con Bệnh Anh có thể là giai đoạn thứ nhì của việc làm văn này, bởi vì bệnh nhân người Anh, toàn thân phỏng cháy, nói với Hana, người đàn bà trẻ đang săn sóc anh: "Đọc cho tôi những cuốn sách, nếu không, tôi chết." Anh ta chỉ vẽ cho cô, ngay cả tới cách đọc: "Kipling là phải đọc từ từ. Rình mò từng dấu phẩy, và cô sẽ khám phá ra những chỗ lặng tự nhiên. Đây là một nhà văn sử dụng ngòi viết, và mực."
Bệnh nhân Anh là một trong những cuốn sách mà người ta không thể không đọc. Với con người kỳ bí, căn cước mù mờ, lửa liếm gần hết mặt, người ta có thể mượn lời Jorge Sumprun, và nối điêu: Cái đọc, hay là cái sống; văn chương, hay là cái chết. (La lecture ou la vie; la littérature ou la mort). Bởi vì đây là sự sống sót và hồi ức dẫn về hiện tại, một hiện tại độc ác hơn, xấu xa ghê tởm hơn là quá khứ của những bậc tổ tiên, đã chết trong những cuộc chiến Tôn Giáo.
Câu chuyện bịa đặt bởi một nhà văn nhiều gốc gác, giằng buộc: Michael Ondaatje sanh tại Sri Lanka, học tại Anh, và hiện đang giảng dậy tại Toronto. Ông ở trong (dans) rất nhiều văn hóa, không chỉ ở giữa (entre) hai văn hóa. Khi người ta ở giữa, có nghĩa là, chẳng ở đâu. Tuy nhiên, như một số nhà văn không diễn tả bằng tiếng mẹ đẻ của họ, ông là mối nối, là cây cầu giữa hai thực thể. Ông cũng có một quãng cách đủ xa, với căn cước mượn của mình, để nói điều cần nói, để cầm cái gì khẩn cấp phải cầm. Cái nôi, hay là quê nhà của ông không thực sự xuất hiện ở trong cuốn tiểu thuyết. Thì cứ nói rõ ra ở đây: ông đã để cho Kip, anh chàng trẻ tuổi theo đạo Sikh, nói chiều sâu tư tưởng của mình, về những nền văn minh được gọi là giống trắng này; những nền văn minh mà hồ sơ luật pháp đã ngập đầu tại tòa án xét xử các quốc gia. Cõi dã man đâu có đặc quyền riêng một cửa khẩu nào. Nó ở ngay nơi người đàn ông cúi xuống quá khứ thú vật, nơi gợi nhớ gốc gác man rợ của mình.
    Bệnh nhân người Anh, do những vết bỏng da, do bộ dạng không còn, đã được đẩy, về trinh nguyên tư tưởng, về trần trụi kỷ niệm. Đọc chầm chậm, tái tạo cuốn sách đã thoát kiếp phần thư, phân biệt đâu là từ Kipling, đâu thuộc về Kinh Thánh, đó là một trong nhiều bổn phận, của cô y tá săn sóc anh ta; cô không rơi từ trên trời xuống như người bệnh của mình, nhưng đến từ tiền-xứ của nhà văn, người kể chúng ta nghe câu chuyện lạ kỳ, và cũng thật giản đơn cảm động.
"Đâu là nền văn minh tiên đoán thời gian và ánh sáng? El-Ahmar hay Al-Abiyađ, bởi vì đây chắc chắn là một trong những bộ lạc của sa mạc tây-bắc," người đàn ông mặt đắp cỏ, tự hỏi. Một bộ lạc văn minh có thể cứu được người đàn ông ở mấp mé bờ sinh tử. Hãy ngả mũ chào những người Bédouins,1 hay người Touaregs, những con người của sa mạc đang quan sát thân thể bị lửa đốt. Nhưng cuốn tiểu thuyết vượt quá những quan tâm liên-văn hóa. Cuốn tiểu thuyết là để đọc từ từ. Phải chú ý đến từng nhân vật, bởi vì câu chuyện cứ từng bước lộ diện. Phải chú ý hơn thế nữa, bởi vì nó được chế tạo, y hệt những trái bom mà anh chàng theo đạo Sikh đến để gỡ bỏ. Sẽ là một màn tứ tấu, bắt được trong bước nhẩy thầm, tại một nơi chốn, một biệt thự bên trên thành phố Florence, được dùng như một bệnh viện tình cờ. Mặt đất nhiều cạm bẫy, cũng như cuốn tiểu thuyết. Người gỡ mìn là một nghệ sĩ. Người đọc phải có tài. Và Michael Ondaatje thì chịu chơi, ông thích những thai đố, những câu chuyện, ông thích chữ viết.
Chúng ta có được ở nơi đây, tụ họp, rất nhiều định mệnh thêu dệt từ những xứ sở khác nhau (Ý, Canada, Ấn-độ, Anh, và chắc chắn rồi, Sahara, sa mạc của những sa mạc) và trên những niên biểu văn chương khác biệt. Những điển cố (Hérodote) được coi như là những cơ duyên (prétexts) để kể tên, những ngọn gió: Aajei, Africo, Arifi, Bis Roz, Ghibi, Haboub, Harmattan, Imbat, Khamsin, Datou, Nafhat, Mezzar-Ifouloussan, Beshabar, Samiel... tất cả là để gợi cho chúng ta, hãy chọn ngọn gió nào sẽ quét sạch văn minh Tây- phương. Bởi vì những cuốn sách, trầm luân; những trang, thiếu hụt; những nhà thờ, những pho tượng, những hồi ức bị chà đạp. Và Kip, chàng gỡ mìn, đã nhắc lại, lời nhắc nhở của người anh em: 'Đừng bao giờ quay lưng lại, về phía Âu-châu. Những con người này chuyên lo chuyện kinh doanh, khế ước, bản đồ. Đừng bao giờ tin tưởng những người Âu-châu.' Và những trái bom nguyên tử đã được bỏ xuống HiroshimaNagasaki. 'Một trái bom, rồi một trái bom nữa.'
