*

 



Thơ mỗi ngày

POETIC AFFAIRS

Tình Thơ (không phải Thơ Tình)

NGUYỄN LƯƠNG VỴ

Nỗi lòng vân cẩu

Tứ tấu khúc la violetta

Hãy tím nữa những mùa xa lắc
Xa lơ tím hết nụ em cười

 

Note: NLV viết kèm, mấy bài thơ mới này có cái air 'tẩu hoả nhập ma'. Tùy anh...
*
Nhưng, nếu như thế, thì đây quả là những vần thần sầu.

Em ơi, tím đi em, tím đi em, tím... đi em!

Xa lơ tím hết nụ em cười!
Tuyệt, tuyệt!

NIGHT

Dances beautifully
and has great desires.
Seeks the road.
Weeps in the woods.
Is killed by dawn, fever,
and the rooster.

Ðêm

Khiêu vũ thật đẹp
và có những ham muốn lớn.
Kiếm đường.
Khóc trong rừng.
Bị giết bởi buổi rạng đông, cơn sốt,
và những con gà trống.


FROM MEMORY

The narrow street rears up from memory –
let it be this poem's larynx-
and the thick gray smoke above the coking plant,
casting sparks into the sky like a volcano,
repaying its debt to the stars. 

My street: two proud old maids
with narrow lips-they'd survived Siberia
and Stalin; a young actor, craving fame,
and Professor G., who'd lost an arm in the Uprising
and wore his empty shirtsleeve like a sail. 

I don't know anything yet, nothing's happened,
not counting the war or the massacre of Jews.
In winter gray snow lurks on rooftops,
alert as an Indian, dreading spring.
Vacation comes, a peeled orange. 

A greedy priest gulps Gospels
in the crimson, Neo-Gothic church;
oh, heart of hearts, Christ's wounded breast.
Thank God for cream puffs after Mass
to help erase your Latin tortures. 

In the barracks new recruits are training,
one of my friends plays the trumpet
like Miles Davis, only better.
Young ladies promenade
in wide starched skirts.
The ugly earth, gashed by flat
black rivers, scarred
like a German student's cheek,
held still all day; at night
it crooned in two languages,

and we also lived in two idioms,
in the cramped jargon of the commonplace, of envy,
and in the language of a great dream.
At noon the clouds' eye gently
opened, the eye of tears and light.

Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners

Từ hồi ức

Con phố hẹp bò ra từ hồi ức –
Thì cứ coi nó là thanh quản của bài thơ này –
Khói xám xịt, đặc kịt, bên trên nhà máy than,
Khạc lửa lên bầu trời như miệng núi lửa,
Trang trải nợ nần của nó cho những vì sao 

Con phố của tôi: Hai mụ tớ già, kiêu ngạo
Với cặp môi mỏng dính - Họ đã sống sót Siberia và Stalin; một diễn viên trẻ, thèm khát danh vọng,
Và Giáo sư P., mất một cánh tay trong Vụ Vùng Lên
Cái tay áo mất cánh tay của ông phất phơ, phe phảy như 1 cánh buồm.

Tôi chưa biết cái gì, chưa cái gì xẩy ra,
Nếu không tính cuộc chiến và cuộc tàn sát dân Do Thái.
Mùa đông, tuyết xám rình rập trên đỉnh mái nhà,
Cảnh báo, như một tên Da Ðỏ, mùa xuân đáng sợ.
Nghỉ hè tới, một trái cam bóc vỏ.

Một vị linh mục tham ăn nhai nát Phúc Âm
Trong nhà thờ Tân – Gothic đỏ rực;
Ôi, trái tim của những trái tim, ngực bị thương của Chúa Ky Tô.
Cám ơn Chúa, vì những bánh kem sau lễ Mass
Nhờ chúng mà lũ con chiên chúng con xóa được những cú tra tấn La Tinh.

Trong trại lính, tân binh được tuyển mộ
Một trong những đứa bạn của tôi thổi kèn
Như Miles David, thua chẳng thua, mà còn bảnh hơn
Những thiếu nữ trẻ dạo chơi
Trong những áo sơ mi, cứng ngắc vì hồ, và thật rộng.

Trái đất xấu xa, được vạch bằng những con sông đen,
Nông toèn, đầy sẹo, như cái má của 1 sinh viên người Ðức,
Vẫn cố đứng vững một ngày như mọi ngày; vào ban đêm,
Nó ngâm nga bằng hai ngôn ngữ
Và chúng ta, thì cũng sống bằng hai thành ngữ
Trong một thứ tiếng lóng chật hẹp, tù túng, tầm thường, cũ rích, của thèm muốn
Và trong ngôn ngữ của giấc mộng lớn.
Vào buổi trưa, con mắt của đám mây dịu dàng mở ra
Con mắt của những giọt nước mắt và ánh sáng.
 

PASSWORD

Look, your life, too, is becoming
the oil in a lamp on whose surface
the weak blue flame of homeland wanders.
That land, like depression, will steal
your youth and turn it into a password,
will take your rapture and give grief;
that land, that clock that won't run,
black band on a sleeve,
that land where souls are in storage
and bodies are no one's because death
is paid in advance and will come,
too early, at dawn, with its forehead of an ape,
too early, the clouds of morning, too early,
a prayer, kiss, the helpless children
fallen too early, and instead of orchids
the ashes of mountain September, cold fog,
the consoling lie, booze, not hell.

Mật mã

Nhìn kìa, đời của mi, thì có khác gì
dầu trong đèn, trên mặt dầu,
là cái ánh lửa xanh yếu ớt của quê nhà lang thang, vất vưởng.
Quê nhà, như cơn suy sụp tinh thần, sẽ chôm
tuổi trẻ của mi và biến nó thành một mật mã,
sẽ lấy niềm say mê của mi, và cho mi nỗi đau đớn;
cái xứ sở đó, đồng hồ ngưng, không chịu tí tách nữa,
băng đen trên tay áo,
xứ sở đó, nơi linh hồn thì nằm trong kho
và xác thân thì của chẳng một ai, bởi vì Thần Chết
thì đã được trả tiền trước, và sẽ tới,
rất sớm, vào lúc rạng đông, với cái trán khỉ của nó,
rất sớm, những đám mây buổi sáng, rất sớm,
lời cầu kinh, nụ hôn, những đứa trẻ vô vọng
sẽ té xuống rất sớm, và thay vì phong lan,
thì là tro núi Tháng Chín, sương mù lạnh
lời dối trá an ủi, bữa say sưa, không phải địa ngục 

Adam Zagajewski: Without End


OUT WALKING

Sometimes out walking, on a country road
or in a quiet green forest,
you hear scraps of voices, perhaps they're calling you,
you don't want to believe them, you walk faster,
but they catch up quickly,
like tame animals.

You don't want to believe them, then later
on a busy city street
you're sorry you didn't listen
and you try to summon up
the syllables, the sounds, and the intervals between them.

But it's too late now
and you'll never know
who was singing, which song,
and where it was drawing you.

Adam Zagajewski

 

Ngoài trời tản bộ

Ðôi khi tản bộ ngoài trời, trên con đường quê
Hay trong một khu rừng xanh êm ả
Bạn nghe những mẩu tiếng nói, chúng đang gọi bạn,
Bạn không muốn nghe, và bước nhanh
Nhưng chúng mau lẹ bắt kịp
Như những con vật đã được thuần hóa

Bạn không muốn nghe chúng, và rồi sau đó
Trên con phố đông người, bận rộn
Bạn cảm thấy buồn rầu vì đã không chịu lắng nghe
Và bạn cố chắp vá những âm thanh, và những khúc ngưng giữa chúng

Nhưng quá trễ rồi
Và bạn chẳng bao giờ biết
Người nào hát, bài hát gì
Và nó đưa bạn đi đâu



*


The Outsider: On the Death of
Adlai Stevenson
after a Press Conference in London on the Vietnam War

Tiredness can resemble dishonesty,
and when he spoke to us,
it was only a matter of minutes
before the tired heart stopped.

So we were amazed by the words he used –
'We shall always fight against an outsider
imposing his will, ' he said.
'Who is the outsider?' we demanded,
but he gave us no reply.
For tiredness can resemble dishonesty,
and you must be very tired when you die.

The outsider was waiting,
on the Embassy steps, in Grosvenor Square –
the outsider who is always finally there,
even though you begin
with an advantage in tanks & guns
and a 7th Day Adventist fleet;
the defences fall & the outsider steps within
and death resembles defeat.

July 1965
Graham Greene: Reflections

'Who is the outsider?' we demanded,
The ousitder, Kẻ Lạ, Người Dưng…là thằng cha nào vậy?
Yankee Mũi Lõ, hay Mũi Tẹt?

Kẻ bên ngoài: Về cái chết của
Adlai Stevenson
theo cuộc họp báo ở Luân Ðôn về Chiến Tranh Việt Nam

Mệt mỏi có thể giống bất lương,
và khi anh ta nói với chúng ta
thì chỉ còn vài phút
là trái tim mệt mỏi ngừng đập.

Bởi thế chúng ta ngỡ ngàng vì những từ anh dùng -
“Chúng ta luôn chiến đấu chống ngoại bang
khi kẻ này muốn áp đặt ý muốn của nó lên chúng ta”, anh nói.
“Ngoại bang là thằng khốn nào vậy” chúng ta hỏi
Nhưng anh không trả lời
bởi vì mệt mỏi có thể giống không thành thực
và bạn phải mệt mỏi lắm khi bạn chết.

Tên ngoại bang thì đang đợi
ở bực thềm Tòa Ðại Sứ, ở Công Trường Grosvernor -
kẻ ngoại bang sau cùng luôn luôn ở đó,
ngay cả bạn bắt đầu với lợi thế xe tăng & súng đạn
và hạm đội “7th Day Adventist fleet”
công cuộc phòng thủ thất bại, kẻ ngoại bang bước vô
và cái chết giống như thua trận.

