Note:
Gấu biết đến NBS, là từ đoạn thơ
trên, đọc, qua một bài viết của TTT! Hình như trên Thời Tập của Viên Linh.
Hình như, [lại vẫn hình như] TTT là người đầu tiên nhắc tới NBS qua
khúc thơ,
trên.
Gấu cứ nhớ hoài câu thơ, sai, như sau:
Lỡ mai đụng trận, ta chưa
chết…
Chia nốt nỗi buồn cùng
gái điếm…
Nhưng, như Barthes viết về thơ, lấy ý Jakobson, (1)
mỗi lần "sai" như thế, là bạn
lại có thêm một câu thơ, mới!
(1) Jakobson (who calls poetic any message
which
emphasizes its own verbal signifier). Poetics is therefore at
once very
old
(linked to the whole rhetorical culture of our civilization) and very
new,
insofar as it can today benefit from the important renewal of the
sciences of
language.
Roland Barthes: Return
of the
Poetician
*
Bỗng nhớ, những câu hát "Cách Mạng", được chế biến
lại, những ngày học tập cải tạo, nhân vụ nhạc sĩ VC Phan Huỳnh Điểu tỏ
ra hết sức bực, vì bài thánh ca của ông, về hình ảnh những người Vệ
Quốc Quân đã được tái chế [recyle].
Có bao giờ, ông nhạc sĩ tự hỏi, bản tái chế đó, của đám VC con, mới là
hình ảnh thực sự sau cùng, của huyền thoại về một anh Vệ Quốc?
Mấy ông triết gia giải thích, đây là nhu cầu "giải hoặc" của quần chúng!
Ra đi ra đi không quần
không áo!
*
Tôi
không thể hình dung được
đời sống của mình thiếu vắng âm nhạc của Phạm Duy.
T.
Vấn
Gấu
này, cũng đã
từng nghĩ
như thế, sống như thế, và viết như thế, về những ngày ở tù VC, và sống
sót, nhờ
nhạc PD, và tất nhiên, còn nhờ nhiều yếu tố, may mắn khác nữa.
Nhưng
chỉ đến khi ra được hải
ngoại, được vỡ lòng về cái gọi là cái ác tuyệt đối, Gấu mới ngộ ra
được, một
điều là, âm nhạc vượt quá những hiểu biết của con người về xấu và tốt,
về thiện
và ác.
Và
hiểu thêm ra một điều,
riêng về nhạc PD: những bản nhạc hay nhất của ông, là thơ phổ nhạc.
Nói
rõ hơn, thứ âm nhạc vượt
xấu và tốt, vượt thiện và ác, nếu PD có được, là nhờ người khác.
Bản
thân ông, không tới được
cõi đó.
Đừng
nghĩ là Gấu này chỉ
trích gì PD.
Trong
một số báo đặc biệt của
Time về những vĩ nhân thế kỷ 20, tay viết về Bác Hồ có chỉ ra, hai sở
thích của
Bác, là nghe Maurice Chevalier hát, và hút thuốc lá Camel.
Cứ
mỗi lần nghĩ về PD, và
những thú vui trần tục của ông, là tôi liên tưởng tới Bác Hồ.
Quái
quỉ thế!
*
PD
cũng đã từng sửa lời nhạc của ông rất nhiều lần, để cho hợp hoàn cảnh,
thời cuộc, và cho hợp với ông.
Nhưng,
ông không thể sửa những bản thơ phổ nhạc.
Chúng
vượt quá cái tâm và cái tài của ông!
Chứng
cớ: Bài Thuyền Viễn Xứ. Trong
show Hồi Chánh của ông, ông làm MC, ông nói nhảm về nó. Trong khi thơ
Huyền Chi, từ cái thuở tiền chiến, đã tiên tri ra được nỗi lưu vong của
Mít, sau 1975 rồi!
Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ
cho
vừa
Trời cao chìm rơi xuống
đời
Biết
là bao sầu trên xứ người.
Nếu Gấu này có tí tự hào về xứ Đoài mây trắng
lắm, là ở tí ti thơ Quang Dũng, tí thơ Huyền Chi, tí nhạc PD.
Thơ Huyền Chi [lục bát]
Lên khơi sương khói một chiều
Thùy dương rũ [hay rủ ?] bóng
tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng
giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần giạt bến qua ngàn lau
thưa
Hò ơi tiếng hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa
xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước tiếng đời
hoang mang
...
Chiều nay trên bến muôn
phương
Có thuyền viễn xứ lên đường
lại đi
Lời nhạc PD:
Chiều nay sương khói lên khơi
Thùy dương rũ bến tơi bời
Làn mây hồng pha ráng trời
Sóng Đà Giang thuyền qua xứ
người
Thuyền ơi! viễn xứ xa xưa
Một lần qua dạt bến lau thưa
Hò ơi! giọng hát thiên thu
Suối nguồn xa vắng, chiều mưa
ngàn về
Nhìn về đường cô lý
Cô lý xa xôi
Đời nhịp sầu lỡ bước
Bước hoang mang rồi ...!
