Diary
|
A 30 ans, Ma Jian
entreprend
un voyage de trois ans à travers la Chine.
Il en tire “Chemins de poussière
rouge” et « la Mendiante de Shigatze », qui sera censuré par le régime
de
Pékin.
N.
O. -
Croyez-vous qu'un tel
régime puisse durer longtemps?
Ma
Jian. - Prenez cette horrible
histoire du lait empoisonné, qui aurait suscité une révolution en France.
En
Chine, pas de colère collective. Dans une semaine, on l'aura oubliée.
Puis
éclatera une nouvelle affaire. Je peux déjà vous prédire le prochain
scandale,
qui va porter sur l'eau minérale, empoisonnée par un produit très
toxique. Même
la colère susscitée par ces scandales devient une routine.
N.
O. - Les Chinois ne
vivent
pas non plus dans la liberté et le respect?
Ma
Jian. - C'est vrai que la
Chine vise à devenir la plus grande prison du monde, puisque c'est
seulement
ainsi que le PC trouve un semblant de sécurité...
*
Ông
tin là một chế độ như
thế sẽ kéo dài?
Thì
coi chuyện sữa nhiễm độc thì biết. Nó gây ra một cuộc cách mạng ở
Pháp. Ở TQ, làm gì có, dù chỉ một cơn giận dữ tập thể. Một tuần là
quên.
Tôi có thể nói trước, cú tới, là nước nhiễm độc. Ngay cả những xì
căng đan như thế cũng thành chuyện thường ngày ở huyện.
Người
TQ không còn sống
trong tự do và sự kính trọng?
Đúng là nhà nước
muốn biến nó thành nhà tù lớn nhất thế giới. Bởi vì chỉ có cách đó, thì
nhà nước mới an tâm.
*
Ui
chao, giá
trong
nước Mít có một tay nhà văn như thế này, nhỉ!
Tin
Văn sẽ dịch toàn bài phỏng vấn trong những ngày tới [Ma Jian, tác
giả Hôn
Thụy Bắc Kinh trả lời
tờ Người
Quan Sát Mới, số
2-8 Tháng 10, 2008]
Trái tim tôi, Pháp; trôn,
quốc tế!
“There
is powerful literature in
all big cultures, but you can't get away
from the fact that Europe still is the centre of the literary world ...
not the United
States,"
he told the Associated Press. "The US is too isolated, too
insular.
They don't translate enough and don't really participate in the big
dialogue of
literature ...That ignorance is restraining."
"Văn
chương mãnh liệt thì có ở tất cả các nền văn hóa lớn, nhưng Âu châu vẫn
là trung tâm của thế giới văn học... không phải Mẽo", thư ký thường
trực Uỷ ban Nobel nói với hãng tin AP. "Mẽo quá cô lập, thiển cận, hẹp
hòi, văn chương ốc đảo. Họ dịch chưa đủ, chưa thực sự gia nhập vào
trong cuộc đối thoại lớn về văn chương... Sự ngu si dốt nát này
đã ngăn trở họ."
Note: the centre of
the
literary world: trung tâm của thế giới văn học, không phải trung tâm
văn học
của thế giới, như e-Văn dịch (1). Sự lầm lẫn này, một ông dịch giả của
Da
Mầu cũng
đã mắc phải, vì không phân biệt được, đâu là danh từ, đâu là tính từ.
Thay vì “trái
tim của bóng đen”, ông dịch ngược, “bóng đen của trái tim”! Tiếng Việt
tưởng là
dễ, mà rất khó, do tự loại không rõ ràng, nhưng trong cái dở lại có cái
hay, biết tận
dụng cái hay của nó, thì mới là nhà văn Mít được!
(1)
“Tất nhiên, những nền văn hóa
lớn đều có nền văn học phát triển. Nhưng bạn không thể phủ nhận một
thực tế
rằng, châu Âu, chứ không phải Mỹ, mới là trung tâm văn học thế giới”
e-Văn.
Đúng là dịch ẩu! Ông thư ký [nhà giây thép] Nobel phán: "Có văn chương
mãnh liệt trong tất cả những nền văn hóa lớn", dịch làm sao mà thành: “Tất nhiên, những
nền văn hóa
lớn đều có nền văn học phát triển"!
