Diary
|
Sad as a Ship in a Bottle
Sad
as a matchbox in a house
Where
they've stopped
smoking.
Sad
as the soap of a movie
queen
After
she steps out of the
shower.
Sad
as the love pill
In
a pocket of a dead man.
Happy
as a mouse in a rocking
chair.
Happy
as pair of dentures ...
No,
wait a minute!
Something's wrong here!
Sad
as a maybug in June.
Sad
as a hotdog eating champ
Having
dinner in a fish
restaurant.
CHARLES
SIMIC
TLS
26 Sept 2008
Rầu như thuyền đắm trong chai
Chán
như hộp quẹt nơi người
hết phi
Buồn
như xà phòng Tây Thi
Mà
nàng ảnh hậu đã rời phòng
hương
Tội
như viên thuốc yêu đương
Nằm
im trong túi anh chàng
cứng đơ
Vui
như chú chuột lắc lư
Lăng
xăng trên ghế đong đưa …
hay là
Vui
như hàm giả … Ui cha
Hình
như có chút sai ngờ đâu
đây …
Buồn
như bọ nở trật ngày
*
Rầu
như danh thủ một tay ăn
dồi
Lại
mời ăn cá … sao trôi ?
(*
maybug in June : một lối
chơi chữ )
Note:
Tks K. NQT
tặng cho em nguyên
một đóa
trăng rằm
thôi
câu chuyện tình nói cho
nhiều rồi cũng vậy
trăm
năm dài rồi sẽ đụng
nghìn năm
tất
cả qua đi, điều gì còn ở
lại
một
đóa hoa quỳnh trong cõi
trăm năm
NBS
Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách
chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng
gái
điếm
Đốt tiền mua vội một ngày
vui
Ngày vui đời lính vô cùng
ngắn
Mặt trời thoáng đã ở
phương
Tây
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ thành
mây
bay
NBS
Cao Thoại Châu
CÂU
TÁM BUỒN EM TRẢ LẠI GIÙM
TÔI
Xắn tay mà phá cơn buồn
Thử xem lòng có nhẹ hơn chút
nào
Sức mình xem thử bao nhiêu
Thoát ra thôi cũng xin liều
một phen
Lòng đời chật lắm xin em
Đừng mang thêm nữa ưu phiền
về đây
Thử nhìn lên những tàn cây
Gió qua rụng xuống cũng đầy
lá khô
Lá bay theo gió hững hờ
Lá rơi rừng cặp cho vừa lòng
nhau
Ngàn xưa nối với ngàn sau
Cây cầu sóng nước bờ lau ngút
ngàn
Thử làm một
chuyến sang ngang
Buồn xưa ở lại mình sang
bến
này
Em về phủi sạch hai vai
Sầu tôi
rụng xuống một ngày
buồn tênh!
23.9.08
*
Giọt mưa trời khóc
Chờ
Noel, chờ Tuyết bằng bài
thơ trên, há chẳng sướng sao?
Khổ thơ
đầu và chót thật là
thần sầu.
Có vẻ
như bài thơ chỉ cần
vậy?
Oct 1,
2006. NQT
Trân
trọng giới thiệu Blog Cao Thoại Châu
Note:
Bài thơ trên, được CTC
post lại trên Blog, có một chữ sai, trầm trọng, đề nghị sửa lại:
Giọt
mưa trời khóc từ năm
trước [ngàn năm truớc]. NQT
Le
Carré tại Hamburg, đầu thập niên 1960
FICTION
Poisonous
legacies
T. O. TREADWELL
John Le Carré
A MOST
WANTED MAN [Kẻ bị truy nã dữ
nhất] 340pp.
Hodder and Stoughton.
£18.99. 978 0 340 97706
A Most Wanted Man, John Le
Carre's twenty-first novel, is set in Hamburg, a city where the author
served
as political consul in the course of his early career as a diplomat and
which
here suits his fictional purposes well. Hamburg,
we are told, is Europe's richest
city, but it
is also home to a large Islamic community and is the place where at
least six
of the 9/ 11 hijackers, including Mohammed Atta, their leader, based
themselves. Because of this, and because the war on terror is being
waged
around us, Hamburg
is a city of spies.
One of these is Gunther
Bachmann, a cynical but decent agent of the German intelligence service
with a
particular genius for recruiting and running secret agents. He and his
team
soon notice the arrival in Hamburg of Issa, a frail and sickly young
Chechen
Muslim who has entered Germany
illegally having escaped prison and torture in Russia.