Gặp gỡ ở Ðiện Cẩm Linh

Thưa Ngài TBT,
Thú thực, tôi tới diễn đàn này có tí bi quan. Tôi thuộc về ‘khu’ số 2 – Văn hóa.

Nói, lèm bèm, bẻm mép… thì thường được coi như là 1 sự tẩu thoát, chạy trốn hành động – thay vì là một màn mở đầu đưa tới hành động – và những từ trừu tượng lớn lao thì thường ùa đi thật xa, và thật nhanh. Tôi cảm thấy không thể, thực sự là vậy, tóm tắt một vài tiểu luận dài, tuyệt, được đọc ở trong “khu” của tôi. Làm như thế là bất công đối với tác giả và trí nhớ của tôi, như là 1 người già, thì yếu xìu.
Ðiều mà tôi nhận ra, thì cũng chỉ là cá nhân, riêng lẻ, là, tôi thường bị tấn công vài lần, bởi đám ký giả Tây Phương, mặc dù tôi cố tránh họ: “Tại sao mi ở đây?

Ấy là vì, trên trăm năm nay vẫn có cái sự hồ nghi - thù địch, phải nói như thế - giữa “nhà Chúa Ky tô La mã”  và chủ nghĩa CS. Ðây không phải chủ nghĩa Mác xít thứ thiệt, bởi vì Marx đã kết án vua Henry VIII, vì đã đóng cửa những tu viện. Nhưng sự hồ nghi thì vẫn còn. Vào khoảng chừng 15 năm vừa qua, chừng đó, tôi thường trải qua khá nhiều thời gian của đời mình ở vùng Mỹ châu La tinh, và ở đó, tôi cảm thấy hạnh phúc, khi nói rằng, sự hồ nghi này thì đã chết, và được chôn vùi, trừ một dúm tín hữu Ky Tô, cá nhân từng người, và gần như đều già cằn như tôi. Nó không còn hiện hữu. Chúng ta đang chiến đấu – Ky tô La mã đang chiến đấu – cùng với những người Cộng sản, và làm việc với những người Cộng sản. Chúng ta cùng chiến đấu chống lại những Ðội Hành Quyết ở El Salvador. Chúng ta cùng chiến đấu chống lại bọn Contras ở Nicaragua. Chúng ta cùng chiến đấu chống lại Tướng Pinochet ở Chile.

Không có sự phân chia về tư tưởng giữa tín hữu Ky tô – Ky-tô La mã – và những người CS. Ở nơi Chính quyền Sandinista, bạn tôi Tomas Borge, Bộ trưởng Nội vụ Mác xít, làm việc thật thân mật, bạn bè sát cánh bên nhau, với Ðức Hồng Y, Bộ trưởng Văn hóa, Ðức Hồng Y Jesuit, trông coi về sức khỏe, y tế và giáo dục, với Cha D’Escoto, Bộ trưởng Ngoại giao. Chẳng còn rào cản giữa Ky tô La mã và chủ nghĩa CS.

Giấc mơ của tôi, tôi muốn nói ra ở đây, nhưng lại sợ không nằm trong ‘khu’ Văn hóa, đó là, sự cùng-hợp tác giữa Ky tô La mã và chủ nghĩa CS sẽ trải dài trải rộng mãi ra, tới tận Âu Châu, Tây và Ðông. Và tôi còn dám mơ như thế này nữa cơ, thưa Ngài Tổng Bí Thư, đó là, sẽ có một ngày, trước khi tôi chết, một vị Ðại sứ của Liên Xô, tới giảng đạo CS cho Vatican.

Bài diễn thuyết này được đọc tại Moscow ngày 16 Tháng Hai, 1987.

Graham Greene: Reflections


OCTOBER LIGHT

 

That same light by which I saw her last
Made me close my eyes now in revery;
Remembering how she sat in the garden 

With a red shawl over her shoulders
And a small book in her lap,
Once in a long while looking up 

With the day's brightness on her face,
As if to appraise something of utmost seriousness
She has just read at least twice, 

With the sky clear and open to view;
Because the leaves had already fallen
And lay still around her two feet.

Charles Simic

 
Ánh sáng Tháng Mười

Cũng ánh sáng này tôi nhìn nàng lần mới rồi
Bây giờ nó làm tôi nhắm mắt lại và mơ màng
Nhớ lại nàng ngồi trong khu vườn 

Khăn đỏ choàng trên vai
Cuốn sách nhỏ trên đùi
Nàng nhìn lên một lúc thật lâu

Với ánh sáng ban ngày rạng rỡ trên khuôn mặt
Như thể để thẩm định một điều gì thật sự nghiêm trọng
Nàng vừa đọc ít nhất là hai lần, 

Bầu trời thì trong, mở ra để nhìn ngắm,
Bởi vì những chiếc lá đã rụng
Phủ quanh chân nàng.

The Invisible

7

Dear Miss Russell:

Nights, you took me on a private tour
Of the empty town library.
I could hardly keep up
As you darted along the rows of books,
Whispering their names,
Pointing out the ones I ought to read,

Then forgetting all about me,
Pulling the light cord
And leaving me in the dark
To grope for a book
Among the shelves,
Surely the wrong one,

As I was soon to learn
At the checkout desk
Under your pitying gaze
That followed me into the street
Where I dared not stop
To see what I held in my hand
Until I had rounded the corner.

Charles Simic

Những người vô hình

Cô Russell thân mến:

Ðêm, cô dẫn một mình em,
Tới thư viện trống rỗng của thành phố.
Em không làm sao theo kịp,
Khi cô dảo nhanh qua những dẫy sách,
Thì thầm những cái tên
Giơ ngón tay chỉ những cuốn em cần đọc, 

Rồi thì hoàn toàn quên đứa học trò,
Cô giựt sợi dây đèn,
Và để mặc em trong bóng tối,
Sờ soạng tìm một cuốn,
Giữa những giá sách,
Hẳn nhiên rồi, không phải cuốn đó 

Chẳng mấy chốc em hiểu liền sau đó,
Khi tới bàn của cô thủ thư,
Dưới cái nhìn thương hại của cô giáo của mình,
Cái nhìn theo em ra tận đường phố,
Nơi em sợ không dám dừng lại,
Ðể coi cái cuốn cầm trong tay là cuốn chi chi,
Cho tới khúc ngoặt ở một góc phố.

I WASN'T IN THIS POEM

I wasn't in this poem,
only gleaming pure pools,
a lizard's tiny eye, the wind
and the sounds of a harmonica
pressed to not my lips.

 

Tớ đếch có trong bài thơ này

Tớ đếch có trong bài thơ này
chỉ những hồ nước trong veo
[Cái gì gì, tóc em từng sợi nhỏ,
rớt xuống thành hồ nước long lanh?]
Con mắt nhỏ xíu của chú thằn lằn, gió
và tiếng khẩu cầm,

không đè lên môi tớ

CELLO

Those who don't like it say it's
just a mutant violin
that's been kicked out of the chorus.
Not so.
The cello has many secrets,
but it never sobs,
just sings in its low voice.
Not everything turns into song though.
Sometimes you catch a murmur or a whisper:
I'm lonely,
I can't sleep.

Hồ cầm

Kẻ không thích, thì phán,
Ui dào chỉ là cái vĩ cầm chưa thành vĩ cầm
Bị dàn nhạc đá văng ra khỏi bản đồng ca.
Không phải vậy.
Hồ cầm có nhiều bí ẩn,
nhưng không bao giờ sụt sùi,
chỉ hát trong giọng trầm của nó.
Ðâu có phải mọi chuyện thì đều biến thành một bài ca.
Ðôi khi bạn bắt được một tiếng thì thầm, hay thỏ thẻ:

Anh G. ơi,
Ðêm nay, em cô đơn,
Em không thể ngủ được.

Adam Zagajewski

THE CITY

You said: 'I'll go to another land, I'll go to another sea.
Another city will be found, a better one than this.
My every effort is doomed by destiny
and my heart - like a dead man - lies buried.
How long will my mind languish in such decay?
Wherever I turn my eyes, wherever I look,
the blackened ruins of my life I see here,
where so many years I've lived and wasted and ruined.' 

Any new lands you will not find; you'll find no other seas.
The city will be following you. In the same streets
you'll wander. And in the same neighborhoods you'll age,
and in these same houses you will grow grey.
Always in this same city you'll arrive. For elsewhere - do no
hope-
there is no ship for you, there is no road.
Just as you've wasted your life here,
in this tiny niche, in the entire world you've ruined it.

C.P. Cavafy

 

Sài Gòn

 Bạn nói: “Tớ sẽ đi tới một biển trời khác,
Và sẽ kiếm thấy một Sài Gòn khác, bảnh hơn Sài Gòn này.”
Mọi cố gắng của tớ thì đều bị số phận trù ẻo
Và trái tim của tớ – như một người chết – bị chôn vùi.
Tớ còn phải nức nở than van bao lâu nữa, trong cái thành phố thối rữa như thế này?
Nhìn đi đâu, về hướng nào,
Thì cũng vẫn những điêu tàn đen đủi, là cuộc đời của tớ mà tớ nhìn thấy,
Ở một nơi trong bao tháng năm, tớ hoang phế đời mình." 

Bạn sẽ chẳng tìm thấy một biển trời mới mẻ nào đâu, nghèo mà ham!
Sài Gòn sẽ tò tò bám theo bạn, như một con đỉa đói!
Cũng vẫn những con phố đó,
Nào ngã tư Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao (1) nào con hẻm 72 Thị Nghè,
Nào Đống Rác Chợ Cũ, nào Xóm Ken bên kia Thủ Thiêm
Vẫn những chòm xóm đó mà bạn cứ thế mà mòn mỏi, tàn tạ đi
Mớ tóc xam xám, rồi muối tiêu, rồi bàng bạc, rồi trắng toát!
Vẫn Sài Gòn mà bạn sẽ tới!
Ui chao đừng hy vọng, đừng trông mong,
Chẳng có tầu, mà cũng chẳng có đường.
Như bạn tàn tạ cuộc đời của bạn, ở đây.
Ở Sài Gòn-Toronto này!