Cuốn sách về sự độc ác của những con người, huỷ diệt chỉ vì mê hoặc; sửa sang chỉ vì ích kỷ; những con người chẳng hề áy náy, và họ khám phá ra rằng, sa mạc không chỉ là cát, mà còn là một nơi chốn diệu kỳ ấp ủ một nền văn minh lớn, của những người Bédouins, Touaregs, hay những người xanh. Người bệnh Anh đã mất bộ mặt, và chính sa mạc sẽ cho lại anh ta, kể cả khi cái chết còn đó, kỷ niệm cuộc chiến cận kề thì khốc liệt và sự bí ẩn thì tràn khắp, ở từng nhân vật.
Michael Ondaatje là một người kể chuyện biết rất rõ Tây-phương mà ông ta đang đốt cháy. Cách viết của ông, chính xác; những con chữ, sàng lọc; cấu trúc, đa dạng và xảo diệu; văn phong, nhiều tầng. Lối kể chuyện không đơn tuyến; nó sử dụng, không chỉ thơ mà luôn cả truyền thuyết, ẩn dụ, cũng như huyền thoại. Đây là một người phương Đông đọc rất nhiều về Tây-phương, và đã đang sống tại đó. Ông để cho một người Anh nói, (trong kỷ niệm của Hana): "Tình yêu thì nhỏ bé đến nỗi nó có thể rách bươm, khi chui qua lỗ trôn kim." Thật đúng là một hình ảnh mà một người Đông-phương có thể viện dẫn ra để tóm gọn, chỉ trong vài từ, quan niệm tình yêu, bằng cách bịa ra một nhân vật kỳ bí, có tên khiến người ta mơ mộng: Zerzura. Ông biến mỗi sinh vật thành một hành tinh, làm xáo trộn, gieo hỗn loạn. Và người đàn bà nói với người đàn ông: "Nếu anh làm tình với em, em sẽ không nói dối. Nếu em làm tình với anh, em sẽ không nói dối."
Cuốn tiểu thuyết là một lời thú nhận, Michael Ondaatje cho nghe nó. Nhưng chắc chắn, ông ta sẽ không trao cho chúng ta chiếc chìa khóa. Chìa khóa ở trong chúng ta, những độc giả chăm chú, và sững sờ. Cuối cuốn sách, người ta cảm thấy như bị cuốn hút vào "giải im lặng" (nappe du silence) mà Maurice Nadeau đã nói tới; nơi những từ chỉ là vô tích sự, và những sinh vật hiện hữu chỉ vì chúng. Những nhân vật tiếp tục sống, và chết giữa đôi tay của chúng ta. Và người ta tự nhủ, tác giả viết để giũ khỏi cõi tưởng tượng của mình vài vết phỏng, những vết thương cả một dân tộc cưu mang.
Nguồn
Note: Bài giới thiệu trên, là dành cho ấn bản tiếng Tây. Nhớ, lúc đọc, mê quá, mua cuốn luôn cuốn sách, chẳng cần biết hay dở!
*
1963. Lauréat du prix Renaudot, à vingt-trois ans, avec Le Procès-verbal (roman dont certaines pages ont été écrites à Nice dans les cafés et sur les plages)**. « Avant le Renaudot, on m'avait laissé entendre que j'aurais peut-être le prix Goncourt. Tout cela avait lieu de loin. Je n'avais pas le téléphone, tout se passait par lettre. Six mois avant le prix, l'éditeur avait soumis mon manuscrit au prix Formentor, ce qui m'avait rendu particulièrement heureux: je pouvais gagner un voyage dans "Île de Formentor. J'avais très envie de la connaître. C'était un rêve, comme si je recevais une lettre m'annonçant que je venais de gagner un voyage pour deux aux Antilles, dans un bon hôtel, etc. Uwe Johnson a obtenu le prix. J'étais très déçu, et lorsqu'on m'annonça que j'étais sur une autre liste je pensai: qu'importe! Puis le temps a passé ... Mon père avait pour habitude d'écouter la radio en déjeunant, c'est lui qui m'a appris que le prix Renaudot venait de m'être décemé.
« Que fais-tu ici? Tu dois aller à Paris! ", me dit-il. Je n'en voyais pas l'utilité. Finalement je m'y suis rendu. C'était assez cocasse. Je rencontrai des gens très impressionnants, comme Queneau ou Paulhan. Je faisais aussi des choses absurdes: dîners mondains, interviews, photos. Quel mélange bizarre…”