Issa also comes to the
attention of Annabel Richter, an idealistic human rights lawyer,
clever,
beautiful and young, who works for Sanctuary North, a centre offering
support
to immigrants and asylum seekers. She learns that Issa, apparently lost
and
adrift in a hostile city, has on his person a surprising amount of
money and
also a letter of introduction to the sole partner of a venerable
private bank.
This is Tommy Brue, sixtyish,
and the heir to four generations of shrewd Glaswegians whose banking
house,
Brue Freres (the name is nicely chosen) has discreetly and successfully
located
itself in Hamburg.
On the face of it, few characters could have less in common than the
gaunt and
pious Chechen boy and this solid pillar of bourgeois respectability. What they
do share, it turns out, is a poisonous legacy from a father.
The son
afflicted with a
wicked, weak or dishonest father is a recurring theme in A Perfect Spy (1986),
and has, as the author freely acknowledges, a strong autobiographical
element. Issa's father is a particularly nasty example. A
colonel in the Russian
army
based in Chechnya,
he has kidnapped and raped a fifteen-year-old Muslim girl, Issa being
the issue
of the rape. The boy is sent to an orphanage but later reclaimed by his
hated
father, who takes him to Moscow
to be educated. Identifying with his mother and her culture, Issa has
returned
to Chechnya
and, we assume, taken part in the struggle for independence there,
hence his
arrest and torture. Issa's father, Colonel Karpov, is now dead.
Colonel
Karpov, it
transpires, has had access to important Soviet military secrets and,
adding
treason to his other crimes, has sold them for very substantial sums to
British
intelligence. He has taken the funds earned from his treachery to the
highly
respectable Brue family bank, then in the hands of Tommy's father, who
has
created a special and very shady account for the purpose of laundering
them.
Knowledge that his father has involved the family bank in questionable
dealings
is Tommy Brue's legacy - public knowledge of the account's existence
would
destroy Brue Freres's reputation. Issa's inherritance is the cash in
Karpov's
account, and he has come, with Annabel's help, to claim it.
Like Tommy, though, Issa
regards his legacy as tainted and he wishes to give it away. But Issa
has been
shadowed by Bachmann and his colleagues almost from the time of his
arrival in
Hamburg and, by threat of blackmail, the intelligence service have
co-opted
both Annabel and Brue (Bachmann devises a scheme to introduce Issa to
Dr
Abdullah, a prominent Muslim intellectual resident in Germany, who is
to help
Issa donate his fortune to various Islamic charities and whom Bachmann
wishes
to use for his own purposes. There is a suspicion that Abdullah may be
less
moderate than he seek to appear, and that some of the charitable money
he
distributes goes to finance terrorism. Annabel and Brue, unwilling
pawns it the
intelligence game, believe in Issa's sincerity. Annabel, in addition,
is half
in love with him, while Brue has fallen hopelessly for Annabel.
Many
readers owe their
knowledge of the world of the secret services entirely to Le Carre's
novels
(how accurate this knowledge may be we have, of course, no way of
judging), and
while addicts may still pine for Toby Esterhase and his lamplighters or
Peter
Guillam and his scalp-hunters, A
Most Wanted Man with its secret cameras, microphone
pens and instantaneously translating computer screens, provides a
satisfying
dose of this Boy's Own Paper
pleasure. Le Carre's fiction, though, has
always
offered more than this.
The spy novel is
well suited
to treating larger themes of paranoia, perfidy and loss of innocence,
and here A Most Wanted
Man is
particularly successful. Hamburg,
beneath the prosperous surface, is
a cauldron of suspicion and betrayal: Brue's wife is unfaithful to him,
and
ordinary citizens' lives are shattered because of innocent association
with the
wrong people or because they pray at the wrong mosque. The state itself
is a
malevolent parent, betraying its children's trust for dark reasons only
dimly
understood. While the two interlocking love stories are not especially
convincing, the drawing of the humane and intelligent Annabel and the
decent
and honorable Brue into a world of political brutalism, blackmail and
lies
moves John Le Carre's novel out of the playground of the adventure
story and
into the grown-up realm of tragedy.
Note: Hình, trên, là từ Người Nữu Ước, số 29 Tháng Chín
2008, cùng bài viết của Le Carré về nghề điệp viên: The Madness of Spies, chuyện đời
tôi [personal history].