 

WALK THROUGH THIS TOWN

Walk through this town at a gray hour
when sorrow hides in shady gates
and children play with great balls
that float like kites above
the poisoned wells of courtyards,
and, quiet, doubting, the last blackbird sings.

Think about your life which goes on,
though it's already lasted so long.

Could you voice the smallest fragment of the whole.

Could you name baseness when you saw it.

If you met someone truly living
would you know it?

Did you abuse high words?

Whom should you have been, who knows.
You love silence, and you've mastered
only silence, listening to words, music, and quiet:
why did you begin to speak, who knows.

Why in this age, why in a country
that wasn't born yet, who knows.
Why among exiles, in a flat that had been
German, amid grief and mourning
and vain hopes of a regained myth.

Why a childhood shadowed
by mining towers and not a forest's dark,
near a stream where a quiet dragonfly keeps watch
over the world's secret wholeness

-who knows.

And your love, which you lost and found,
and your God, who won't help those
who seek him,
and hides among theologians
with degrees.

Why just this town at a gray hour,
this dry tongue, these numb lips,
and so many questions before you leave
and go home to the kingdom
from which silence, rapture, and the wind
once came.

Adam Zagajewski

Ði bộ qua thành phố

Ði bộ qua thành phố vào giờ xám
khi nỗi buồn trốn vào bóng của những cái cổng
Và trẻ con chơi những trái banh to tổ bố,
bồng bềnh như những cánh diều bên trên
những cái giếng nước độc ở sân nhà,
và im ắng, hồ nghi, những tiếng hót cuối cùng của những con chim hét. 

Hãy nghĩ về cuộc đời của mi cứ thế trôi đi, trôi đi,
mặc dù nó thì cũng quá dài, quá dai, quá dở rồi. 

Liệu mi có thể phán một mẩu mỏng dính của trọn gói.

Liệu mi có thể gọi tên phần thấp hèn, khi mi nhìn thấy nó. 

Nếu mi gặp một người thực sự sống,
mi biết được điều này? 

Mi đã từng đao to búa lớn, những đại ngôn? 

Mi là thằng chó nào, ai cần biết.
Mi khoái yên lặng, làm chủ chỉ sự im lặng, lắng nghe những từ, âm nhạc, và im ắng:
Tại sao mi lại bắt đầu lèm bèm, ai mà biết được.
Tại sao vào cái thời này, ở cái xứ sở chưa từng sinh ra,
ai mà biết.
Tại sao giữa những tên lưu vong, trong một căn phòng ở Ðức, giữa đau khổ và than thở
Và những hy vọng vô ích về một huyền thoại có lại được. 

Tại sao một tuổi thơ u ám,
bởi những tháp mỏ, không phải bóng tối của 1 cánh rừng,
gần bên một ngọn suối nơi một con chuồn chuồn lặng lẽ ngó xuống
trọn bí mật của thế giới 

-ai biết. 

Và tình yêu của mi, mất đi tìm lại được
và Chúa của mi, đếch thèm để ý gì đến những kẻ mầy mò tìm kiếm Ông Ta?
và trốn giữa những tay giáo sư Mít,
có bằng cử nhân Triết, Ðại Học Văn Khoa Xề Gòn

[Hà, hà!]

Tại sao lại đúng là thành phố này, vào cái giờ xám xịt này
cái lưỡi thì khô, đôi môi thì tê cóng,
và rất nhiều câu hỏi trước khi mi rời bỏ, và về nhà
về với vương quốc,
ở đó, đã có lần được sự im lặng, nỗi niềm say mê, và gió,
viếng thăm.

Summer Light

It likes empty churches
At the blue hour of dawn.
The shadows parting
Like curtains in a sideshow,
The eyes of the crucified
Staring down from the cross
As if seeing his bloody feet
For the very first time.

Charles Simic

Ánh Hạ

Nó thích những nhà thờ vắng tanh
Vào giờ xanh rạng đông
Những cái bóng đi
Như những bức màn trong một màn diễn
Con mắt của Chúa bị đóng đinh
Nhìn dọc cây thánh giá
Như thể lần đầu tiên,
Thấy đôi chân máu me của Người


READING MILOSZ

I read your poetry once more,
poems written by a rich man, understanding all,
and by a pauper, homeless, an emigrant, alone.
You always want to say more
than we can, to transcend poetry, take flight,
but also to descend, to penetrate the place
where our timid, modest realm begins.
Your voice at times persuades us,
if only for a moment,
that every day is holy
and that poetry, how to put it, rounds our life,
completes it, makes it proud
and unafraid of perfect form
I lay the book aside
at night and only then the city's normal tumult starts again,
somebody coughs or cries, somebody curses. 

-Adam Zagajewski (Translated from the Polish by Clare Cavanagh)

The New York Review, 1 March, 2007.
 

Đọc Milosz

Tôi đọc thơ ông, thêm một lần nữa,
những bài thơ viết bởi một người giầu có, thông tuệ,
và bởi một người nghèo mạt hạng, không nhà cửa, di dân, cô độc.
Ông luôn muốn nói nhiều hơn
chúng tôi có thể nói,
để chuyển hóa thơ, để cất cánh,
nhưng cũng để hạ cánh, dấn sâu vào khoảng đất
nơi cõi đời của chúng ta, dụt dè, chơn chất, bắt đầu.
Tiếng nói của ông, nhiều lần, chỉ trong một khoảnh khắc,
khiến chúng tôi ngộ ra một điều là,
mỗi ngày, một ngày, mọi ngày, thì thiêng liêng.
và rằng, thơ, thể hiện điều đó, bằng cách,
 quanh quẩn bên đời ta,
hoàn tất nó, làm cho nó tự hào, hãnh diện,
và, đâu cần một dạng hoàn hảo nào, cho thơ.
Tôi để cuốn sách qua một bên.
Đêm, và chỉ tới lúc đó, cái xô bồ, thường lệ, của thành phố lại khởi động,
một người nào đó ho, hay la, một người nào đó, nguyền rủa.

nqt chuyển dịch

Nguyên tác tiếng Ba Lan Clare Cavanagh dịch qua tiếng Anh.

Coetzee nói về Brodsky:  Ông chẳng hề loay hoay hì hục làm cho mình được yêu, thí dụ, như Pasternak, rất được yêu. Venclova cho rằng, người Nga tìm chẳng thấy, ở trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha thứ tất cả", "sướt mướt", "nức nở con tim", hay sự "vui tươi, nhí nhảnh". Nhà thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước, rất ư là không giống Nga, very un-Russian, vốn trở thành thói quen trong thơ Brodsky. Ông trau giồi hài hước, Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những ý nghĩ, tư tưởng, hay hoàn cảnh mà ông cảm thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi phải phơi lòng mình ra, hay có thể, chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".
*

Thực sự, trước 1975, TTT không phải là một nhà thơ được nhiều người yêu mến.
Chính vì vậy, sự bàng hoàng, cơn chấn động ở hải ngoại, khi nghe tin ông mất, chỉ có thể giải thích: Chính sự tiết tháo, cương trực, không khoan nhượng với cả chính mình không kiếm cách làm cho mình được yêu mến... hay ngắn gọn, chính cái sự quá sạch của ông, lại trở thành niềm tin cho tất cả mọi người!
Và như thế, ông lại giống...  Solzhenitsyn, ông này suốt một đời khổ hạnh, làm việc như trâu, không cho mình bất cứ một cơ hội nào bị sa ngã, bị dụ dỗ... bởi cái ác.
Solz cho rằng, chỉ có cách đó, để không bao giờ phản bội những người bạn tù của ông.
*

Về câu hỏi, tại sao đầy tù cải tạo lên phía Bắc, đã có một lần Gấu đưa ra một câu trả lời, khi đọc một số Granta.
Nay có câu trả lời đơn giản hơn của Shalamov:

Nature simplifies itself as it heads toward the poles (and we head north now because so many scores of thousands were doing so, as Stalin's rule developed, and as the camps crazily multiplied). Nature simplifies itself, and so does human discourse.

Thiên nhiên tự giản tiện chính nó khi hướng về phía cực, (và chúng tôi, bây giờ hướng bắc, ấy là vì hàng hàng lớp lớp đã đang làm như thế, khi chế độ Stalin phát triển, khi nhà tù cứ khùng điên nở rộ, tăng trưởng lên mãi). Thiên nhiên tự giản tiện, và cũng vậy, cách ăn nói của con người cứ thế co lại.

Kolyma Tales [Chuyện trại tù Kolyma]

*

Varlam Chalamov

L'ancien Zek rend visite à Pasternak dès sa sortie du Goulag en 1953.
"La porte s'ouvrit aussitôt, Pasternak était sur le seuil. Des cheveux gris, un teint mat, de grands yeux brillants, une mâchoire lourde, des mouvements vifs et harmonieux. Un petit vestibule, un porte-manteau, à droite la porte de son cabinet de travail, et au fond, une pièce avec un piano jonché de pommes, un profond divan contre le mur, des chaises. Aux murs, des aquarelles de son père.”

*

Coetzee nói về Brodsky:  Ông chẳng hề loay hoay hì hục làm cho mình được yêu, thí dụ, như Pasternak, rất được yêu. Venclova cho rằng, người Nga tìm chẳng thấy, ở trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha thứ tất cả", "sướt mướt", "nức nở con tim", hay sự "vui tươi, nhí nhảnh". Nhà thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước, rất ư là không giống Nga, very un-Russian, vốn trở thành thói quen trong thơ Brodsky. Ông trau giồi hài hước, Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những ý nghĩ, tư tưởng, hay hoàn cảnh mà ông cảm thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi phải phơi lòng mình ra, hay có thể, chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".