Quay lại hướng làng
Đà Giang lệ ướt nồng
Mẹ già ngồi im bóng
Mái tóc tuyết sương
Mong con bạc lòng ...
Chiều nay gửi tới quê xưa
Biết là bao thương nhớ cho
vừa
Trời cao chìm rơi xuống đời
Biết là bao sầu trên xứ người
Mịt mờ sương khói lên hương
Lũ thùy dương rủ bóng ven
sông
Chiều nay trên bến muôn
phương
Có thuyền viễn xứ, nhổ neo
lên đường.
[Nguồn net]
*
Với tôi, Phạm Duy hay nhất
vẫn là những bản nhạc tình. Giống những cửa sổ, đối với K. trong Vụ Án.
Lần đó, ở trong trại cải tạo,
nằm kế một anh bạn. Chẳng bao giờ anh hát. Một buổi tối, cả hai không
ngủ được.
Nói chuyện lăng nhăng một hồi, và đột nhiên anh thủ thỉ một mình. Những
gì
..."đưa nhau tới bên cầu", "giờ đây cơn mộng tan rồi"...
Sau
này, mỗi lần nghe nhạc
Trịnh Công Sơn, tôi có cảm tưởng cuộc chiến còn nguyên đó, đối với
riêng tôi,
những ngày ở Trung Tâm Ba Quang Trung, lần đầu tiên xa Sài-gòn, xa cô
bạn.
Nhưng, nếu không có nhạc Phạm Duy, không hiểu những ngày ở trong trại
cải tạo
còn thê thảm tới bực nào, đối với hai bạn tù...
Mùa
Thu, những di dân
Hò
ơi tiếng hát ngàn xưa
Ngân
lên trong một chiều mưa xứ người
Đường
về cố lý xa xôi
Nhịp
sầu lỡ bước tiếng đời hoang mang
Đúng
là thần sầu!
No English word
exactly
conveys the meaning of the French malheur.
Our word unhappiness is a negative term and far too weak. Affliction is
the
nearest equivalent but not quite satisfactory. Malheur has in it a sense of
inevitability and doom.
Emma Craufurd [dịch Weil qua tiếng Anh]: Waiting for God
Không có từ tiếng
Anh nào tương đương với từ tiếng Tây, malheur,
bất hạnh.
Cái từ unhappy,
không được vui, thì đúng là một từ
tiêu cực, và yếu xìu. Trong từ bất
hạnh, nó có cái nghĩa [điều] "không thể nào tránh được",
và, "trầm luân",
bị trời đầy, số kiếp là như vậy.
*
Tình cờ đọc bạn Kiệt Tấn, dịch một bài trên Le Magazine Littéraire.
Có câu của Beckett, liên quan tới
từ "malheur":
“Không có gì đáng khôi
hài
hơn là tai họa”, Sammuel
Beckett đã nói vậy.
[Bạn Kiệt Tấn viết trật tên của Beckett. Đúng, là Samuel Beckett]
Nguyên văn tiếng Tây, trong bài
viết trên tạp chí Le Magazine
Littéraire như vầy:
"Rien n’est plus comique
que le malheur”
Như vậy, theo tinh thần
Simone Weil, liên quan tới từ malheur,
có lẽ nên dịch là:
“Không có gì đáng khôi
hài hơn
là bất hạnh”.
*
Theo Gấu, câu của
Beckett đúng ra như vầy, và mới đúng tinh thần Beckett:
Không có gì quê kệch hơn là... quê kệch
[bi kịch].
"Rien n'est plus
grotesque
que le tragique.
[Le Magazine Littéraire số tháng Năm 2006, có trích dẫn câu trên]
Liệu, cả hai câu đều của Beckett? NQT (1)
(1) Câu của Beckett, thực sự như vầy: "Rien n'est plus drôle que le malheur..."
*
Nhân World Cup 2006
Vụ khán giả Hòa Lan đi coi
World Cup phải tụt quần để vô sân chơi, do
quần có quảng cáo cho một hãng bia Hòa Lan, sao thật xứng với cái tít
của bài
viết, của Llosa: Trước cuộc truy hoan.
Thật tình cờ, nó làm Gấu nhớ tới vụ tụt quần của Estragon, một trong
hai nhân vật của Beckett, trong vở kịch Trong Khi Chờ Godot. Chính vì
vụ tụt
quần này, mà Beckett phải viết thư cho nhà dựng kịch, yêu cầu, tụt là
tụt, chứ
không được nửa vời! Nửa vời thì làm ăn cái giải gì được! Làm sao...
truy hoan?