Cái tít bài điểm sách gói ghém tất cả những gì Le Carré viết, về những
di sản tẩm độc từ người cha. Và đề tài này được lập đi lập lại trong Điệp viên tuyệt hảo. Nếu nhân loại
đã từng mơ, sáng ngủ dậy biến thành Mít, thì những anh Yankee mũi tẹt
lại nằm mơ, sáng ngủ dậy, thấy ông bố ruột của mình biến thành một đồng
chí trong BCT!
Đứa con hoang Issa, trong tác phẩm mới nhất của Le Carré làm chúng ta
liên tưởng đến một đứa con hoang của một tên địa chủ Bắc Kít, trong
'saga' "Thời của thánh thần"
của Hoàng Minh Trường. Đây cũng là đề tài của Isabel Allende, trong Ngôi nhà của những hồn ma,
cũng một đứa con hoang, sau trả thù bố địa chủ và những đứa anh chị em
cùng bố khác mẹ. Trong những hành động trả thù, có hành động làm thịt
đứa em gái ngày nào anh ta vừa thương, vừa hận, vừa thèm vừa ghét.
Thành thử,
chúng ta lại thấy "ẩn ý" của anh Tây mũi lõ, khi viết về PXA, và dùng
đúng cái tít của Le Carré. Mấy anh VC cứ tưởng bở, ngay cả tên đệ tử
của PXA cũng đọc không ra cái trò đểu giả của đám thực dân cũ khi bị
hất ra
khỏi Đông Dương.
Bài điểm, trên TLS, số 26 Tháng Chín 2008. Cùng số báo, có bài điểm
cuốn tiểu sử Roger Casement, bạn Congo của Conrad. Nhân cuốn tiểu
thuyết mới ra lò của Le Carré, TLS lục thư khố, đăng lại bài điểm A Perfect Spy, Điệp viên tuyệt hả,
April, 11, 1986, trong bài này, tác giả chỉ ra liên hệ giữa
bộ ba Conrad, Greene và Le Carré.
Roy Foster: Casement Cults [Những sự
thờ phụng Casement]
điểm Roger Casement:
Imperialist, Rebel, Revolutionary
Tác giả: Séamas Ó Síocháin
352 pp. The Lilliput Press. 40 Anh Kim
Roger Casement vs The British Empire
The Love of
God and
Affliction *
In the realm of
suffering,
affliction is something apart, specific, and irreducible. It is quite a
different thing from simple suffering. It takes possession of the soul
and
marks it through and through with its own particular mark, the mark of
slavery.
Slavery as practiced by ancient Rome
is only an extreme form of affliction. The men of antiquity, who knew
all about
this question, used to say: "A man loses half his soul the day he
becomes
a slave."
* No English word
exactly
conveys the meaning of the French malheur.
Our word unhappiness is a negative term and far too weak. Affliction is
the
nearest equivalent but not quite satisfactory. Malheur has in it a sense of
inevitability and doom.
Không có từ tiếng
Anh nào tương đương với từ tiếng Tây, malheur,
bất hạnh.
Cái từ unhappy,
không được vui, thì đúng là một từ
tiêu cực, và yếu xìu. Trong từ bất
hạnh, nó có cái nghĩa [điều] "không thể nào tránh được",
và, "trầm luân",
bị trời đầy, số kiếp là như vậy.
*
Nô lệ, như được thực
hành bởi
La Mã cổ đại đúng là một hình thức cùng cực của bất hạnh. Người cổ đại
hiểu thật
rành về bất hạnh, và thường nói, con người mất một nửa linh hồn, ngày
người đó
trở thành nô lệ.
Tana French's top 10 maverick
mysteries
From PD James to Patricia
Highsmith and Donna Tartt, the novelist picks the books that defy all the
thriller's conventions - but remain thrilling
Tana French trained as an actor at Trinity
College, Dublin, and has
worked in theatre, film and
voiceover. Her first novel, In the
Woods, won a Mystery Writers of America
Edgar award earlier this year, and her second - The Likeness - has just been
published.
Trong mấy cuốn mà bà/cô Tana French này lọc ra để mà đi một đường tản
văn Thứ
Sáu
này, thì có tới ba cuốn Gấu đã từng đọc, hoặc coi phim, chuyển từ tiểu
thuyết,
thí dụ The Talented Mr Ripley,
của Patricia Highsmith. Phim này đã từng được
Tây làm, với tài tử Alain Delon:
Plein Soleil, đạo diễn cũng thật bảnh, René
Clément, mới được Mẽo remake.