Ui chao, liệu có thể bệ cả đoạn trên sang bài tưởng niệm ông anh nhà thơ?

Why not?

5 năm rồi không gặp...

5 năm rồi TTT đã ra đi, nhưng hẳn là ai cũng còn nhớ, khi ông sắp đi, ra lệnh cho vợ con, đừng làm phiền bè bạn, đừng thông báo thông biếc, sống ta đã chẳng làm cho họ vui, cớ sao ta chết, lại làm cho họ buồn?

Gấu phải mãi sau này, mới hiểu ra tại làm sao mà Milosz thèm được cái số phận bảnh tỏng của Brodsky: được lọc ra giữa những thi sĩ của thời đại của ông, của thành phố của ông, để nhân dân ban cho cái án cải tạo, rồi được Đảng tha cho về, được Đảng bắt phải lưu vong, và sau đó, khăn đóng áo dài bước lên Đài cao nhận Nobel. Trong khi cái số phần của Milosz, chính là cái mà ông miêu tả trong bài viết Rửa, To Wash, 1 thi sĩ bửn của thời đại của ông.

To Wash

At the end of his life, a poet thinks: I have plunged  into so many of the obsessions and stupid ideas of my epoch! It would be necessary to put me in a bathtub and scrub me still all that dirt was washed away. And yet only because of that dirt could I be a poet of the twentieth century, and perhaps the Good Lord wanted it, so that I was of use to Him.

Một nhà thơ của thế kỷ 20, cuối đời nhìn lại, thấy mình bẩn quá, bèn chui vô bồn tắm, dùng xà bông thơm kỳ cọ, cho văng tất cả những cái bẩn đi.
Kỳ mãi, kỳ mãi, vẫn không hết, và ông ngộ ra, số phận của ông là như vậy.
Bởi vì, nếu ông ta sạch,Thượng Đế đã không giao cho ông ta "nghĩa cả" đó, và nhân loại cũng đếch cần đến ông ta.

Gấu tin là trong bài thơ tự trào về mình, TTT cho biết, chưa từng bắn một phát súng, bảo là tự hào, thì thật nhảm (1): thi sĩ cũng muốn có tí bùn dơ ở trên người, và sau 30 Tháng Tư, phải cám ơn VC đã cho ông đi tù, cùng bạn bè,“cùng hội cùng thuyền”, nhờ cú đi tù mà lại làm được thơ, như những ngày đầu đời, “nụ hôn đầu Ga Hàng Cỏ”, bẽn la bẽn lẽn giấu các bạn tù!

(1) Một chủ nhật khác, một cách nào đó, là một bản văn giải thích hành động không rút súng bắn VC một lần nào!

Nên nhớ, TTT đã từng nhập thân vào bạn của ông, là anh chàng sĩ quan VNCH, Đạo, anh này đã từng nằm suốt đêm ở bên ngoài, chờ cho tên VC nằm vùng, một “serial killer”, chuyên xử tử những tên Ngụy trong vùng, đêm đó lén về nhà, hú hí với vợ con, sáng trở về rừng, mới ra lệnh cho lính dưới quyền nổ súng!

TTT có mấy cuốn tiểu thuyết viết bỏ dở, chưa kể Ung Thư, hoàn tất nhưng không cho xb. Trong mấy cuốn đó, cuốn nào cũng thật là tuyệt, ở những đoạn mở.

Uổng thật!
Tiếc quá!

Giấu mặt, viết về 1 em mới nhơn nhớn, khung cảnh Đà Lạt.
Truyện anh chàng sĩ quan VCNH tên Đạo.

Một cú tự thuật, TTT vô Quang Trung, giữa đám con nít mới lớn, chúng gọi ông là Cụ, hay Bố gì đó.
Còn ông, qua nhân vật kể chuyện, xưng là Ông Già.

Nhân nói chuyện... Bố: Cả trại tù Đỗ Hòa, đám học viên, không chỉ Đội Ba, mà Gấu là Y Tế Đội, đều gọi Gấu là Bố!

Bà Cụ Gấu tự hào lắm, vì “chi tiết là Thượng Đế” thần sầu này!


Thủ Thiêm

Gấu có những kỷ niệm khủng khiếp về cái đói, khi còn là 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít. Có những kỷ niệm, là của ông bố của Gấu. Thí dụ cái chuyện bà nội của Gấu, chồng chết sớm, nuôi đàn con, có nồi thịt, bắt con ăn dè ăn xẻn thế nào không biết, nồi thịt biến thành nồi ròi.

Vô Nam, phải đến sau 30 Tháng Tư, Gấu mới được tái ngộ với cái đói, những ngày đi tù VC.
Thê lương nhất, và cũng tiếu lâm nhất, có lẽ là lần Gấu Cái đi thăm nuôi, lần đầu, sau mấy tháng mất tiêu mọi liên lạc với gia đình.
Cái tật viết tí tí, không bao giờ dám viết ra hết, kỷ niệm, hồi nhớ, tình cảm… nhất là thứ kỷ niệm tuyệt vời, nhức nhối.... là do cái đói gây nên!

Nhân Gió-O 10 năm

Sư Tử Hà Đông

Charles Simic đọc Vợ Hổ, Tiger's Wife:

The Weird Beauty of the Well-Told Tale

Cái đẹp thật là kỳ cục của một câu chuyện được kể thật là ngon lành

Bữa trước Blogger HH có vẻ ngạc nhiên, vì cái sự ghét đọc những bài điểm sách của GNV. Sự thực, Gấu chỉ ghét cái kiểu đọc sách của Mít ta, ở cả hai phía, người điểm sách, và độc giả, thường chỉ cần đọc bài điểm, là kể như biết về cuốn sách, tha hồ vung vít, nếu có ai hỏi tới, hoặc cũng chẳng cần có ai hỏi tới, thì cũng giơ đôi giầy mới lên khoe, tớ mới tậu nè. Ngưồi điểm sách Mít thường là không học qua cái nghề này, viết tuỳ hứng, hoặc tuỳ tác giả có phải phe ta hay không. Cả 1 dòng văn học Miền Trung, trong thời kỳ chiến tranh, ở một số tác giả làng nhàng, được in ấn lại, chỉ dành cho những độc giả mê đoc sách, và được những nhà phê bình phe ta đưa lên tận mây xanh!

Mớ sách quí đó, phải được đọc đúng, hiểu đúng, về chúng, về những tác giả viết ra chúng, không thể viết “khơi khơi” như thế được.
Hình như HH có 1 bài viết về Lê Văn Thiện, được lắm, theo cái nghĩa, lần đầu đọc nó, và ở cách xa cuộc chiến...
Để check lại, rồi viết tiếp. NQT

Chúng ta chưa có thói quen đọc những bài điểm sách đúng đắn, nghiêm túc, về một tác giả.

G rất mê đọc sách, để kiếm sách đọc!

Nhờ những bài điểm sách trên Partisan Review, thời mới ra được hải ngoại mà G khám phá ra cái mỏ Đông Âu, và biết ơn tờ báo, đúng cái kiểu biết ơn mà Âu châu đang bày tỏ, trước một tác giả như Kundera, thí dụ, qua bài viết trên blog của tay PA [không phải Phan An, hay Phan Anh, nhe!]

Ce que l’Europe centrale doit à Kundera

(1) Bài trên tờ Books, về K, đọc thú hơn. NQT

Bài viết của tay này chôm hình từ bài viết của Gấu, chôm từ một số báo Granta, có bài viết Cuộc Trở Về Vĩ Đại, của K.
Chàng về Hà Nội [Prague], khóc ròng khi thấy dấu vết của tụi thực dân trên thân thể 1 em Bắc Kít, qua biểu tượng của nó là... Hà Lội!
Thằng khốn kiếp để lại hai cú thật là nặng nề trên thân thể em!
Súng lớn mà!

Dzui thôi mà!


*
.

1968: Bạn tưởng tượng, con phố Lê Lợi, Mậu Thân, và Cao Bồi, PXA, bạn GNV, đứng trên terrace, phía bên dưới là tổng hành dinh của Tướng Givral, coi đồng hồ, ra lệnh Tổng Tấn Công!


Hơn 240.000 dân Thanh Hóa thiếu đói

Mấy anh Tẩy mũi tẹt bợ đít VC này quả là giỏi tiếng Việt!
Thiếu đói, nghĩa là... dư no?

Quả là bợ đít thực, cái tít là của tờ Tuổi Trẻ.
Đói đã sợ rồi, bây giờ lại sợ thiếu đói nữa, làm sao sống?



Notes About Brodsky

Milosz

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài

Bài viết Sự quan trọng của Simone Weil cũng quá tuyệt.
Bài nào đọc cũng tuyệt, khiến Gấu tự hỏi, tại làm sao cũng CS, mà ở đó lại có những bậc như Brodsky, như Milosz, thí dụ.

Bắc Kít, chỉ có thứ nhà văn nhà thơ viết dưới ánh sáng của Đảng!

Cái vụ Tố Hữu khóc Stalin thảm thiết, phải mãi gần đây Gấu mới giải ra được, sau khi đọc một số bài viết của những Hoàng Cầm, Trần Dần, những tự thú, tự kiểm, sổ ghi sổ ghiếc, hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh... Sự hèn nhát của sĩ phu Bắc Hà, không phải là trước Đảng, mà là trước cá nhân Tố Hữu. Cả xứ Bắc Kít bao nhiêu đời Tổng Bí Thư không có một tay nào như xứng với Xì Ta Lin. Mà, Xì, như chúng ta biết, suốt đời mê văn chương, nhưng không có tài, tài văn cũng không, mà tài phê bình như Thầy Cuốc, lại càng không, nên đành đóng vai ngự sử văn đàn, ban phán giải thưởng, ra ơn mưa móc đối với đám nhà văn, nhà thơ. Ngay cả cái sự thù ghét của ông, đối với những thiên tài văn học Nga như Osip Mandelstam, Anna Akhmatova… bây giờ Gấu cũng giải ra được, chỉ là vì những người này dám đối đầu với Stalin, không hề chịu khuất phục, hay "vấp ngã"!