Bởi vì bên cạnh Cúp Bóng Đá, còn... Cúp Bướm, của chừng trên 40 ngàn
em, như
một tờ báo Tây cho biết. Hãy tôn trọng tác phẩm dù chỉ một tí chi tiết
của nó,
cho dù chi tiết này cà chớn tới cỡ nào! Tay
đóng vai này, ngượng cũng có, mà ngại khán giả cũng có, chỉ tụt có một
tí, rồi
khư khư giữ cái quần. Nghe bà vợ kể lại, khi tham dự những lần tập
kịch,
Beckett bèn đi luôn một cái thư cho tay dựng kịch. Tinh thần kịch
Beckett nằm
trong hành động tụt này, như ông đã từng phán:
Không có gì quê kệch hơn
là... quê kệch [bi kịch].
Rien n'est plus grotesque
que le tragique.
Trên
tờ Văn Học Pháp, Le Magazine
Littéraire, số Tháng Năm 2006, có đăng
lá thư chưa từng in của Beckett. Sau cùng, tay đóng vai này đành phải
yêu yêu
cầu, tụt thì tụt nhưng cho tớ mặc một
cái áo sơ mi dài dài một tí!
Trong
những từ tiếng Việt, để dịch từ “humour”, Kiệt Tấn kể, thiếu một từ. Vì
khó
dịch
quá, cho nên Tầu và Mít để nguyên, và dịch là “u mặc”.
Trong
số báo trên,
cuộc song
ẩm giữa Barnavi và Nora rất thú vị: Lịch sử, nạn nhân của hồi ức?
Cái
ác của thời đại chúng ta,
là sự lầm lẫn giữa vai trò của sử gia và nhà ý thức hệ.
Lịch
sử được yêu cầu phải
phục vụ hồi ức: Đây là một trong những tính chất nghiêm trọng nhất của
thời
đại.
Có
bài Linda Lê, đọc Léon Tolstoi, trẻ
*
KT dịch bài U mặc cái nhẹ khôn
kham của chữ, là để biện minh cho cách viết của ông.
Nếu u mặc là vấn nạn
triết
học độc nhất nghiêm túc? Nếu như thế, thì thật là phiền, bởi vì nó
cưỡng lại mọi
định nghĩa, như Dominique Noguez, Frédéric Schiffter hay Alain
Finkielkraut chứng
tỏ.
KT
dịch một trong số những bài
viết. Bài của Noguez mà chẳng thú sao? Chỉ nội cái tít, đã thấy thèm
đọc rồi: Sự
độc ác của Sade với nụ cười của
Phật. Frédéric Schiffter: Hãy
cứ tếu táo mà sống
[La plaisanterie de vivre], Alain
Finielkraut: U mặc run rẩy và biết
yêu sự run rẩy:
U mặc: “miệt vườn của cái
cười”
[provine minuscule du rire”].
Định nghĩa trên áp dụng cho KT thì thật là tuyệt cú
mèo!
[Note: Thân, NQT. Nhớ Paris quá!]
The Return of the Poetician
Sự trở về của nhà thi học
Roland Barthes
When
he sits down in front of
the literary work, the poetician does not ask himself: What does this
mean?
Where does this come from? What does it connect to? But, more simply
and more
arduously: How is this made?
This question has already been asked three
times
in our history: Poetics has three patrons: Aristotle (whose Poetics
provides
the first structural analysis of the levels and parts of the tragic
oeuvre),
Valery (who insisted that literature be established as an object of
language),
Jakobson (who calls poetic any message which emphasizes its own verbal
signifier). Poetics is therefore at once very old (linked to the whole
rhetorical culture of our civilization) and very new, insofar as it can
today
benefit from the important renewal of the sciences of language.
Khi ngồi xuống, đằng trước là
một tác phẩm văn học, người làm thơ không tự hỏi: Cái này nghĩa là gì?
Cái này
đến từ đâu? Nó móc nối tới cái gì? Nhưng, đơn giản hơn, và cũng thật
hung hăng
con bọ xít hơn: Cái này được làm ra như thế
nào?
Câu hỏi trên đã được đưa ra
ba lần rồi, trong lịch sử của chúng ta: Cõi Thơ có ba ông Trùm:
Aristotle [tác
phẩm Thi Học của ông Trùm này cung cấp bản nghiên cứu thứ nhất, về cấu
trúc một
bi kịch, với đủ mọi lớp lang, phần đoạn của nó], Valery, [ông này cứ
phán đi
phán lại, rằng, văn chương được thành lập như là một đối vật của ngôn
ngữ],
Jakobson, [người ngửi và phán, "có mùi thơ đấy", bất cứ một thông
điệp nhấn mạnh lên phần tạo nghĩa, của riêng nó].
Cõi Thơ, như thế, cùng một
lúc, thật là xưa, [do mắc mớ tới trọn cả nền văn hóa tu từ của văn minh
của
chúng ta], và thật là mới, do việc đổi mới quan trọng của những môn
khoa học về
ngôn ngữ, và từ đó, là những lợi lộc mà nó đem lại cho Cõi Thơ.