Chỉ nội cái tít không thôi,
là đã lộ ra tâm địa khốn nạn rồi. Trong bài viết, còn sử dụng những từ
ngữ hình
ảnh phải nói là vô lại, thí dụ:
…cần thời gian để hoa độc và
cỏ dại biến khỏi 42 Nhà Chung.
… toà tổng giám mục chấm dứt
sự lầm lẫn giữa tự do tôn giáo và phương pháp Chí Phèo.
Gấu không phải dân Ky Tô, mà
cũng thấy tởm! NQT
*
« Chúng tôi đi nước ngoài rất
nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam ».
Nếu còn một chút sáng suốt,
chắc TGM Kiệt cũng thấy ngay là mình hớ hênh, nói khích không phải chỗ.
[Trích]
Một TGM đại diện cho bao
nhiêu giáo dân, nói chuyện với nhà nước, trong một sự kiện quan trọng
như vậy,
mà ‘hớ hênh, nói khích không phải chỗ’?
Nói khích? Đâu có phải mấy
đứa vô lại, côn đồ, vô học nói chuyện với nhau mà có chuyện “nói khích”
ở đây?
Cái nhục đó, nói vào dịp này,
chứ nói vào dịp nào nữa?
Một người gác bỏ việc đời,
chuyên lo thờ phụng Chúa, lo cho giáo dân, mà đành phải lôi chuyện nhục
nhã ở
cõi đời, cõi VC ra, để mà nói, đau đớn cỡ nào, ngoài cái nhục làm dân
Mít?
Cả cái thư, có chỗ nào cho
thấy vị TGM nói hớ hênh nói khích, tại sao đột nhiên có câu đó?
Nếu còn một chút sáng suốt? Mi "sáng suốt", khi đặt một cái tít anh/ ả, như thế? NQT
*
Vụ đụng độ giữa nhà nước VC và
Ky Tô giáo, bất cứ một người dân Mít nào, Ky tô hay không Ky tô, nếu là
người ‘sáng
suốt’, là sẽ cố gắng tìm cho mình một mảnh đất dung hòa [một miếng ván
trên mặt
nước lụt, thí dụ]. Lôi cái tội từ thời tổ tông ra [Ky tô giáo theo
Pháp, Việt gian,
bán nước], lôi mấy ông mũi lõ chống Cộng điên cuồng ra… thì
chỉ có dân Mít là thua thôi, chứ không phải
Ky tô giáo. Cái kiểu “ẩn dụ” hoa độc cỏ dại ở 42 Nhà Chung, là quá khốn
nạn, vì
biết rõ mảnh đất này bị nhà nước lấy làm vườn hoa, sau khi mấy anh VC
Đỏ tính ăn cướp
trắng trợn chia nhau không xong. Khi tâm địa không khá, thì viết ra bất
cứ cái
gì cũng khốn nạn. Đòi đất chỉ là cái cớ, để coi nhà nước đối xử với tôn
giáo ra sao, nếu nói "không sáng suốt", thì đó chính là nhà nước. Bởi
vì chỉ cần
mời TGM tới, hai bên từ tốn nói chuyện, không phải chuyện đòi đất, trả
đất, mà
là tương lai của đạo và đời, thí dụ vậy, và tương lai của đất nước….
Writing without frontiers ...
Mario Vargas Lllosa
He's following in
the
footsteps of Roger Casement, a British consul turned Irish nationalist
who was
hanged for treason in 1916 and painted as a paedophile by the British
government for what he is said to have written in the so-called Black
Diaries.
Casement is to be the protagonist of "a novel that will take place in Ireland, Congo,
in Berlin and the Amazon,
including places I
have never been to, such as Ulster,"
he says, with genuine excitement at the prospect of the journey that
awaits.
"There
are many things
that haven't changed in Congo.
It is one of the most tragic countries in the world, which endured a
terrible
colonial experience [at the hands of brutal Belgian king Leopold II].
And it
has only got worse since," he says.
"It
is calculated that
in the last 10 years four to five million people have been killed in Congo, yet it
barely gets reported in the newspapers. In many ways the Congolese are
still
living with the same problems they faced in the era of Conrad and
Casement."