Gấu tin là, Tố Hữu tự coi ông như là Xì của xứ Bắc Kít. Ông còn bảnh hơn cả Xì, vì là một thi sĩ thứ thực, nếu chúng ta đọc dòng thơ cách mạng hồi ông còn trẻ. Tất cả các văn nghệ sĩ Bắc Kít sở dĩ sợ Tố Hữu đến như thế, chính là vì với họ, Tố Hữu là…. Xì Ta Lin mũi tẹt, Bắc Kít! 

ON PASTERNAK SOBERLY

**

*

Boris Pasternak 

Pasternak's poems are like the flash of a strobe light-for an instant they reveal a corner of the universe not visible to the naked eye. I fell in love with these poems as a child. They were magical, fragments of the natural world captured in words that I did not always understand. Pasternak was my father's favorite poet. In the evenings he often recited his poems aloud, as did Marina Tsvetayeva, a friend of the family who often came to our house in those years before the war.
Long afterwards, George Plimpton and Harold Humes brought the live Pasternak into my life. A year or so after the resounding success of Doctor Zhivago, when the dust had begun to settle on the scandal of his being forced to give up the Nobel Prize, they sent me on a mission to Moscow to interview the poet for The Paris Review.
I'll never forget that sunny day at Peredelkino in the winter of 1959-1960, a few months before Pasternak died. The sparkling snow, the fir trees, the half torn note pinned to the door on the veranda at the side of the house: "I am working now. I cannot receive anybody. Please go away." On an impulse, thinking of the small gifts I was bringing the poet from admirers in the West, I did knock. The door opened.
Pasternak stood there, wearing an astrakhan hat. When I introduced myself he welcomed me cordially as my father's daughter- they had met in Berlin in the twenties. Pasternak's intonations were those of his poems. In an instant the warm, slightly nasal singsong voice assured me that my parents' country still existed and that it had a future as real as that sunny day. Today, no matter how harsh life in Russia is, that flash of feeling is proven true. Russia has survived, and the natural world around us which Pasternak celebrated is as wondrous as ever.

- Olga Carlisle

16-17 mai [1933]. Ossip Mandelstam est arrêté dans la nuit pour avoir écrit en novembre 1933 un poème sur Staline: «Ses doigts épais sont gras comme des asticots / Et ses mots tombent comme des poids de cent kilos. / Il rit dans sa moustache énorme de cafard, / Et ses bottes luisent, accrochant le regard. / [ ... ] Et chaque exécution est un régal, / Dont se pourlèche l'Ossète au large poitrail." Il avait lu son poème à Pasternak dans la rue au début de l'année.
Mandelstam est envoyé en relégation à Voronej. Il pourra regagner Moscou le 16 mai 1937.
Nadejda Mandelstam racontera: Il [Pasternak] vint chez nous avec Akhmatova et me demanda où il fallait s'adresser. Je lui conseillai d'aller chez Nikolaï Ivanovitch Boukharine - car je savais déjà ce qu'il pensait de l'arrestation de Mandelstam - et chez Demian Biedny. [ ]
Boris Leonidovitch lui [Biedny] téléphona le jour-même .
- "Ni vous ni moi ne devons nous mêler de cette affaire ... ", dit-il à Pasternak ... "
22 mai. Pasternak est admis à l'Union des écrivains. Juin. Pasternak reçoit un appel téléphonique de Staline qui lui annonce que l'affaire Mandelstam est en cours de révision ... Nadejda Mandelstam, dans ses Mémoires, raconte que Staline reprocha à Pasternak de ne pas s'être adressé à lui, puis demanda si Mandelstam était « un maître". «Pasternak répondit: "Là n'est pas la question". - "Mais quelle est la question?" demanda Staline.
Pasternak répondit qu'il aimerait rencontrer Staline pour parler. "Parler de quoi?" - "De la vie et de la mort", répondit Pasternak. Staline raccrocha.»
Plus de vingt ans plus tard, Anna Akhmatova précisera que cette conversation téléphonique «a suscité une multitude de légendes. Une minable Triolet, même, eut l'audace d'écrire (au moment où Pasternak était attaqué évidemment) que Boris avait causé la perte d'Ossip Mandelstam. Nadia et moi considérons que Pasternak s'est conduit honorahlement».
Pasternak, ed Quarto, Galliamard

Trong The Noise of Time, Tiếng động của thời gian, lời giới thiệu, có một giai thoại thật thú vị liên quan tới Pasternak, vụ bắt nhà thơ Osip Mandelstam và một cú phôn của Bác Xì, từ Điện Cẩm Linh.

Liền sau khi Osip bị bắt, nhà thơ được Stalin đích thân hỏi tội. Đây là một đặc ân chưa từng một nhà thơ nào được hưởng, do quyền uy của nhà thơ [perhaps the profoundest tribute ever paid by the Soviet regime to the power of Mandelstam’s pen]. Do chính Boris Parternak kể lại.
Một bữa bà vợ Mandelstam đến gặp ông năn nỉ xin can thiệp để Osip được thả. Đó là lần đầu tiên ông biết Osip bị bắt. Cả hai không hề là bạn thân. [Ngay cả về thơ, thì hai ông cũng đếch chịu nhau, theo như Pasternak nhận xét, thơ Osip từ trong sáng qua hũ nút, còn Pasternak, từ rắc rối qua giản dị]. Tuy nhiên, do bà vợ M. năn nỉ quá, P. hứa sẽ làm hết sức mình. Đúng vào thời gian đó, có một ông to lắm ở trong BCT lăn cổ ra chết, và theo đúng nghi thức, xác của ông ta phải chường ra tại Nhà Hội [the Columned Hall of the House of Unions], cho những quan Xô Viết đến thăm lần chót. P. đến, và nhận thấy trong đám này có Bukharin, và bèn tới năn nỉ giùm bà vợ Osip. B. nói, khó đấy, nhưng sẽ cố. Vài đêm sau đó, một đêm, trong bữa tụ tập tại nhà P. giữa đám Bọ L.,  Bọ PXN… [?], thì điện thoại reo. Giọng người bên đầu kia hỏi, có đồng chí Pạt tẹc nặc đó không; đồng chí Xì muốn nói chuyện, từ điện Cảm Linh. Một lát sau, có giọng nhừa nhựa nghe ra dân Georgian:

-Phải Pạt đó không? Đây là Xì ta lìn.
-Good Evening, Comrade Stalin. By the way, this is not a leg-pull, is it? [Này đừng có bịp tụi này nhé]
-No, no, this is Stalin, all right.
Nghe tên Stalin cả phòng im ắng. Pạt nói:
-Hiện trong phòng có 26 người. và họ đều đang nghe. Có được không? [Does that make any difference?]
Xì nói, OK, này, về Mandelstam, thì sao?
-Tôi muốn làm điều gì đề giúp anh ấy.
-Anh có nghĩ, anh ta là một nhà thơ bảnh, a very good poet?
-Đồng chí Xì. Đồng chí cũng biết là chẳng nên hỏi một nhà thơ, anh ta nghĩ gì, về một nhà thơ khác. Cũng như chẳng ai hỏi một người đàn bà đẹp, về một người đàn bà đẹp khác.
-Đồng chí nói như vậy, có nghĩa là, đồng chí không khoái thằng chả đó? [Then am I to take it you don’t think much of him?]
-Không, không, đồng chí lầm rồi. Tôi là một nhà thơ thật khác ông ta. Chỉ có vậy. Tôi nghĩ, ông ta là người viết bảnh, a good writer.
-“Tốt lắm, cám ơn”. Ngưng. “Tại sao không ghé tôi chơi?”
-Cái này thì hơi bị kẹt. Đúng ra, ở địa vị đồng chí, thì đồng chí phải mời, thì tôi mới dám tới.
Xì cười lớn và chúc Pạt một buổi tối ra trò. Ngày hôm sau Mandelstam được thả. [Nhưng chẳng được lâu].
*

Chói lọi mới chẳng trói lại!
Này đừng có bịp tụi này đấy nhé!

Source

*

Contemporary trends conceived art as a fountain, though it is a sponge. They decided it should spring forth, though it should absorb and become saturated. In their estimation it can be decomposed into inventive procedures, though it is made of the organs of reception. Art should always be among the spectators and should look in a purer, more receptive, truer way than any spectator does; yet in our days art got acquainted with powder and the dressing room; it showed itself upon the stage as if there were in the world two arts, and one of them, since the other was always in reserve, could afford the luxury of self distortion, equal to a suicide. It shows itself off, though it should hide itself up in the gallery, in anonymity.
Pasternak
Milosz trích dẫn, trong bài viết về Pasternak, trên.

Đương thời coi thơ như dòng suối. Không phải vậy, thơ là miếng bọt biển.
Đương thời cho vọt thơ ra như vãi linh hồn.
Đúng ra, phải thẩm thấu, hút sạch, nuốt sạch...  và trở nên bão hòa..

Bùi Giáng (hay Nguyễn Đức Sơn ?): Em chưa vãi mà hồn anh đã ướt, là cũng ý đó.

*


Người trong chốn giang hồ, thân không làm chủ.

Ôi chao, Gấu lại nghe ông bạn văn VC than, tại sao anh cứ nhắc mãi đến Lò Thiêu?
Nó liên can gì tới Việt Nam?
*

"Tại sao anh cứ cay đắng mãi như thế?"
SCN
*

D. M. Thomas, trong “Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ta”, chương “Cái chết của một thi sĩ”, đã nhận xét, về cuốn Dr. Zhivago:
Bác sĩ  Zhivago không chính trị một cách lộ liễu, như nhiều người tại Tây Phương hô hoán, một cuốn tiểu thuyết nhằm lên án, tố cáo... Nhưng nhà cầm quyền Xô Viết nhận ra, đây đúng là một kẻ thù chết người đối với chế độ. Bất cứ một trang là một sự chơn chất, nhiệt thành, cho một điều gì hết sức lớn lao, thực hơn nhiều, so với bất cứ  một chế độ chính trị nào, đâu phải chỉ cái thứ chính quyền toàn trị, xây dựng bằng hàng triệu người chết, lao động khổ sai, và một thứ ngôn ngữ vô nghĩa.
[Every page asserted a fidelity to something infinitely greater and more truthful than any political system, let alone a creed built on millions of deaths, slave labor, and a dead and a meaningless language].

