Thiếu Khanh
Hoàng Hạc
Lâu – Lầu Hoàng Hạc
Trong các
bài thơ về Lầu Hoàng Hạc được truyền tụng từ xưa, có lẽ bài Hoàng Hạc
Lâu của
Thôi Hiệu được ngưỡng mộ hơn cả. Nhiều thi sĩ Việt Nam cũng đã dịch bài
này ra
thơ Việt. Có người cho biết, đã có hơn bốn trăm bản dịch tiếng Việt từ
bài thơ
Hoàng Hạc Lâu này. Trong số đó có bản dịch của nhiều thi sĩ nổi tiếng,
từ Tản
Ðà, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố đến Trần Trọng San, Vũ Hoàng Chương vân
vân.
Riêng bản dịch của nhà thơ họ Vũ được những người biết đến đánh giá rất
cao
nhưng có lẽ do thời thế (được nhà thơ dịch sau năm 1975) mà ít người
được thưởng
thức bản dịch này. Ở đây người viết xin giới thiệu bản dịch tài hoa này
của thi
sĩ Vũ Hoàng Chương cùng với một số bài dịch sang các ngôn ngữ Anh,
Pháp, Đức của
các nhà Trung Hoa học Tây Phương nổi tiếng, và một bài dịch tiếng Anh
của người
viết.
TK
Theo Gấu, bản
dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ
Hoàng Chương, quá hay, nhưng không theo kiểu nhận định về "hay dở"
thông thường, hay khi phải so với những bản dịch khác!
Nói rõ hơn, vấn đề ở đây,
là bản dịch của VHC khác hẳn các bản dịch khác.
Gấu đã lèm bèm về bài thơ này một đôi lần.
Nguyên tác sử
dụng vần trắc, thành ra những bản dịch, trong số đó, hay nhất, là của
Tản Ðà với
riêng Gấu, thì đều sử dụng vần bằng, thành ra mất hẳn cái “air” trượng
phu,
viril, của bài thơ, theo kiểu “ba năm mẹ già cũng đừng trông”, của Thâm
Tâm,
hay kiểu Brodsky, "Doomed
Never to Return Home": kẻ bị kết án đi một
lèo, không quay lại…
Ðó là cái ý hoành
tráng của câu thơ đầy sảng khoái:
Hoàng hạc nhất khứ bất
phục phản.
Dịch nhảm kiểu
Gấu:
Một lần Gấu đi là đếch có về nữa!
Chính vì thế
mà VHC, khi dịch, đã sử dụng vần trắc.
Bài thơ, và tác giả của nó, từ ngàn xưa mà đã nhìn ra thân phận lưu
vong của Gấu,
hàng ngàn năm sau.
Thế mới khủng!
Có thể vì vậy,
mà người đời cứ dịch đi dịch lại hoài, nó.
Bởi vì mỗi
thời, con người lại cần 1 bản dịch của
Hoàng Hạc Lâu.
Bài Biển của
Gấu, theo nghĩa đó, cũng là 1 bản dịch của Hoàng Hạc Lâu!
Hà, hà!
Biển
Buổi chiều đứng
trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được
con người chở từ đâu tới
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng,
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Chỉ còn ta
cô đơn lẫn vào đêm
Như con
hải
âu già
Giấu chút
tình sầu
Vào lời
thì
thầm của biển...
Bài thơ của
VHC, dịch HHL, không phải được dịch sau 1975.
Gấu đã từng
nghe nó, khi học Ðệ Tam, [Ðệ Nhị, Gấu học nhảy, bỏ Ðệ Tam, lên Ðệ Nhị,
cuối năm thi Tú Tài 1, đậu, vô Chu Văn An, học Ðệ Nhất, quen Bạn C, ông
em nhà thơ...], trường Hồng Lạc, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài
Gòn, kế
ngay bên vườn Bờ Rô, khi là học trò của nhà thơ. Như thế, phải khoảng
năm 1956
-7, bởi vì Gấu đậu Tú Tài 2 năm 1958.
