*

Diary




















“There is powerful literature in all big cultures, but you can't get away from the fact that Europe still is the centre of the literary world ... not the United States," he told the Associated Press. "The US is too isolated, too insular. They don't translate enough and don't really participate in the big dialogue of literature ...That ignorance is restraining."

"Văn chương mãnh liệt thì có ở tất cả các nền văn hóa lớn, nhưng Âu châu vẫn là trung tâm của thế giới văn học... không phải Mẽo", thư ký thường trực Uỷ ban Nobel nói với hãng tin AP. "Mẽo quá cô lập, thiển cận, hẹp hòi, văn chương ốc đảo. Họ dịch chưa đủ, chưa thực sự gia nhập vào trong cuộc đối thoại lớn về văn chương...  Sự ngu si dốt nát này đã ngăn trở họ."

Note: the centre of the literary world: trung tâm của thế giới văn học, không phải trung tâm văn học của thế giới, như e-Văn dịch (1). Sự lầm lẫn này, một ông dịch giả của Da Mầu cũng đã mắc phải, vì không phân biệt được, đâu là danh từ, đâu là tính từ. Thay vì “trái tim của bóng đen”, ông dịch ngược, “bóng đen của trái tim”! Tiếng Việt tưởng là dễ, mà rất khó, do tự loại không rõ ràng, nhưng trong cái dở lại có cái hay, biết tận dụng cái hay của nó, thì mới là nhà văn Mít được!
(1) “Tất nhiên, những nền văn hóa lớn đều có nền văn học phát triển. Nhưng bạn không thể phủ nhận một thực tế rằng, châu Âu, chứ không phải Mỹ, mới là trung tâm văn học thế giới” e-Văn.
Đúng là dịch ẩu! Ông thư ký [nhà giây thép] Nobel phán: "Có văn chương mãnh liệt trong tất cả những nền văn hóa lớn", dịch làm sao mà thành:
“Tất nhiên, những nền văn hóa lớn đều có nền văn học phát triển"!


A  DECLARATION OF INDEPENDENCE
Tuyên ngôn Độc lập

Writers are citizens of many countries: the finite and frontiered country of observable reality and everyday life, the boundless kingdom of the imagination, the half-lost land of memory, the federations of the heart which are both hot and cold, the united states of the mind (calm and turbulent, broad and narrow, ordered and deranged), the celestial and infernal nations of desire, and-perhaps the most important of all our habitations-the unfettered republic of the tongue. These are the countries that our Parliament of Writers can claim, truthfully and with both humility and pride, to represent. Together they comprise a greater territory than that governed by any worldly power; yet their defenses against that power can seem very weak.
Salman Rushdie
Nhà văn là công dân của nhiều xứ sở: xứ sở hữu hạn, có biên giới, của thực tại quan sát được và đời sống thường nhật, vương quốc không bến bờ của tưởng tượng, miền đất mất một nửa của hồi ức, những liên bang của trái tim, nóng và lạnh, những hiệp chúng quốc của cái đầu (êm ả hoặc giông bão, rộng rãi hoặc chật hẹp, ngăn nắp hoặc hoặc xô bồ), những thiên đàng hoặc địa ngục của đam mê, thèm muốn, và có lẽ, xứ sở quan trọng nhất của tất cả những cư ngụ – xứ cộng hoà không thể nào bị kìm kẹp của tiếng nói. Đó là những xứ sở mà Nghị viện của những nhà văn có thể tuyên bố, một cách chân thực, và với cả hai, sự tủi nhục và lòng tự hào: Chúng tôi đại diện cho chúng. Cộng tất cả những xứ sở đó lại, chúng lớn lao hơn bất cứ một lãnh thổ nào được cai trị bởi bất cứ một quyền lực nào ở trên trái đất này, tuy nhiên, sự chống đỡ, bảo vệ của Nghị Viện Nhà Văn, chống lại quyền lực trần gian kia, xem ra hơi rất bị yếu.

tặng cho em nguyên một đóa trăng rằm

thôi câu chuyện tình nói cho nhiều rồi cũng vậy
trăm năm dài rồi sẽ đụng nghìn năm
tất cả qua đi, điều gì còn ở lại
một đóa hoa quỳnh trong cõi trăm năm
NBS