Giả như áp dụng nhận định trên cho Thơ Ở Đâu Xa, những vần thơ làm ở một nơi chốn không thể làm thơ, liệu có khiêm cưỡng chăng?
Không! Chúng còn bảnh hơn cả Dr. Zhivago, theo nghĩa, thơ bảnh hơn văn, càng bảnh hơn tiểu thuyết, thứ văn chương bình dân. Người ta chẳng kể, về một nhà văn nữ hàng đầu thế giới, vừa nhặt gạo, vừa trông ông bố nằm bệnh, vừa viết tiểu thuyết, khi được in ra, mấy dấu chấm trên mấy chữ i, toàn là sạn gạo!
Nhà văn nữ Tuý Hồng chẳng đã, vừa nấu cơm, vừa [Tôi] nhìn tôi trên vách  [bếp]?

Nên nhớ, khi Pasternak được tin, Nobel trao cho ông vì Dr. Zhivago, ông rất bực. Ông nghĩ ông phải được Nobel như là nhà thơ.
Pasternak mất ngày 30 Tháng Năm 1960 [sau 30 Tháng Tư một ngày!] Đám tang của ông là một sự kiện khác thường, và, hầu như bí ẩn: Có lẽ đây là dấu báo đầu tiên, chỉ cho thấy, cái nhà nước uy quyền tột bực, hiển hiện ở khắp mọi nơi như thế đó vậy mà không thể lấn lướt thơ ca, … simply could not overcome poetry.

Thông báo giải thưởng Nobel, tháng 10, 1958, tiếp theo sự ra mắt Dr. Zhivago tại Tây Phương đã bùng ra chiến dịch tố cáo, bôi nhọ Pasternak, bắt đầu từ tờ Sự Thật. Tiếp theo, Hội Nhà Văn trục xuất ông. Bí thư Thành Đoàn gọi Pasternak là một con heo ỉa đái vào cái máng ăn của nó. Pasternak từ chối giải thưởng, nhưng cũng không yên thân. Ông gần 70, sức khỏe tồi tệ, chiến dịch làm nhục làm ông hoàn toàn suy sụp. Người tình, Olga Ivinskaya, sợ ông bị tim quật chết, và căng hơn, có thể tự sát, bèn năn nỉ ông viết thư cho Khrushchev, xin cho ở lại nước Nga, vì nếu rời nước Nga, là chết.

Ông mất ngày 30 Tháng Năm 1960. Thông báo chính thức, nhỏ nhoi, và, cáo thị độc nhất về đám tang, là một bản viết tay, dán ở kế bên quầy bán vé đi Kiev Station, ở Moscow, từ đó đi tới Peredelkino, một 'colony' ở ngoại vi thành phố Moscow, là nơi nhà văn cư ngụ:
“Vào 4 giờ chiều ngày Thứ Năm, 2 Tháng Sáu, linh cữu Boris Leonidovich Pasternak, nhà thơ vĩ đại nhất của Liên Xô hiện nay, sẽ được đưa về lòng đất”.
Cáo thị bị bóc, lại dán tiếp, nhiều lần, bởi một bàn tay vô danh.
Nghi lễ Chính Thống giáo đã được cử hành tại nhà riêng, một cách êm ả, vào buổi chiều hôm trước đám tang.
Sáng hôm sau, bốn danh thủ dương cầm – Stanislav Neigauz, Andrei Volkosky, Marya Yudia [bà đã từng nói với Stalin, ông là một kẻ tội lỗi lớn lao, a great sinner] và Sviatoslav Richter đã chơi nhạc vài tiếng đồng hồ tại nhà.
Trong số những người khiêng quan tài, có Andrei Sinyavsky và Yuli Daniel [sau bị truy bức, bách hại vì những bài viết chống đối, ly khai của họ], và Lev Koplev [Solz đưa ông này vô, làm một nhân vật trong Tầng Đầu]. Họ nhập vô một biển cả, những khuôn mặt rầu rĩ, tiếc thương: bạn bè, sinh viên, học sinh, công nhân, và dân quê. Một viên chức Hội Nhà Văn bước ra từ một chiếc limousine lớn, mầu đen, tính ké tí vai, khiêng quan tài nhà thơ, nhưng đám sinh viên la to, đi chỗ khác chơi.

Giỗ đầu

Gấu đọc Dr. Zhivago thời mới lớn, thời gian thường qua nhà ông anh nhà thơ, đói ăn đói cả đọc. Cùng đọc với bà cụ. Hai bà cháu cùng mê đọc. Và cùng mê Dr Zhivago. Em Lara ở trong truyện đẹp hơn nhiều so với Lara khi được chuyển thể thành phim, nhưng bắt buộc phải như vậy thôi.

Trên VN thư quán có cuốn này.


Carlos Fuentes: Women

on
Sister Benedicta & Anna Akhmatova & Simone Weil

Triết gia Đức gốc Do Thái Simone Weil là đệ tử của Alain. Và lời phán của ông thầy xuống đệ tử, là suy đi nghĩ lại mọi điều, dựa vào việc đọc, mỗi năm, một triết gia hay một nhà thơ, như Plato và Homer. Alain không nghĩ ông là Cộng Sản hay xã hội. “Tôi thuộc phe Tả đời đời, một phe Tả chẳng bao giờ hành xử quyền lực, như bản chất của nó, thể nào cũng đưa đến lạm dụng.”
Simone Weil chẳng những suy đi nghĩ lại mọi chuyện mà còn quyết định biến tư tưởng của bà thành hành động, đưa chúng vào thử nghiệm ở trên đường phố, ở xưởng thợ, ở mặt trận. Khi còn là sinh viên, bà có biệt danh là “Thánh Nữ Đỏ”, và bà biểu lộ khuynh hướng tả phái của bà bằng cách đi tới nhà máy, xưởng thợ cùng làm việc với công nhân, chiến đấu chống phát xít tại Tây Ban Nha, và sau đó, dục bỏ “chủ nghĩa ái quốc của Nhà Thờ”, và luôn cả những tiếng nói của Ky Tô Giáo Pháp, hô hào: “Thà Hitler còn hơn là Mặt Trận Bình Dân”. Nhưng Simone Weil cũng dục bỏ Liên Xô Cộng Sản, khi bà biết về những vụ thanh trừng của Stalin.




NMG có cái hình ảnh thú vị lắm: Mọi đồng hồ Mít ngưng chạy đúng vào ngày 30 Tháng Tư 1975.

 
THE CLOCKS OF THE DEAD

One night I went to keep the clock company.
It had a loud tick after midnight
As if it were uncommonly afraid.
It's like whistling past a graveyard,
I explained
In any case, I told him I understood

Once there were clocks like that
In every kitchen in America.
Now the factory's windows are all broken.
The old men on night shift are in Charon's boat.
The day you stop, I said to the clock,
The little wheels they keep in reserve
Will have rolled away
Into many hard-to-find places.

Just thinking about it, I forgot to wind the clock.
We woke up in the dark.
How quiet the city is, I said.
Like the clocks of the dead, my wife replied.
Grandmother on the wall,
I heard the snows of your childhood
Begin to fall.

Charles Simic
 

Những chiếc đồng hồ của những người đã chết

Một đêm Gấu đi ra đường kiếm bạn đồng hành là chiếc đồng hồ
Nó kêu một tiếng “tích” thật bự sau nửa đêm
Như thể nó sợ, một cái sợ không giống ai
Như tiếng huýt sáo khi đi qua nghĩa địa
Tôi giải thích
Trong bất cứ trường hợp, tôi bảo nó, tôi hiểu 

Đã có 1 lần, có nhiều đồng hồ như thế
Ở mọi nhà bếp của lũ Ngụy
Bây giờ mọi cửa sổ nhà máy sản xuất đồng hồ Chợ Lớn,
Đồng hồ một cửa sổ, hai cửa sổ, không người lái...
thì đều tan hoang, đổ vỡ.
Những người già của những ca trực đêm thì đều lên con thuyền của Charon
Ngày mi ngưng, tôi biểu cái đồng hồ,
Những bánh xe dự trữ thì đều bỏ đi
Tới rất nhiều nơi thật khó mà tìm được

Mải nghĩ về những chuyện đó, tôi quên mẹ lên giây cót đồng hồ
Chúng tôi thức dậy trong bóng tối
Sao thành phố im ắng như thế này, tôi nói.
Như những đồng hồ của người chết, Gấu Cái trả lời
Bà cụ ở trên tường,
Con nghe tiếng tuyết của thời thơ ấu của bà
Bắt đầu rơi 

EMPIRES

My grandmother prophesied the end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet. 

One of your heroes was giving a speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.

There was no need to. They were all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure 1 understood.

Charles Simic

 

Đế Quốc [Đỏ]

Bà tôi tiên đoán ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.

Một trong những anh hùng, Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà. 

Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.

The Invisible

Những kẻ vô hình

1

It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden. 

Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible, 

Or why else would its wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone. 

1

Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám 

Chỉ những chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô hình,
Hay là tại sao cánh của nó lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi mất rồi:

Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây nè!

4 

The moment you shut off the lamp,
Here they are again,
The two dead people
You called your parents. 

You'd hoped you'd see tonight
The girl you loved once,
And that other one who let you
Slip a hand under her skirt. 

Instead, here's that key in a saucer of small change
That wouldn't open any lock,
The used condom you found in church,
The lame crow your neighbor kept. 