Ông dậy Việt
Văn, và có lần khen 1 bài luận của Gấu, nhưng cảnh cáo, bài luận làm
đúng thể
thức 1 bài luận, đừng có nghĩ là nó hay, mà vênh mặt lên!
Ngay lần đó,
ông đã cho biết, lý do ông dịch HHL, sử dụng vần trắc, như trên.
Bài Biển
này, từ khi ra đời, là đã gặp nhiều
hạnh ngộ, và gây cho tác giả của nó, hạnh phúc, có, và bất hạnh, càng
có, và càng
khổ.
Ðã từng được diễn đàn Gió-O đọc, trong mục đọc thơ. Một vị, bạn tù của
Gấu,
quen ở nhà tù quốc tế Bangkok, và sau đó, định cư tại Úc, viết thư khen
nức nở,
hào khí ngất trời. Một vị, cũng Bắc Kít, quen ở hải ngoại, trong 1 lần
nhậu xỉn,
phán, chỉ cần bài thơ này, là đủ rồi, khỏi cần làm thơ nữa. Vụ này đã
kể trong
bài viết Dạ Vũ Ký Bắc
Một trong những
vị độc giả đầu tiên, là cô bạn. Bài thơ này được làm ra, là vì cô bạn,
lần cả
hai gia đình đi thăm Wasaga.
Gấu mất 1 vị
độc giả quá thân, là vì bài thơ này.
Ðúng ra, là vì Gấu không
giữ đúng điều kiện:
ta cấm mi không được post mail của ta.
Sorry,
please take care. NQT
Tưởng Niệm Vũ
Hoàng Chương
Người xưa
thường nói, nếu vẽ rồng chớ có "điểm nhãn". Vẽ mắt rồng, bữa nào hứng
lên, rồng vàng, hạc vàng... bay mất, để trơ lại một thành Thăng Long
mất cả
Gươm Thiêng lẫn Rùa Thần, một Hoàng Hạc Lâu biến thành tiệm chả cá Lã
Vọng...
Hình Bóng Cũ
Theo thi sĩ, và cũng còn là ông
thầy Việt văn của người viết - năm
học Đệ Nhị, trường Hồng Lạc, của thầy Đoàn Viết Lưu, khi còn là một căn
hộ, ở
đường Sương Nguyệt Anh, Sài-gòn - bản dịch của Tản Đà dùng vần bằng,
thể thơ lục
bát, cho nên không diễn đạt hết ý nghĩa "bất phục phản" - toàn
"vần trắc" - trong nguyên bản. Bất phục phản! Nhân một cơn say, ông nổi
hứng, dịch một lần nữa, tạo thế chân vạc cho bài thơ.
Họ Vũ vốn là dân toán, ông vẫn
bị ám ảnh bởi những hệ thống trục tọa
độ, khi làm thơ. Nhưng cái tam giác của ông, vô tình làm tôi nhớ tới
tam giác bếp
núc của C. Lévi-Strauss.
Văn minh
nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp. Trước tiên
là sống.
Cái thuở loài người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée ăn cắp
giùm lửa.
Chín là trạng thái trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa,
thúi.
Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss. Phiền một nỗi,
trong khi
nướng, thui... con người bỗng mê "khói", bởi vậy văn minh nhân loại
cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ
thuỷ, ăn mật
ong, "hỗn như gấu", tới khi hít khói thuốc, là tàn một chu kỳ văn
minh.
Bắt chước Vũ
Hoàng Chương, C. Lévi-Strauss, tôi cũng tưởng tượng ra một thế chân vạc
của
Hà-nội. Ở đây, không có nguyên bản, cứ coi như vậy. Chỉ có dịch bản.
Một Hà-nội,
của những người di cư, 1954. Một, của những người ra đi từ miền Bắc. Và
một của
những người tù cải tạo, chưa bao giờ biết tới Hà-nội, như của Nguyễn
Chí Kham,
trong lần ghé ngang, trên chuyến tầu trở về với gia đình.
Bếp Lửa trong văn chương