Ông ta [Llosa] đi
theo những vết chân của Roger Casement một nhân viên Hồng Mao trở thành
một nhà
ái quốc Ái nhĩ lan và bị treo cổ vì tội phản quốc vào năm 1916…
Casement sẽ là
một nhân vật trong một cuốn "tiểu thuyết đặt để tại Ái nhĩ lan, Congo, Berlin,
và Amazon, bao gồm cả những nơi chốn mà tôi chưa tới như Ulster”, ông nói,
thực tình hào hứng về viễn tượng một chuyến đi đang chờ đợi.
“Có
rất nhiều điều
chẳng thay đổi ở Congo.
Đó là một trong những xứ sở thê thảm nhất trên thế giới, nơi đã trải
qua kinh
nghiệm thực dân thuộc địa khủng khiếp, và cứ tệ mãi đi kể từ đó". "Theo
như tính
toán thì trong 10 năm vừa qua, từ bốn đến năm triệu người đã bị giết ở Congo, nhưng báo
chí gần như vờ luôn. Trong rất nhiều đường hướng, người dân Congo vẫn sống
với cùng những vấn đề mà họ đã đối diện thời kỳ có Conrad và Casement."
Không hiểu cái tên
ngu đần chê bai, dè bỉu phim Tận Thế
Là Đây của Coppola, và còn viết ra điều đó
bằng tiếng Anh tiếng U, đăng trên Guardian,
đã vỡ cái ngu ra chưa, khi gọi đó là
Khải Huyền Dối Trá?
Coppola,
khi làm
phim trên, đã mường tượng ra được, có một cái gì đó nối kết một xứ sở
Mít, thời
nội chiến lần thứ hai, với một Congo
thời Conrad.
Tận Thế Là Đây là Việt Nam!
Khủng khiếp thật!
Nhạc PD vs Tù VC
Cũng chuyện vay mượn
Ai quan tâm đến phê bình
chắc là nhận ra, những phát biểu về phê bình được nhắc tới trong bài
viết thì đều đã có những người phát biểu, không ai thực sự là người thứ
nhất nói ra những điều đó.
Thí dụ thuật ngữ phê bình báo
chí là dùng để chỉ đám chuyên môn điểm sách, so với đám phê bình
trường lớp.
Chẳng có ai thực sự là tác
giả của những nhận định như vậy. Trước, chắc là có, nhưng chẳng ai còn
nhớ, hoặc chẳng
thèm nhớ, có thể vì thế mà Barthes đề nghị nên làm thịt tác giả, chỉ
tha cho
độc giả?
Riêng Gấu cho rằng, có hai
quan điểm về phê bình, thật độc đáo của thời chúng ta, đều "của"
Barthes.
Một,
phê bình là siêu ngôn ngữ, hay ngôn ngữ bậc nhì, chuyên trị ngôn ngữ
bậc
nhất, viết về đời sống, của giả tưởng.
Từ đó, Barthes coi phê bình
là một bản văn choàng lên một bản văn. Bởi thế, ông coi phê bình gia
cũng là nhà văn.
Thứ nhà văn bậc hai này, Mít
chưa có!
Chúng ta chỉ có thứ 'ngự sử
văn đàn', chuyên xoa đầu nhà văn, hoặc làm
cớm chuyên đi bắt mấy tên ăn trộm, ăn cắp, hoặc bơi móc đời tư, hoặc
trù dập những tên không cùng phe cánh với mình.
Hoặc ra lệnh cho đệ tử, hoặc
chính họ, dùng đủ thứ bút hiệu lạ hoắc,
như một bầy chó, sủa kẻ dám đụng tới họ! Đây là tinh thần "ê kíp" mà
băng đảng DA ngày nào đã từng áp dụng với Gấu.
Một, có hai thứ nhà văn, một, nhà
văn, écrivain, và một, nhà
dùng văn, écrivan.
Nhà văn khi viết, bằng mọi
cách đổi mới nó, cố viết khác đi, so với lối
viết cũ, mòn, quen thuộc, đương thời...
Nhà dùng văn, là người sử
dụng ngôn ngữ, cho một mục đích nào đó,
thường là ở bên ngoài ngôn ngữ, văn học.