Here's the fly you once tortured,
A rock you threw at your best friend,
The pig that let out a scream
As the knife touched its throat.

Đúng vào lúc bạn tắt đèn
Họ trở lại
Hai người đã mất
Bạn gọi họ là hai đấng sinh thành.

Bạn sẽ mơ đêm nay
Bạn gặp lại cô bạn gái ngày nào
Cô gái đã từng yêu bạn
Và một cô khác nữa
Đã từng cho phép
Bàn tay của bạn lùa bên dưới
Chiếc áo bà ba của cô.

Thay vì vậy, thì đây là chiếc chìa khóa,
trên cái dĩa đựng ba thứ lặt vặt,
chẳng thể mở bất cứ 1 cái cửa
Cái áo mưa đã xài rồi bạn kiếm thấy ở nhà thờ
[và ở blog của hòa thượng THT],
Con quạ què mà người hàng xóm của bạn giữ

Đây là con ruồi mà bạn đã tra tấn
Cục đá bạn ném vào người bạn tốt nhất của bạn
Con heo ré lên một tiếng rùng rợn
Khi mũi dao thọc vô cổ của nó

Sự thực câu của NMG ám chỉ đám “Chống Cộng Điên Cuồng”, không thể nào vờ đi được ngày 30 Tháng Tư. Có 1 thời gian đồng hồ của NMG cũng ngưng, nhưng chạy lại rồi! Người về, đi tour văn nghệ, ra Bắc gặp Tố Hữu, và ra lệnh cho ông, biểu đám kiểm duyệt không được bỏ 1 chữ nào tác phẩm Sông Côn Mùa Lũ, và phán, nhà văn nào mà viết về chính trị, thì tác phẩm không đi được xa! Viết dưới ánh sáng của Đảng thì được, chắc thế.



IN THE LIBRARY

for Octavio

 There's a book called
A Dictionary of Angels.
No one had opened it in fifty years,
I know, because when I did,
The covers creaked, the pages
Crumbled. There I discovered 

The angels were once as plentiful
As species of flies.
The sky at dusk
Used to be thick with them.
You had to wave both arms
Just to keep them away. 

Now the sun is shining
Through the tall windows.
The library is a quiet place.
Angels and gods huddled
In dark unopened books.
The great secret lies
On some shelf Miss Jones
Passes every day on her rounds.

She's very tall, so she keeps
Her head tipped as if listening.
The books are whispering.
I hear nothing, but she does.

Charles Simic

Ở thư viện

Gửi Bùi Chát, và thư viện Giấy Vụn

Có một cuốn sách tên là
Từ điển Thiên thần
Chẳng ai mở nó trong 36 năm
Tôi biết, bởi vì khi tôi làm điều này
Góc sách gẫy,
Trang sách
vỡ vụn. Và tôi khám phá 

Thiên thần ngày xưa nhiều
Như ruồi
Bầu trời lúc chạng vạng
Thường chật cứng thiên thần.
Bạn phải lấy cả hai tay xua chúng đi.

Bây giờ mặt trời đang chiếu sáng.
Qua cửa sổ cao
Thư viện là một nơi yên tĩnh.
Thiên thần và những thần thánh hầm bà làng
trong những cuốn sách tối thui, không được mở ra.
Bí mật lớn thì nằm ở trên một cái giá sách nào đó
Miss Jones ngày nào cũng đẩy đi lòng dòng.

Cô ta dáng người cao, bởi vậy cô bịt cái đầu của cô,
làm như đang lắng nghe.
Những cuốn sách thì thầm
Tôi chẳng nghe thấy gì hết, nhưng cô thì nghe.



Nhân Gió-O 10 năm

Bữa trước, bạn Đoàn Nhã Văn có nhã ý đề nghị phỏng vấn NQT, về sự ra đời của trang TV, nhưng do bạn thòng theo 1 câu, thiên hạ có vẻ nực Gấu lắm, vì thái độ chẳng có tí hoà nhã, ít chịu khen ai, và nếu có khen, thì khen những người đâu đâu [thí dụ thơ lục bát của Đá], chưa từng xoa đầu/nâng bi những đấng “đời văn dài hơn đời người” dù còn trẻ măng, hay trẻ hơn Gấu nhiều, phê bình gia dốt như.. chó, [ui chao Gấu Chó có khác], chuyên phát ngôn khủng chẳng cần chứng minh, hay mỗi lần viết phê bình là vãi linh hồn, hay, hay.. thành thử Gấu cũng ngại, sợ DNV trúng miểng lây.
Nhưng nhân lần này, qua cuộc phỏng vấn LTH, biết đâu, có thể dấy lại một cuộc phỏng vấn chết từ khi còn trứng nước.
Trong những kỳ tới, Gấu sẽ lèm bèm tiếp về những câu hỏi và trả lời của cuộc phỏng vấn Gió O của DNV.
NQT

Chứ tài hoa của Joseph Brodsky cũng ngang ngửa cỡ tài hoa Nguyễn Thế Hoàng Linh thôi mà.
LTH

BỨC THƯ GỬI TỚI NHÂN LOẠI
hoặc
KHÔNG CẦN ĐẶT TÊN

riêng hôm nay
tôi sắp đi qua đường Nguyễn Du
không một chút ảm ảnh hay tự hào về một thời lửa đạn
hồ Thuyền Quang đẹp
phố phường rộng và lòng tôi không hẹp
thế thôi...

NTHL

Cái tít bài thơ, chứng tỏ nhà thơ không rành tiếng Việt.
Ðúng hơn, chưa sạch văn phạm.
Chữ “hoặc”dùng sai. "Hoặc", “or”, là để nối hai cụm từ tương đương.
Phải viết, thí dụ:
Bức thư gửi tới nhân loại và không được đặt tên
Hoặc,
Bức thư không tên gửi nhân loại.

Ám ảnh, không phải “ảm ảnh”.

[Không “ám ảnh”, sướng thật. NQT]

Bài thơ này chắc post lâu lắm rồi. Vậy mà có ai thèm đọc đâu?
Nếu đọc, đã sửa lỗi đánh máy sai, về phía tòa soạn, hoặc đề nghị sửa, từ phía độc giả.
Cả bài thơ, ngây ngô, ngốc nghếch, làm ra vẻ suy tư, như đứa con nít nói ngọng, vậy mà dám so với thơ Brodsky.

Nói có sách mách có chứng, thí dụ bài sau đây, của Brodsky.
Thơ NTHL có được cái giọng nhân hậu, cảm động, và khiêm tốn “thế thôi”, như Brodsky?

Thế thôi!
Mấy lời!
Toàn giọng con nít muốn làm bố nhân loại!

To My Daughter

Give me another life, and I”ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the  former. 

Cho tôi một đời khác, và tôi vẫn hát
ở Caflè Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng tiền thân của nó.

Brodsky: Gửi con gái của tôi

Liệu NTHL viết nổi dòng thơ chót, trên?

Mà, tại làm sao bà Huệ lại so ông nhóc này với…. Brodsky?

Một ông bị nhà nước bắt, tống đi lao động cải tạo, lưu đầy nội xứ tại Hắc hải, rồi tống ra khỏi quê hương, mày không đi là ‘nóng’ lắm đấy. Một ông nhóc [chắc cũng VC con, con một ông VC bự, nếu không phải xin lỗi. NQT], tiếng Việt chưa rành đừng nói rành tiếng Anh, tiếng U, trong khi Brodsky, sống bằng nghề dịch thuật, khi ra hải ngoại viết bằng tiếng Anh, làm giáo sư Ðại Học, không có bằng cử nhân Triết, vì chưa học hết Trung Học!

Quái đản nhất, là, thơ NTHL không có gì mắc mớ đến thơ Brodsky [Bao thơ tôi ít nhiều chi là về thời gian, về thời gian làm gì con người. Brodsky], vậy mà sao bà Huệ lại lôi Brodsky ra, ở đây?

Khó hiểu quá! NQT

GNV này thực sự không hiểu phản ứng của NTHL ra sao, khi được bà Huệ khen như thế này?

*

Brodsky không phải là một nhà thơ dễ đọc, và cái nguồn ‘tài hoa’ của ông, phải một tín hữu Ky Tô thì mới hy vọng nắm bắt được.

“At heart Joseph was a pagan”, ở trái tim của ông, Brodsky là 1 tên… Nam Bộ, một tác giả [Mark Strand] nhận xét về Brodsky, khi phải bàn về chất Ky tô của thơ ông [‘Brodsky’s every poetic breath praises God’, mọi hơi thở thơ của Brodsky thì đều ca ngợi Chúa Ky Tô].

Có hai nhà thơ Ky Tô, cùng từ cái xứ chết tiệt CS, cùng được Nobel, là Brodsky và Czeslaw Milosz, nhưng ngay cả Milosz mà cùng thèm số mệnh của Brodsky, đang "làm 1 nhà thơ, nhà dịch thuật", tự dưng được Đảng tóm đầu ban cho án lưu đầy nội xứ vì ăn bám xã hội [Gấu cũng bị tội này, và đi tù vì nó vài lần], khi được thả về thì lại bị Đảng bắt phải lưu vong, đến nỗi KGB còn phải kiếm cho 1 ông chú nào đó, bà con đang ở hải ngoại, bảo lãnh ông! Thế rồi một ngày đẹp trời, như Bùi Chát sau này, khăn đóng áo dài bước lên đài cao nhận giải Nobel văn chương!