Nhạc PD vs Tù VC

Kỷ niệm những lần nghe nhạc PD ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà của Gấu thật tuyệt vời, và sau này, mỗi lần nhớ lại, là Gấu lại càng hiểu ra câu thơ của Lý Thương Ẩn, nói về cái duyên hạnh ngộ ở trên đời, và đem áp dụng vào mấy trường hợp trên mới thật là tuyệt cú mèo:
Gặp nhau đã khó, xa nhau lại càng khó.
Trước hết, hãy nói về cái chuyện gặp nhau đã khó. Ứng dụng vô trường hợp của Gấu: Không dễ gì mà được nghe nhạc Phạm Duy ở trong tù.

Cái sự sửa soạn để được nghe, là có "ý trời" ở trong đó!
Lần nghe bản Thuyền Viễn Xứ, do một tay trại viên độc tấu Tây Ban Cầm, nó nhiêu khê lắm. Không có ông Trời sắp xếp là trớt qướt!
Lúc đó là thời gian Gấu đã mua được cái chức Y Tế Đội, không còn ăn ngủ tại lán trại viên, mà là được đưa lên… Đội. Chỉ ở trên Bộ Chỉ Huy của Đội, thì mới có cây Tây Ban Cầm dành cho những buổi sinh hoạt Đội. Gấu tuy không biết đàn TBC, nhưng có thể sử dụng nó như là một cây măng đô lin, bấm nốt tỉ tì ti, thì dư sức.
Thế là, buổi tối hôm đó, khi đi từng lán ghi tên trại viên khai bịnh, ngày mai cho nghỉ lao động đưa qua bệnh xá, xin vài viên Xuyên Tâm Liên, bèn xách cây đàn đi theo. Tới một lán, gặp tiệc trà, dựng cây đàn kế bên, nhập cuộc. Trong đám ngồi dự tiệc trà, có một tay, trong lúc hứng quá, bèn cầm cây đàn lên.
*
Nói Thuyền Viễn Xứ được sáng tác cho những thính giả mãi sau đó, cho khúc ruột ngàn dặm, thực sự chỉ mới đạt được một nửa lời tiên tri. Nó còn nhắm tới khúc ruột ngàn dặm, ở ngay trong nước, tức những kẻ bị "cái gọi là ẩn dụ lò cải tạo, tinh thần thế giới của Tin Văn" chiếu cố, thôi thì cứ nói đại, cho dù chính tác giả của nó cũng chẳng thể ngờ, vì có khi nào PD đi tù VC đâu, thính giả đích thực của bản nhạc Thuyền Viễn Xứ,  là đám tù cải tạo.
Nói, "nó còn nhắm tới", có lẽ không đúng. Tác giả của nó, lại càng không nhắm tới thứ thính giả đó.
Đây là quyền năng huyền bí của âm nhạc, nói theo Steiner, khi ông trích dẫn Lévi-Strauss, sự phát minh ra giai điệu là một "bí mật tối thượng".
Gấu, tên tù cải tạo, vào lúc không ngờ nhất cuộc đời của nó, đột nhiên 'quê hương' xuất hiện, không phải như là một 'kinh nghiệm về thời tiết, kinh nghiệm về khổ đau" (1), mà như một món quà tặng thật là tuyệt vời.