Đó
là tên một tác phẩm của
E.M. Forster. Ông này nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết Nẻo tới Ấn [A Passage to India], nhưng còn
là nhà phê bình. Nhân đọc bài viết về ông trên TLS, số 19 Tháng Chín,
2008, Gấu
mới nhận ra còn một thứ phê bình nữa, mà chưa anh Mít nào phát kiến,
ngoài phê
bình báo chí, phê bình khoa bảng, là phê
bình la-dô, radio review.
Chắc
là còn một thứ nữa, phê bình net.
Hai
thứ phê bình sau là "của Gấu đấy nhé"! (1)
(1).
Đây là mô phỏng một câu chuyện tếu do HHT kể, về một ông chú nhà
quê được cô cháu mời lên Hà Nội ăn đám cưới của cô. Ông chú mang theo
cái ô, thấy quê quá, bèn giấu, giấu đâu không giấu, giấu ngay trong
phòng sắp động. Tiệc xong, ra về, nửa đường nhớ ra, bèn quay lại lấy,
mò vô, chui xuống gầm giường, nghe anh con trai hỏi cô gái, mắt này của
ai, của anh đấy, môi này của ai, của anh đấy, ngực này của ai... khi
tới chỗ đó đó, ông chú hoảng quá, bèn chui ra, nói, "Còn cái ô, là của
chú đấy nhé"!
*
A number of
mysteries
surround Forster which these books help unravel. Why did he stop
writing novels
after 1924? As a contemporary of D. H. Lawrence, James Joyce and
Virginia
Woolf, what was his relation to Modernism? In lectures at Cambridge in the
1940s, he addressed Wilde's
assertion that criticism can be creative. Forster depicts the act of
creation
as an unconscious dreamlike process, as against criticism, which
requires
conscious effort - a key distinction, which, he claims, escaped Wilde. His
chief example was Coleridge, an undistinguished poet until he took the
opium
which transformed him into the creator of "Kubla Khan" and "The
Ancient Mariner". As the same drug began to destroy the creative
impulse
he turned to the philosophy which gave us Biographia Literaria. The
death of
the creator proclaimed the birth of the critic.
Đoạn trên, nhất là
khúc gạch
đít, một cách nào đó, giải thích lời
phán của Hồ Nam
về Gấu, bỏ sở trường lấy sở đoản, tức bỏ sáng tác, viết ba cái lăng
nhăng tạp
ghi, bầy đặt trí thức, trí thiếc!
Tình
đầu
Những con phố sau
của thành
phố, ở giữa Taskim và Tepebasi, là nơi tôi đã qua lại nhiều lần, khi là
một đứa
bé, cùng với mẹ tôi, khi hai mẹ con trở về nhà, bằng dolmus, và đối với
một đứa
bé sáu tuổi, là một khoảng đất xa, và những khu xóm Pera, được những
người
Armenians xây dựng lên một cách thật tài tình, nhờ vậy chúng vẫn còn
đứng vững
– đó là những nơi chốn mà tôi lúc này bắt đầu thám hiểm. Đôi khi tôi sẽ
đi
thẳng từ phân khoa Đại học Kiến trúc tới Taskim, bằng cách nhẩy lên bất
cứ một
chiếc xe buýt nào, và đi bất cứ hướng nào tùy hứng bất tử của tôi,
hay là
của cặp giò: những con phố chính, nhỏ hẹp của khu Kasimpasa; Balat, nơi
này, lần
đầu viếng thăm, nom có vẻ giả, giống như một khu phố được dàn dựng cho
một phim
ciné; những khu xóm cổ của người Hy lạp và Do Thái, những đợt di dân
mới và sự
nghèo khổ làm cho chúng thay đổi đến không còn nhận ra được nữa; những
con phố
sau rất sáng sủa, rất Hồi giáo của khu Uskudar, vốn đầy những căn nhà
gỗ, cho
mãi đến thập niên 1980; những con phố cổ, kỳ quái, đáng sợ của khu
Kocamustafapasa biến thành điêu tàn hoang phế, hoàn toàn biến dạng bởi
những cú
đánh liên tiếp của cuộc “cách mạng bê tông”, khi những building được
xây dựng
lên một cách hối hả, với những phòng ốc lầm lì dễ sợ, và riêng với tôi,
chúng
thật đáng ngờ; cái sân dị thường của ngôi giáo đường Faith luôn làm tôi
sững
sờ, khu vực chung quanh Bakili, khu xóm Kurtulus và Ferikoy, nghèo đến
đâu già
nua tàn tạ tới đó khiến có cảm giác những gia đình trung lưu như đã có
mặt tại
những nơi chốn này từ hàng ngàn năm, thay đổi ngôn ngữ, sắc dân, tôn
giáo do
nhà nước áp bức bắt buộc họ (sự thực, họ
mới ở đó chừng năm chục năm); những lối xóm nghèo hơn thì vắt vẻo ở
những dẻo
đất dốc, thấp hơn (y hệt như ở khu Cihangir, Tarlabasi, và Nisantasi) –
tôi lơ
ngơ, ngớ ngẩn, mầy mò đi qua những khu vực này, chẳng cảm thấy một chút
chủ ý
gì. Ngay từ thoạt kỳ thuỷ của những chuyến đi hoang như thế này, tôi
cũng chẳng
hề có một chủ ý, chỉ tìm cách chạy thoát thế giới, ở trong đó
mọi
người, ai cũng phải có một việc làm, một bàn giấy, một văn phòng.