Thư của NVK
Note: Gấu post thư, và quá
ngạc nhiên, và xấu hổ nữa, vì giọng thư quá lịch sự, trong khi Gấu viết
về nhà
biên khảo thật là chẳng nể nang gì hết!
NQT
Tình
đầu
Like
the Coleridge hero who
wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these
objects were
not of the second world, which had brought me so much contentment as a
child,
but of a real world that matched my memories.
Như nhân vật của
Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của
giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong Tứ
Khúc thì không
phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và
chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.
Khi
nàng biết, tôi không tính
đưa nàng về nhà, để mẹ tôi mời nàng uống trà và ăn bánh ngọt, nhưng mà
là tới
căn phòng ở Cihangir mà mẹ tôi cho tôi sử dụng như là một studio, nàng
có vẻ
bồn chồn. Nhưng khi tôi vận lò sưởi ấm, và lôi ra cái sô pha, giống như
chiếc
sô pha nàng đã từng nằm tại căn nhà mùa hè, và ngó dáng điệu của tôi có
vẻ rất
nghiêm túc về chuyện vẽ tranh, tới lúc đó, nàng mới nhẹ nhàng thở phào,
thay bộ
đồ ngày nào, và nằm dài trên sô pha, như ngày nào.
Đúng là trong cung cách như
thế đó, không tự huênh hoang khoác lác về nó, đây là một câu chuyện
tình, mà
liên hệ của hai đứa chúng tôi, một nghệ sĩ mười chín tuổi, và người mẫu
còn trẻ
hơn, bắt đầu, theo nhịp của một thứ âm nhạc thật lạ lùng, mà những nốt
nhạc ngay
cả hai đứa chúng tôi cũng chẳng thể nào hiểu được.
Vào lúc bắt đầu, cứ hai tuần
một lần nàng tới studio của tôi ở Cihangir, sau đó, tuần một lần. Tôi
khởi sự vẽ
những bức họa khác, cùng trong một thần thái như vậy (một cô gái nằm
tựa đầu lên
tay trên sô pha). Thời gian này chúng tôi nói chuyện ít hơn, so với
những ngày
cuối của mùa hè. Về phần tôi, tôi không muốn nói cho nàng nghe, nàng
vốn dĩ đã
buồn, về những vấn đề của tôi, sợ làm hư sự trong trắng tuyệt ngần của
cái thế
giới thần tiên vừa mở ra đó, trước cuộc đời của tôi mỗi ngày, vốn đã
quá nặng nề,
chật cứng, nào là những buổi học kiến trúc, nào là những chương trình,
kế hoạch
làm sao sau này trở thành họa sĩ, ngoài ra, còn những cuốn sách. Không
phải tôi sợ, nàng sẽ chẳng hiểu được, và chẳng hề thông cảm,nhưng
bởi vì tôi muốn hai thế giới tách hẳn ra, và đừng bao giờ trộn vào
nhau. Tôi hết
còn để ý đến đám bạn bè mùa hè, và những bạn học trung học, chúng đang
sửa soạn
để thay thế mấy ông bố của chúng làm chủ những nhà máy, những xưởng
thợ, và chỉ
còn Bông Hồng Đen – bây giờ thì tôi không còn có thể giấu đươc điều
này, đối với
bản thân mình – được nhìn thấy nàng mỗi tuần một lần quả là muôn vàn
hạnh phúc.
Vào những ngày mưa, những chiếc
xe tải và xe Mỹ leo con dốc “Gà không thể bay”, tiếng
bánh xe nghiến, hoặc trượt trên mặt đường sỏi, ngồi trong căn phòng,
chúng tôi
có thể nghe thấy, và tôi bỗng nhớ những ngày tôi là khách của cô tôi,
cũng ở trong
căn phòng này, và cũng nghe tiếng bánh xe nghiến hoặc trượt trên mặt
đường y như
vậy. Nhiều khi sự im lặng kéo thật dài giữa chúng tôi, nhưng vẫn thật
dễ chịu,
trong khi tôi chăm chú vẽ, và đôi khi mắt chúng tôi tìm gặp nhau. Vào
lúc bắt đầu,
bởi vì nàng vẫn như một đứa trẻ, cho nên thật thích thú trước sự kiện
được làm
một người mẫu và nàng mỉm cười, và rồi lại sợ, như vậy là làm hư nét
vẽ, hư dáng
nằm, và vội vàng lấy lại nụ cười, sao cho đôi môi trở lại như cũ, như
trước khi mỉm
cười, và cặp mắt mầu nâu của nàng sẽ tìm gặp cặp mắt của tôi, với cùng
sự im lặng
kéo dài thật lâu. Vào cuối những đợt im lặng lạ lùng như vậy, khi tôi
chăm chú
nhìn nàng, qua ánh mắt của tôi, nàng đoán ra được ấn tượng của nàng lên
tôi, và
trong khi tôi tiếp tục nhìn sâu vào mắt nàng, không nháy mắt, làn môi
của nàng
rung động, có vẻ như nàng không thể giữ lâu, không thể kìm hãm được nụ
cuời, và
tôi hiểu ra một điều, cái nhìn chăm chú, nhìn sâu vào mắt nàng, nhìn
thật lâu
không chớp mắt của tôi làm nàng hài lòng.