"Ở nơi đó, cũng vậy, giữa những ống khói, trong những quãng ngừng của khổ đau, có một cái gì giống như là hạnh phúc.... Vâng, đúng là nó đấy, hạnh phúc ở trại tập trung, điều mà tôi sẽ nói tới sau này, khi có người hỏi. Thì cứ giả dụ như sẽ có người hỏi. Thì cứ giả dụ như chẳng bao giờ tôi quên nổi, hạnh phúc."
Kertesz
(1) Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết.
Con người là tổng số những kinh nghiệm về khổ đau. W. Faulkner
*
Buổi tối, lần Gấu nghe tay bạn tù cải tạo chơi ghi ta bản Thuyền Viễn Xứ, và miệng lẩm bẩm hát theo, thật là tuyệt vời.
Tuyệt vời và Ngỡ ngàng.
Thứ nhất, Gấu không hề nghĩ rằng, tay này biết chơi nhạc, không hề nghĩ rằng, lần đầu tiên cầm vô cái đàn ghi ta của cấm đó, anh chàng lại chơi đúng cái bản nhạc mà Gấu để mãi tận đáy lòng mình, tưởng đã quên nó rồi, lôi ra và tấu nó lên, ở giữa khoảng trời đất mênh mông là trại cải tạo thuộc đặc khu Rừng Sát ngày nào, ngoài kia là trùng trùng lớp lớp rừng tràm rừng đước, là trùng trùng lớp lớp mồ hôi, sức tù đổ xuống, và trên trời kia, là trăng sáng đang đổ xuống....
Đúng ra phải nói, anh ta moi bản nhạc từ đáy sông Đà, con sông khốn kiếp ám ảnh hoài thằng Gấu xứ Đoài mây trắng lắm, bỏ chạy nó, và bị nó hành, mỗi khi trái nắng trở trời, mỗi khi đời sống sang mùa, hệ thống tự bảo vệ của cơ thể oải theo, thế là con 'vai rớt' Bắc Kỳ làm ngụy!
Sư phụ Faulkner chẳng đã từng phán: Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết.
*
Viết tới đây, Gấu lại nhớ đến một độc giả Tin Văn.
Độc giả quí hóa này, lần đầu tình cờ trượt vô trang Tin Văn, bấm trang Chuyện Văn, thấy bài đầu tiên của nó, là về Weil, bèn sửng sốt la lên, tại sao cái thằng Gấu ngu này lại biết đến tác giả favorite của riêng ta?
Ta cứ nghĩ, trên đời này, ngoài ta ra làm gì còn có một tên Mít nào khác đọc Weil?
Theo như Gấu biết Weil còn là tác giả favorite của Đỗ Long Vân.
Ông này mê cả thầy lẫn trò, tức Alain và Weil.
*
Bao nhiêu năm rồi, Gấu vẫn còn nhớ tên anh bạn tù. Hùng Võ Sĩ.
Cũng xin được đi một đường mở ngoặc ở đây. Những tên tuổi tù cải tạo, để phân biệt với nhau, thường đi kèm với một nickname, thí dụ Hùng Ghẻ, Hùng Võ Sĩ, Hùng Lêu Bêu... Lần đầu gặp một ông, tự xưng danh, tôi là Sơn Mê Ô, Gấu cứ nghĩ ông này gốc gác mũi lõ. Đến lúc ông chơi một bi thuốc lào, rít mạnh quá, miệng lệch qua một bên, lúc đó Gấu mới ngộ, đây là ông Sơn Méo. Méo, đọc kiểu Tây chẳng là Mê Ô sao?
Còn một ông kêu là Thái Dúi. Ông này lười tắm, nên... dái thúi.
Bỗng nhớ đến Dương Văn Ba, ông bạn sau làm dân biểu. Tụi này hồi đó đặt cho anh biệt danh là Ba Bù Loong. [Bù loong là cái con vít, từ tiếng Tây qua, viết theo đúng tiếng Tây, không bỏ dấu, thì nó lại có một ý nghĩa tiếng Việt hoàn toàn khác]
Anh tức điên lên!
*
Ý Trời: Nếu Gấu Cái không đi thăm nuôi kịp, sau khi lo cho thằng con trai vượt biên bị bắt bị đưa về Chí Hòa, Gấu đâu có tiền mua chức Y Tế Đội, vẫn ngày ngày đi cầy, và chắc là chết mất xác từ lâu rồi.
Hai cái lần nghe nhạc PD, đều xẩy ra, sau khi Gấu sống sót cái đói, cái khổ, cái lao động, nhờ Gấu Cái đi thăm nuôi, giấu cho tí tiền trong bị gạo.
Nhưng nếu cái tay kiểm tra, thấy tiền bỏ túi thì cũng khốn nạn! Anh ta không lấy tiền, còn xúi Gấu dùng tiền đó, mua chức Y Tế Đội. Nhờ vậy, mà sống sót trại tù. Nhờ vậy mà được nghe nhạc PD.
Như vậy thì có phải là được nghe nhạc PD thật khó, đúng như câu thơ Lý Thương Ẩn, gặp nhau đã khó?
Tưởng niệm TCS