Le Clézio kể về lần ông được giải Le Renaudot. Trước Le Renaudot, nghe đồn, sẽ được Goncourt với cuốn đầu tay, Biên bản, [nhiều trang được viết ở Nice, trong quán cà phê, bãi biển. Bất giác, Gấu lại nhớ đến MBD, và cảnh NMG vừa gặm bánh mì, tại ghế đá công viên Quận Cam, vừa viết!]. Rồi nhà xb đưa sách dự giải Formentor. Hụt. Quê quá, rồi lại nghe đồn, cuốn sách lọt vô một giải khác, OK, con gà đen.... Thế rồi ông già của ông có thói quen nghe la dô, "mày được Le Renaudot đấy, đi Paris lãnh giải!" Tới Paris, gặp toàn thứ dữ, đóng vai nhà văn...
Trên TLS có bài điểm Le Procès-verbal, song song với một cuốn của Llosa, bài thật hay. Tác phẩm đầu tay mà được tờ này ưu ái, còn tiên đoán sẽ đi xa.
Gấu lại nhớ đến ông anh khen tác phẩm đầu tay của Gấu, Những Con Dã Tràng: Sẽ đi xa hơn DNM!

Why Rowan Williams is the best man for the job – of appreciating the greatness of Dostoevsky

La Chine, machine à laver les cerveaux

N.O: Nhưng bây giờ TQ có nhiều tự do.
Ma-Jian: Tôi sợ ngược lại. Tẩy não dữ dằn hơn trước. Nhờ mặt nổi kinh tế, nhà nước lại càng gia tăng chính sách trồng người. Và đám trẻ bây giờ coi chuyện nhà nước CS là hợp pháp, như ngày xưa nhà vua là con Trời. Họ đâu cần tới phán đoán cá nhân. Họ nhìn thế giới qua những qui định mà Đảng cấy vào trong người họ, qua học vấn, qua trồng người. Tôi tự hỏi, liệu họ còn cần tới cuộc sống tinh thần. Người TQ càng ngày càng giống người Singapore, họ chỉ tìm thấy sự thoả mãn, niềm tự hào…  cho tới nhân phẩm ở trong thương mại, trong sự làm giầu.
Nhưng Singapore là một hòn đảo nhỏ xíu…
TQ lớn lao hơn nhiều, và bởi thế, những vần đề của nó quỉ ma gấp bội. Hiện nay, cái hố cách biệt giữa nguời nghèo và giầu thật quá trầm trọng. Chỉ cần đi ra khỏi Bắc Kinh, là nhận ra cuộc sống thật quá khó khăn đối với đa số dân chúng. Đảng CS tìm cách bình thường hóa hoàn cảnh. Nhưng nên nhớ, mục đích của sự phát triển, đó là làm cho những con người càng ngày càng bị mất bộ não. Làm biến mất chiều hướng chính trị. Như ở Singapore, nơi đời sống tinh thần, về mặt thực tế, kể như không có.
Ông tin là một chế độ như thế sẽ kéo dài?
Thì coi chuyện sữa nhiễm độc thì biết. Nó gây ra một cuộc cách mạng ở Pháp. Ở TQ, làm gì có, dù chỉ một cơn giận dữ tập thể. Một tuần là quên. Tôi có thể  nói trước, cú tới, là nước nhiễm độc. Ngay cả những xì căng đan như thế cũng thành chuyện thường ngày ở huyện.
Người TQ không còn sống trong tự do và sự kính trọng?
Đúng là nhà nước muốn biến nó thành nhà tù lớn nhất thế giới. Bởi vì chỉ có cách đó, thì nhà nước mới an tâm.
Những người Tây Tạng cũng nổi dậy…