Bởi vì những nền văn minh thì cũng có lúc đi đời nhà ma [Because cilivisations are finite], trong cuộc đời của mỗi một nền văn minh như thế, sẽ xuất hiện một thời điểm mà tâm của nó trở nên bất lực, không trụ nổi, [cease to hold]. Vào những thời điểm như thế đó, cứu vớt nó, cho khỏi bị phân tán, huỷ diệt, không phải những miền, mà là ngôn ngữ.
Đó là trường hợp đã xẩy ra cho nền văn minh La Mã, và trước đó, văn minh Hy La.
Và cái "job", giữ cho nền văn minh, thí dụ Mít, không bị phân hóa, sẽ được làm bởi những con người miệt vườn, từ ngoại vi, chứ không phải mấy tay ở trung tâm, ở Hà Nội.
Trái với niềm tin thông thường, phổ thông, ngoại vi không phải là nơi thế giới chấm dứt mà chính là nơi khởi đầu, mở ra.
Brodsky: Hải Triều Âm [The Sound of the Tide]

[Nhưng] sự hiện diện của Brodsky là một điểm tựa, hay điểm qui chiếu [a buttress or a point of reference] cho rất nhiều thi sĩ bạn bè của ông. Đây là một con người mà tác phẩm và cuộc đời luôn luôn nhắc nhở chúng ra rằng, mặc dù những ra rả về một cõi người đồng hạng, cá mè một lứa, thì nhà thơ của chúng nói, vẫn có đẳng cấp, thứ hạng, trong những ngày như thế này.
Cái đẳng cấp không phải đuợc suy ra, giản trừ từ một tam đoạn luận, cũng không phải được rút ra từ những nghị quyết, những cuộc hội thảo... mà chính chúng ta xác nhận, làm mới nó mỗi ngày, bằng cách sống và viết.
Nó có một cái chi thật gần gụi thân quen với sự phân chia rất ư sơ đẳng, tiểu học, giữa đẹp và xấu, thực và giả, lành và ác, tự do và độc tài. Trên tất cả, đẳng cấp có nghĩa là trân trọng đối với những gì được coi là có học, có văn hóa, so với dè bỉu, khinh khi, tởm lợm, đối với những gì hạ cấp, tầm thường, ti tiện.

Nhãn hiệu "thăng hoa" [sublime] có thể áp dụng cho thơ của Brodsky. Trong phần số của ông, như là một đại diện cho con người, có "một cõi tư duy lừng lững" [that loftiness of thought] mà Pushkin nhận thấy ở Mickiewicz:
"Ông ta nhìn xuống cuộc đời, từ trên ngọn đỉnh trời".
.... [Nhà thơ] Mandelstam, trong Gulag, trở nên rồ dại, tìm kiếm thực phẩm trong đống rác, [hình ảnh này chính] là thực tại về độc tài và thoái hóa bị kết án phải huỷ diệt.
Mandelstam đọc thơ cho một vài người bạn tù, là khoảnh khắc cao cả [lofty moment] mãi mãi tồn tại.

 Milosz: Ghi Chú Về Brodsky

Thành thử cái vụ Bùi Chát này, quá tuyệt, y chang lời tiên tri của Brodsky, về biên cương nổi dậy, báo hiệu sự chấm dứt của nền văn hóa sông Hồng.

Alongside the awe, the respect, and the genuine love, these books contain some of the most penetrating observations ever made about Brodsky, both the poet and the man. About the former, Pyotr Vail observes: "Pushkin was all about how we wanted to be; Brodsky was all about how we really are". About the man, Annelisa Allleva makes some cutting remarks, notably: "He stole other people's love in order to hide his insecurity".
Derek Walcott puts the two together: "Joseph didn't make a distinction between his calling and his life. He was the best example I know of someone being a poet in the professional sense".

Joseph [HV] Brodsky đếch thèm để ý đến sự tách biệt giữa thiên hướng nhà thơ và đời của ông. Ông là thí dụ đẹp nhất mà tôi biết về một người, là một nhà thơ, theo một cái nghĩa nhà nghề của từ này.
"Joseph was a man who realized himself. That for me is the main lesson of his life. What more does a man need?".

Ui chao xin được xách dép cho nữ thi sĩ, mà chẳng... đặng, sao?

NQT

Mon, May 2, 2011 8:17:24 AM

Hi bác chủ trang Tin văn,
Nhiều bận em muốn gửi góp ý cho bác nhưng nghĩ xuề xòa thế nào lại thôi. Lần này em không góp ý không được vì thấy bức bối quá. 

BỨC THƯ GỬI TỚI NHÂN LOẠI
hoặc
KHÔNG CẦN ĐẶT TÊN

Ở đây nên hiểu "BỨC THƯ GỬI TỚI NHÂN LOẠI" và "KHÔNG CẦN ĐẶT TÊN" là hai lựa chọn cho nhan đề. Hoặc nhan đề là cái này, hoặc nhan đề là cái kia, chứ "hoặc" không phải là để kết nối. Ở đây bác có một chút nhầm lẫn trong sự hiểu, chứ không phải NTHL không rành tiếng Việt. Các từ bác dùng "chứng tỏ", "đúng hơn", "phải viết"... giống như kiểu "phán như đúng rồi". 

LTH có thể quá lố khi so sánh Brodsky chỉ ngang cỡ Nguyễn Thế Hoàng Linh, nhưng bác cũng không mấy thuyết phục khi chỉ tương lên một bài của Brodsky rồi phán như đúng rồi. Thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh chẳng có mắc mớ gì đến thơ Brodsky, đúng. Nhưng bác cũng đang làm một phép so sánh kệch cỡm đấy thôi.
Vài dòng nhắn gửi, mong bác cố gắng điều tiết ngôn từ để đừng hạ thấp người khác quá như thế. Cảm ơn bác về trang Tin văn.
Thân ái,
J. 

Phúc đáp:
Đa tạ. Sẽ làm theo đúng như yêu cầu, ‘cố gắng điều tiết ngôn từ để đừng hạ thấp người khác quá như thế’.
NQT

Sáng nay, đầu tháng GNV phải đi gặp bác sĩ & pharmacist, viết vội vài hàng, bây giờ mới rảnh, hầu chuyện tiếp vị độc giả.

V/v điều tiết âm thanh cho vừa nghe, đừng làm phiền hàng xóm, thì kể như tạm xong.

V/v từ ‘hoặc’.

Cách giải thích của bạn, thì cũng là thêm 1 cách giải thích, vì thế, bạn không thể ‘phán như đúng rồi được’, và, “ở đây bác có một chút nhầm lẫn trong sự hiểu”.

Nếu đúng như bạn cắt nghĩa, thì cái tít bài thơ thành hai cái tít:

“Bức thư gửi tới nhân loại”
hoặc,
[Bức thư] “không cần đặt tên”

Giả như đúng, đây là ý của NTHL, thì thay vì viết như vậy, các nhà thơ thường viết:

“Bức thư gửi tới nhân loại”
hoặc
“vô đề”

Vô đề, “untitle”, hay untiled, là thói quen thường thấy ở nhiều nhà thơ, hay nhạc sĩ, “Bài không tên….”, thí dụ.

nhưng bác cũng không mấy thuyết phục khi chỉ tương lên một bài của Brodsky rồi phán như đúng rồi.

Một bài thơ của Brodsky để so sánh với một bài thơ của NTHL. Tôi đâu có so sánh hai cõi thơ.

Kính

NQT


Ghé bác sĩ, ghé pharmacist, rồi, tất nhiên, ghé tiệm sách cũ, vớ được cuốn thơ tuyệt vời, có chữ ký của tác giả. Tập thơ này cũng tuyệt lắm. Từ từ Gấu giới thiệu quí độc giả TV.

Mua tờ The New Yorker, May 2, 2011, có bài thơ mới tinh của Zagajewski.

Gấu mết tay này lắm. Tính dịch hết những bài thơ hiện Gấu có được, của ông, và của Charles Simic… 

IN VALLEYS

And the lovely Garonne, which passes
through drowsy villages each night
like a priest with the last sacrament.
Dark clouds grow in the sky.
The Visigoths live on, in certain faces.
In summer the empire of insects spreads.
You consider how not to be yourself:
is it only on journeys, in valleys,
which open others' wounds?
In a bookshop the salesclerk calls
the author of "To the Lighthouse"
Virginia. As if she might
turn up at any minute, on a bicycle,
with her long, sad face.
But Paul Valery (of the Academy) thought
history didn't exist. Perhaps he was right.
Perhaps we've been taken in. When he was dying,
General de Gaulle tried to find him
penicillin. Too late.
-Adam Zagajewski

(Translated, from the Polish, by Clare Cavanagh.)

*  *

*

EITHER/OR

1

My dream after the dream of more war: that for every brain
there exists a devil, a particular devil, hairy, scaly or slimy,
but compact enough to slot between lobes, and evil, implacably evil,
slicing at us from within, causing us to yield to the part
of the soul that argues itself to pieces, then reconstitutes as a club.

When I looked closely, though, at my world, it seemed to me devils
were insufficient to account for such terror, confusion and hatred:
evil must be other than one by one, one at a time, it has to be general,
a palpable something like carbon dioxide or ash that bleeds
over the hemispheres of the world as over the halves of the mind.

But could it really be that overarching? What of love, generosity,
pity? So I concluded there after all would have to be devils,
but mine, when I dug through the furrows to find him, seemed listless,
mostly he spent his time honing his horns-little pronged things
like babies' erections, but sharp, sharp as the blade that guts the goat.
 

2

Just as in the brain are devils, in the world are bees: bees are angels,
angels bees. Each person has his or her bee, and his or her angel,
not "guardian angel," not either one of those with" ... drawn swords ... "
who" ... inflict chastisement ... " but angels of presence, the presence
that flares in the conscience not as philosophers' fire, but bees'. 

Bee-fire is love, angel-fire is too: both angels and bees evolve
from seen to unseen; both as you know from your childhood
have glittering wings but regarded too closely are dragons. Both,
like trappers, have fur on their legs, sticky with lickings of pollen:
for angels the sweetness is maddening; for bees it's part of the job. 

Still, not in their wildest imaginings did the angel-bees reckon
to labor like mules, be trucked from meadow to mountain,
have their compasses fouled so they'd fall on their backs,
like old men, like me, dust to their diamond, dross to their ore,
but wondering as they do who in this cruel strew of matter will save us.