Lần nghe Thuyền Viễn Xứ, một cách nào đó, vẫn có tính tình cờ, ngẫu nhiên. Cái lần nghe Ngày mai đi nhận xác chồng mới đúng là phải có bàn tay sắp đặt của Đấng Thượng Đế. Đó cũng là bữa Gấu khám phá ra, và được thưởng thức một món thực phẩm tuyệt vời của trần gian: thịt chuột!
Gấu, Bắc Kỳ di cư 1954, cho đến 1975 quanh quẩn ở Sài Gòn, chưa từng có cơ hội ăn thịt chuột đồng bằng Miền Nam. Lần đi tù cải tạo thứ nhất, sau 1975 ít lâu, ở Phạm Văn Cội, Củ Chi, vùng này không có chuột. Nông trường cải tạo trồng đậu phọng, đói quá, và nếu đúng kỳ thu hoạch, chỉ ăn lạc sống cho đỡ đói. Phải đến lần đi tù Đỗ Hòa, Nhà Bè, Gấu mới biết ăn còng, ba khía, chuột, và cá rô phi nuôi bằng kít tù.
Nhưng cũng phải đợi Gấu Cái đi thăm nuôi lần đầu, thì mới có cơ hội, và phương tiện. Bởi vì, nếu không có cái bị cói đựng gạo thì cũng vô phương bẫy được chuột.
Hồi mới di cư, ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận, trong xóm có mấy ao nuôi cá rô phi, và còn là cầu tiêu công cộng. Tuy nhiên, Gấu không nhớ mình đã từng ăn cá rô phi, cho đến khi đi cải tạo, và cũng phải đợi được điều lên Bộ Chỉ Huy Đội, trở thành Víp, thì mới được thưởng thức!

Em đi áo lụa mềm lưng phố
Có động lòng thương kẻ cuối đường...

Có những câu văn, thơ, được viết ra, không phải để được đọc liền tù tì, mà là để đợi một độc giả độc nhất, độc giả độc, độc giả xịn, độc giả tri âm tri kỷ của nó.
Tao chỉ đợi mày, tao còn sống đây, là vì mày...
Tao đây nè, đọc, đọc đi để tao hoàn tất cái đời của tao.
Hoàn tất theo nghĩa, trở thành bình thường như mọi câu văn câu thơ khác.
Cho đến một lúc nào đó, lại thức giấc và lại đợi.
Hai câu thơ trên của Du Tử Lê, là như thế đối với Hai Lúa.
Ghê gớm hơn nữa, nó liên quan đến một nơi chốn, của Sài Gòn.

Cũng cái cảm giác như thế, Hai Lúa nghe, lần đầu tiên trong đời, bản nhạc Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, tại trại cải tạo Duyên Hải, khi cuộc chiến kết thúc đã từ đời thưở nào, chẳng còn ai đi "lượm" xác chồng...
Bản nhạc vừa cất lên một cái là thằng Hai Lúa rùng mình, toát mồ hôi, chân tay bủn rủn, nó đây rồi, nó là của mình, không của ai khác, ông nhạc sĩ sáng tác ra cho riêng thằng Hai Lúa này. Mấy người khác chỉ nghe ké, thưởng thức ké, đau khổ ké....
Viết tới đây, bỗng Hai Lúa nhớ đến một ý của Benjamin. Ông này nói, có những cuốn sách nằm ngủ ở trong thư viện, để cho bụi đắp đầy mình, chờ có khi hàng ngàn năm, độc giả của nó khật khừ tới, và đánh thức nó dậy...
Diary