Đó là một cuộc nổi dậy kinh tế. Người dân Tây Tạng đã trở thành phó thường dân trong chính đất nước của họ. Người Hán ngày trước đã chiếm đất nước này, khai thác tài nguyên, giữ độc quyền hy vọng về một tương lai sáng sủa. Cuộc xâm lăng kinh tế này, người dân Tây Tạng không chấp nhận và họ muốn đuổi người Trung Hoa ra khỏi đất nước. Từ những lần du lịch đầu tiên tới Tây Tạng, cách đây hơn hai chục năm, tôi đã có cảm tưởng Tây Tạng là một nhà tù. Một nhà tù rộng lớn, lộ thiên. Phải có giấy phép đặc biệt mới được vô. Ngay cả có giấy tờ hợp pháp, một người dân Tây Tạng cũng không được ra khỏi. Người TQ đã tốn công xây dựng những cơ ngơi, và phục hồi tôn giáo…. Vô ích, bởi vì, đây là một nhà tù, nơi ngự trị của sự cưỡng bức và sự khinh bỉ.


Nhạc PD vs Tù VC


Tôi không có ý bàn về câu phát biểu của TGM Ngô Quang Kiệt, hay bàn về văn cảnh, ngữ cảnh bị các cơ quan truyền thông nhà nước bóp méo, trích dẫn xuyên tạc… Hoặc dư luận xoay chung quanh phát biểu này, kẻ nhấn từ « nhục nhã », người nhắm chữ « hộ chiếu » hay là phân tích các động tác « cầm » (lên), « ném » (xuống), « bỏ » (vào sau túi)… Tôi chỉ nhân dịp này mà nhắc đến một số chuyện vui nước ngoài, và trong giới hạn này (nghĩa là chuyện nước ngoài), tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Đỗ Kh.
*
Tất cả những trường hợp về nỗi buồn quốc tịch, mà Đỗ Kh nêu ra trong bài viết, đều khác hẳn nỗi nhục mà vị TGM Kiệt đã nói tới, trong lần gặp gỡ nhà nước.

Đa số, khi đọc, đều bị sốc, và đều cảm thấy bản thân mình bị đau, bị nhục, và chính vì lý do này, báo chí trong nước tách câu này ra khỏi bài viết, và cứ thế mà đánh, và do đó, cái tay Bắc Kỳ di cư, bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC, mới cho rằng, TGM nói hớ hênh, không còn một chút sáng suốt…
Thuốc đắng rã tật, Gấu này không tin là vị TGM không lường được hết những hậu quả câu nói của ông.
*
Gấu lại nhớ đến trường hợp xẩy ra cho Gấu.
Trong một bài viết về NHT, khi phải giải thích “vấn nạn”, tại sao ông nhà văn Miền Bắc lại làm nhục Nguyễn Huệ, vị anh hùng của dân tộc, khi gán cho ông vua võ biền này những câu nói, những hành vi chẳng khác một kẻ vô học, lần ra Bắc đuổi Mãn Thanh, thí dụ, sai người nhét cứt vào miệng sĩ phu Bắc Hà… và Gấu đã giải thích: Chỉ có cách đó thì mới làm cho đám sĩ phu Bắc Hà tỉnh ra được thôi.
Vị TGM, một cách nào đó, cũng đã làm như vậy.
Gấu nhớ là, một anh nhà văn ra đi từ Miền Bắc, khi đọc đoạn Gấu giải thích "cas" NHT, đã lắc đầu, nói, anh viết như vậy, ngay tôi cũng thấy đau. Còn NHT, khi Gấu về HN, gặp, và kể lại, đã giật mình: Anh viết như thế tụi nó làm thịt tôi mất!
*