Nhưng, ngay
cả khi tôi mầy mò thám hiểm thành phố, từ bức tường này tới bức tường
tới, từ
con phố này qua con phố khác, tôi đổ xuống đó nỗi buồn ma quỉ, giận dữ
của
riêng tôi. Ngay cả bây giờ, mỗi khi có dịp đi qua, cũng vẫn những con
phố xưa,
nhìn giếng nước xóm nghèo tàn tạ, hay, nhìn xuống một lối đi và thấy
Mũi Vàng
lóng lánh giữa bức tường của ngôi giáo đường và một căn phòng của một
building
mái dệt bằng một thứ ngói khảm đỏ xấu xí, và tôi sẽ nhớ ra, lần đầu
tiên nhìn
cảnh này tôi thấy sao xuyến như thế nào, và bây giờ, cảnh ấy người xưa
lại đối
mặt, cũng từ một góc nhìn cũ: Không phải hồi ức của tôi sai lầm, hay
giả trá,
cái nhìn ngày xưa sao xuyến bởi vì người xưa lúc đó xuyến sao. Tôi đổ
hồn tôi
xuống những con phố của Istanbul,
và nó vẫn còn đọng lại ở trong đó.
Nếu
chúng ta sống trong một
thành phố đủ lâu để gửi cho nó gìn giữ, ở trong những
toàn
cảnh, những viễn tượng của nó, những tình cảm chân thật nhất, sâu thẳm
nhất của chúng ta, thì sẽ có một lúc – đúng như một bài hát gợi nhớ lại
một
tình yêu
đã mất - những con phố đặc biệt, những
hình ảnh, và viễn cảnh sẽ làm cũng như vậy. Cũng có thể, bởi vì tôi đã
nhìn
thấy quá nhiều những xóm nghèo và những con phố sau, quá nhiều những
cảnh đồi
trong những lần lang thang trong thành phố sau khi đã mất tình yêu
thoảng mùi
trái hạnh, mà Istanbul
buồn như thế đối với tôi.
*
Lần cuối cùng gặp cô bé, khi
mối tình đã tan vỡ. Cô lúc này coi Gấu như một người thân, nói: H. mới
đi chợ
cho mẹ, lỡ tiêu quá một chút, anh đưa H. để bù vô. H. rất ghét phải
giải
thích...
Em
gái của cô, mỗi lần thấy
bố vô phòng, là bỏ ra ngoài.
Lần
cuối cùng hẹn gặp trước
khi Gấu lấy vợ. Cô đang học y khoa, ở tít mãi trong Chợ Lớn. Chỗ gặp
mặt là một
quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ cô bé đưa em đi học
tại một
trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang bữa ăn chiều như
nhớ ra,
kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi sáng em thấy chị đi
với
anh Gấu."
Bạn
bè, cô, và cô em gái vẫn
gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ nói cho cả nhà
nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại những kỷ niệm
cũ.
Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.
Sau
này, anh nghe cô kể lại:
Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng
đường
Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này
điên
rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần
anh nói
anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Bữa
đó, mưa lớn thật. Gấu đội
mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ hồ hy vọng những
đợt mưa
xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những kỷ niệm về một
cô gái độc,
và đẹp...
|
|