Góc Hà Nội
"Chó Bên Đường" của Milosz gồm những mẩu chuyện về đủ thứ chuyện.
Có một mẩu, về một anh chàng nhà thơ da đen ở Mỹ, làm một cuộc hành trình về đất mẹ.
-Vậy là anh đang ở Phi Châu, thấy sướng chưa, hạnh phúc chưa?" Người ta hỏi anh.
-Chẳng có một mống da trắng khốn kiếp nào, chỉ toàn da đen.
"Khốn khổ cho tôi", nhà thơ lẩm lẩm, "tôi không làm sao chịu nổi sự ngu si dốt nát của người da đen."
Sau rốt anh đành tự an ủi, rằng mình thuộc về một bộ lạc cực kỳ thông minh ở Phi Châu.
***
Lần đầu tiên Gấu được mẹ cho ra thăm Hà Nội, nó được bà cho ra chợ Đồng Xuân ăn bún chả. Cũng là lần đầu nó được ăn bún chả. Nhớ hoài, nhớ đến già. Nhưng nhớ mãi, cái cảnh được một thằng bé cũng trạc tuổi đứng quạt cho Gấu ăn. Vừa man mát, vừa sương sướng, ngường ngượng. Rồi được ngồi xe xích lô, được ăn cây kem, ăn hả, không dám đâu, không dám cắn, mà chỉ mút mút, vì lạnh quá! Về già, đọc Trăm năm cô đơn của Garcia Marquez, ngay đoạn mở đầu, anh chàng tử tội đứng trước pháp trường không nhớ gì hết, mà chỉ nhớ tới cục nước đá lần đầu tiên được sờ... Chỉ tới lúc đó, kỷ niệm về cây kem mới thực sự sống lại cái định mệnh của nó, cùng với định mệnh của một thằng bé nhà quê may mắn được ra Hà Nội học.
Nhưng khi trở về làng quê, thằng bé không nhớ cây kem, không nhớ mẹt bún chả, mà cứ căng đầu vì một câu hỏi: Làm sao cái người đạp xích lô ở phía sau, có thể nhìn thấy đường phố, để đạp xe. Thế cái người khách ngồi ở đâu, ngồi như thế nào? 

Thằng bé cứ hỏi hoài trí nhớ nhỏ nhoi của nó, về một hình ảnh cái xích lô "cấu trúc" của nó ra sao. Một lần lại được ra Hà Nội, nhìn anh chàng đạp xích lô ngồi ngất nghểu trên đầu khách, nó à một tiếng, tự hỏi, tại sao dễ như thế mà không nghĩ ra! 

Tại sao không nghĩ ra? Sau này, truy tới cùng, nó nghĩ, thằng nhỏ nhà quê khi đó, không nghĩ được, thứ nhất: tại sao cái thằng đạp xe, lại có quyền ngồi lên đầu lên cổ người khách? Thứ hai: Ai là người thứ nhất nghĩ ra được cái cảnh đó? Và thứ ba: kẻ phát minh ra đó, là một tên thực dân, hay là một kẻ nô lệ?
Nhìn từ góc độ "văn chương", liệu có cái gọi là "sáng tạo" ở những kẻ không- tự do?

Tam Lang trong Tôi Kéo Xe, đã coi cái xích lô là một bước tiến nhảy vọt, từ người kéo người, sang người đạp người. Tiếc rằng trong tay lúc này, không có cuốn sách của ông để truy nguyên, bằng cách nào, và vào thời điểm nào, "kéo" thành "đạp"? Nhưng chắc cũng gian nan lắm.

Nên nhớ, người phát minh ra động cơ chạy bằng hơi nước đã bị đánh chết, bởi những công nhân sợ phát minh này sẽ làm cho họ thất nghiệp.


Ai quan tâm đến phê bình chắc là nhận ra, những phát biểu về phê bình được nhắc tới trong bài viết thì đều đã có những người phát biểu, không ai thực sự là người thứ nhất nói ra những điều đó.
Thí dụ thuật ngữ phê bình báo chí là dùng để chỉ đám chuyên môn điểm sách, so với đám phê bình trường lớp.
Chẳng có ai thực sự là tác giả của những nhận định như vậy. Trước, chắc là có, nhưng chẳng ai còn nhớ, hoặc chẳng thèm nhớ, có thể vì thế mà Barthes đề nghị nên làm thịt tác giả, chỉ tha cho độc giả?
Riêng Gấu cho rằng, có hai quan điểm về phê bình, thật độc đáo của thời chúng ta, đều "của" Barthes.
Một, phê bình là siêu ngôn ngữ, hay ngôn ngữ bậc nhì, chuyên trị ngôn ngữ bậc nhất, viết về đời sống, của giả tưởng.
Từ đó, Barthes coi phê bình là một bản văn choàng lên một bản văn. Bởi thế, ông coi phê bình gia cũng là nhà văn.
Thứ nhà văn bậc hai này, Mít chưa có!