Trên Hợp Lưu, 6/92, sau khi đọc Mùa Mưa Gai Sắc, của Trần Vũ, và Phẩm Tiết, của Nguyễn Huy Thiệp, Trương Vũ đã đặt câu hỏi, tại sao phải là Nguyễn Huệ? "Hai truyện ngắn đó là những sáng tác phong phú, xuất sắc, cá biệt. Những sáng tác 'không' và 'không thể' "bôi nhọ anh hùng dân tộc". Người đọc tinh ý thừa sức thấy rõ điều đó. Chẳng những vậy, nhân vật được gọi tên là Nguyễn Huệ được xây dựng với những nét rất sắc, rất mạnh, và rất độc. Nhưng người đọc cũng 'táng đởm' vì những nét đó. Không vì đó là những nhân vật a-b-c của truyện, mà vì đó là một nhân vật có thật và có như mọi người được biết. Ở đây, người đọc không thấy được sự công bình cũng như không hiểu được sự gán ghép để có một cách hư cấu như vậy. Câu hỏi do đó, vẫn là: Tại sao phải là Nguyễn Huệ?"
Đụng vào một nhân vật lịch sử cỡ như Nguyễn Huệ, không phải chuyện chơi! Ngoài lý do như Trương Vũ đưa ra, "mà vì đó là một nhân vật có thật, và có như mọi người được biết", còn một lý do liên can đến cả một thời thơ ấu của mỗi con người. Joseph Brodsky, trong bài viết "Homage to Marcus Aurelius", kỷ niệm lần đầu ông tới Rome, pho tượng vị hoàng đế La Mã làm ông nhớ đến cô giáo dậy môn sử, và cùng với cô giáo, những âm thanh huyền hoặc Caesar, Augustus, Flavius... toàn những âm thanh có thể đánh thức quỉ sứ dưới địa ngục! Đó là lý do, theo ông, trẻ con mê môn sử. Một Nguyễn Huệ, áo bào còn đen kịt, sặc mùi thuốc súng, vào Thăng Long đúng ngày Tết, sông Hồng nghẹt xác giặc, đã ăn sâu vào bộ óc non nớt của chúng ta, không dễ gì bôi xoá. Và cái trách nhiệm "trồng người" không dễ dàng, khi cố tình xuyên tạc lịch sử. Cho dù vậy, đây là "nhiệm vụ" của nhà nước, không phải của nhà văn.
Theo chân C. Lévi-Strauss, người viết xin mượn ý tưởng của T. Tolstaya, để khai mở "huyền thoại" Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết "Những Thời Ăn Thịt Người" (Thế Kỷ 21, bản dịch), bà cho rằng, Á Châu sống bằng lịch sử, trong khi Âu Châu, bằng văn minh. Có thể vì sống bằng lịch sử, cho nên, những nhân vật từ đời thuở nào vẫn "bị", hoặc "được" đội mồ sống dậy, nhập thân vào những anh hùng, cha già dân tộc. Có thể cũng vì vậy, câu nói "sĩ phu Bắc Hà chỉ còn có tôi", của Nguyễn Hữu Chỉnh, và hình ảnh một Nguyễn Huệ tới Thăng Long, làm tan hoang phủ Chúa, cung Vua, rồi bỏ đi, vẫn "nhức nhối" cho tới bây giờ. Tôi cũng cố tưởng tượng ra một Nguyễn Huệ "của tôi", và tôi nghe Người vừa lắc đầu, vừa lẩm bẩm, khi đứng trước những miếu đền, những ngàn chương sử nay chỉ là một đống tro tàn: "Ta tìm gì ở đây?" "Nơi này, ta không sinh ra, và cũng chẳng hề muốn sống ở đó".
Hình như có một tác giả ngoại quốc đã để những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp kế bên một số truyện của Borges. Trong bài viết "Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết: Nghề văn, nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần - tất cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần tình yêu, anh ta được chia, và luôn cả, tình yêu không được chia. Theo một nghĩa nào đó, nhà văn là một kẻ mơ-ngày, một kẻ sống cuộc đời kép. Anh ta bắt đầu viết, bằng cách bắt chước những nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách nhà văn trở thành chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung cách kỳ cục của một cuộc sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc, trong thực tại khác - thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc mơ". Trường hợp Nguyễn Huy Thiệp, tôi nghĩ, thực tại "thực" của ông, một "nhân sĩ Bắc Hà", và một trong những thực tại "mộng", của ông: Nguyễn Huệ. Có thể, theo ông Thiệp, cái cảnh Nguyễn Huệ "nhét" gì gì đó, rất cần cho sự sống lại của "tinh thần Bắc Hà", không phải theo kiểu, "chỉ còn có tôi" của Nguyễn Hữu Chỉnh, hoặc "tôi nhét điếu thuốc vào mồm tên giặc lái", của Nguyễn Tuân. Tại sao lại là Nguyễn Huệ?
Bởi vì còn bao nhiêu kẻ muốn bắt chước ông, "chỉ có một nửa": tới Thăng Long rồi ở lì lại. Phải chăng, chính vì vậy mà đã xẩy ra cơn xuất huyết não, hiện tượng chất xám thiên di vào Nam, hoặc ra hải ngoại, theo kiểu "cái cột đèn đi được nó cũng đi", hoặc, "Tôi ở đâu, văn chương Đức ở đó", của Thomas Mann, khi bỏ nước Đức qua Hoa Kỳ, hoặc "Nước Nga bây giờ ở ngoài nước Nga", của Solzhenitsyn, khi bị bắt bí, "Đi thì đi luôn, đừng trở về", mà nhà nước Xô viết đã từng "hù dọa", và đã thành công, với Pasternak.
Câu hỏi, tại sao phải là Nguyễn Huệ chỉ có thể giải đáp, cùng một lúc, với câu hỏi, tại sao lại là Nguyễn Huy Thiệp? Trong bài viết, "Tác giả là cái gì?" (bản dịch tiếng Anh: What Is an Author?), M. Foucault, cho thấy, ý niệm tác giả xuất hiện vào một thời điểm đặc biệt của quá trình "cá nhân hóa" (individualization), trong lịch sử tư tưởng, tri thức, văn chương, triết học, và khoa học. Những bản văn, những cuốn sách, những bài viết/nói bắt đầu có tác giả... khi họ trở thành những mục tiêu để trừng phạt. Tác giả được nêu tên, khi cần một ai đó, để buộc tội! Ông viết thêm, trong văn hóa của chúng ta, (và chắc là trong nhiều văn hoá), thoạt kỳ thủy, bài viết/nói (le discours), không phải là một sản phẩm, một món hàng, mà thiết yếu là một hành động, được đặt trong "trường nhị cực" (bipolar field), một đầu là sự thiêng liêng, đầu kia là sự báng bổ. Theo tính cách lịch sử, đây là một động tác đầy rủi ro. Nhìn theo quan điểm đó, chúng ta mới thực sự thông cảm, hành động "đầy rủi ro", của Nguyễn Huy Thiệp. Trong thế giới toàn trị, văn chương bắt đầu, khi có kẻ dám nói "tôi", thay vì "chúng ta", khi có kẻ dám nghi ngờ, điều thiêng liêng chưa chắc đã thiêng liêng, và tin rằng, điều báng bổ có khi thật cần thiết...


 Gấu có nhớ nhà không?


 Tình đầu

Khi gặp BHD, cô bé 11 tuổi, cũng là lúc nỗi nhớ Hà Nội không còn sôi sục như những ngày vừa mới di cư, nhưng đã lặn sâu vào trong xương trong tuỷ, đột nhiên sống dậy, và thế là những gì gì, người nữ muôn đời, thánh nữ… tất cả hiển hiện mồn một trên bộ mặt đen nhẻm với chiếc răng khểnh, cặp mắt thông minh, dò hỏi, tại sao mi nhìn ta như vậy? Mi nghĩ ta là Hà Nội của mi, hử?
Rồi những mối tình sau đó, hình như cũng bị ảnh hưởng bởi mối tình đầu với một cô bé con, thành thử chẳng có mối tình nào có tí mùi sex, mùi lá khô vì đợi chờ, mùi lá ướt tèm nhẹp, mùi cỏ ngai ngái…
Thảm thật, thảm thật!
Thánh thiện thật, thánh thiện thật.