*
Khi về, cô bé có thói quen để
cô em vô nhà, còn cô chạy đến bên phông tên ngay bên đường cách nhà
chừng mười
bước để rửa chân, thật ra để đùa nghịch cùng những giọt nước. Những cử
chỉ,
dáng điệu của cô làm tôi sau này vẫn thường băn khoăn tự hỏi, không
biết cô bé
đi đón em tan trường về, hay ngược lại. Những giọt nước bị đôi bàn tay
nhỏ bé
ngăn chặn, bắn tung tóe, trầm bổng, trở thành muôn vàn nụ cười trên
môi, trên
má, trên tóc, càng thêm long lanh nhờ ánh mắt tinh nghịch, nhờ nụ cười,
tôi gặp
lại hình ảnh tuyệt vời này trong phim "Lần cuối nhìn Paris", như thể
chính cô bé của tôi đã khám phá ra, đã tìm lại cho cả Châu Âu, cho cả
loài
người, một thành phố Paris bị chiếm đóng vừa được giải tỏa, và nữ tài
tử Liz
Taylor chỉ lập lại những cử chỉ thật đàn bà của một cô bé con-người nữ
muôn đời
ở trong tôi.
1965. Những ngày viết
"Những ngày ở Sài-gòn". Thời gian xa cách làm những giọt nước chín
mùi, biến thành những chữ. Cô bé đã lớn, đã bước vào những năm cuối
cùng của
bậc Trung Học. Đã có lần tham gia biểu tình, bãi khóa. Đã có người yêu
đón đưa
những lần tới lớp, những giờ tan trường. Đã bị bà Giám Hiệu ra thông
báo cấm
những trò có hại cho thanh danh nhà trường như vậy. Đã bãi học không
phải để
tham gia biểu tình, nhưng để đi chơi với người yêu. Lợi dụng thành phố
đang
trong cơn nhốn nháo, cả hai theo chiếc xe lên nghĩa trang Bắc Việt để
thì thầm
những lời yêu đương giữa những nấm mồ và lắng nghe những người đã chết
kể về
từng gốc cây ngọn cỏ. Cô bé đã quên những buổi chiều đùa nghịch ngày
xưa, có
thể vì vậy mà phông tên nước cũng chẳng còn, có thể vì cô biết rằng
chẳng còn
ai mỗi lần tan sở vội vàng đạp xe tới cho kịp nụ cười của cô, nhưng vẫn
giữ thói
quen bọc những cuốn tập bằng những tờ giấy xanh có một cái tên rất đỗi
trớ trêu
là những tờ giấy dầu, kèm thói quen cất giấu những lá thư ở giữa hai
lần bìa,
như thể những bài học lạnh lùng, những công thức khó nhớ sẽ che chở
giùm cho cô
những tình cảm bồng bột, trước con mắt tò mò, soi mói của người khác,
như thể
những dòng chữ nóng bỏng trong thư nếu không làm cho cô học bài dễ
dàng, ít ra
nó cũng làm cho cô bớt cô đơn, trống trải. Cô viết: "Làm sao có thể
quên
được một người đã nói yêu mình, lần đầu tiên trong đời. Cái lần anh đón
H. trên
đường tới trường Gia Long, ngay lối vào vườn Tao Đàn, buổi sáng sớm sau
bao năm
trời xa cách, H. đã tự nhiên ngồi lên xe. Vậy là anh đã hiểu." Lần khác
cô
viết: "Có những đêm H. giật mình thức giấc, có thể vì nước mắt đầm đìa
trên gối. H. thường khóc trong khi ngủ, mỗi lần quá cô đơn và nghĩ đến
anh."
|
|