The Return of the Poetician
Sự trở về của nhà thi học
Roland Barthes

When he sits down in front of the literary work, the poetician does not ask himself: What does this mean? Where does this come from? What does it connect to? But, more simply and more arduously: How is this made? This question has already been asked three times in our history: Poetics has three patrons: Aristotle (whose Poetics provides the first structural analysis of the levels and parts of the tragic oeuvre), Valery (who insisted that literature be established as an object of language), Jakobson (who calls poetic any message which emphasizes its own verbal signifier). Poetics is therefore at once very old (linked to the whole rhetorical culture of our civilization) and very new, insofar as it can today benefit from the important renewal of the sciences of language.
Khi ngồi xuống, đằng trước là một tác phẩm văn học, người làm thơ không tự hỏi: Cái này nghĩa là gì? Cái này đến từ đâu? Nó móc nối tới cái gì? Nhưng, đơn giản hơn, và cũng thật hung hăng con bọ xít hơn: Cái này được làm ra như thế nào?
Câu hỏi trên đã được đưa ra ba lần rồi, trong lịch sử của chúng ta: Cõi Thơ có ba ông Trùm: Aristotle [tác phẩm Thi Học của ông Trùm này cung cấp bản nghiên cứu thứ nhất, về cấu trúc một bi kịch, với đủ mọi lớp lang, phần đoạn của nó], Valery, [ông này cứ phán đi phán lại, rằng, văn chương được thành lập như là một đối vật của ngôn ngữ], Jakobson, [người ngửi và phán, "có mùi thơ đấy", bất cứ một thông điệp nhấn mạnh lên phần tạo nghĩa, của riêng nó].
Cõi Thơ, như thế, cùng một lúc, thật là xưa, [do mắc mớ tới trọn cả nền văn hóa tu từ của văn minh của chúng ta], và thật là mới, do việc đổi mới quan trọng của những môn khoa học về ngôn ngữ, và từ đó, là những lợi lộc mà nó đem lại cho Cõi Thơ.


CÂU TÁM BUỒN EM TRẢ LẠI GIÙM TÔI 


Tình đầu
Like the Coleridge hero who wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these objects were not of the second world, which had brought me so much contentment as a child, but of a real world that matched my memories.
Như nhân vật của Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong
Tứ Khúc thì không phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.
*

Những mối tình e ấp , sót lại những sợi tơ vương vướng đâu đó trong tâm hồn phần đông trong chúng ta, không giống như vết dao vẫn còn tươm máu mãi trong “Lan Hương” của tác giả Nguyễn Quốc Trụ . Anh có thể lồng bóng mình và người yêu một thời (và một đời) của mình gần như vào bất cứ một mối tình văn chương nào mà anh đọc đến, chỉ cần mối tình ấy là một mối tình lý tưởng, trong trắng và mù quáng đến rũ rượi . Đọc truyện tình của anh, K có cảm tưởng như nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì anh cũng sẽ lao vào cuộc tình như thế, không ngần ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một cách hạnh phúc.
K. [Thư luân lưu art2all]
Tks.
Người yêu đầu đời của Pamuk, nếu như nhân vật tự thuật trong Nỗi Buồn Istanbul, là ông, tên là Bông Hồng Đen. Và những đoạn tả anh chàng đi đón em ở cổng trường trung học Dame de Sion thật quá giống cảnh Gấu này đưa đón em tại trường Gia Long ngày nào!
Ngoài K, còn một tay nữa, cũng nhận ra điều này, và chính anh "order" Gấu dịch Pamuk, và phải là Nỗi Buồn Istanbul!
Quả là tri kỷ!
Đa tạ. NQT