*

 



Thơ mỗi ngày

READING MILOSZ

I read your poetry once more,
poems written by a rich man, understanding all,
and by a pauper, homeless, an emigrant, alone.
You always want to say more
than we can, to transcend poetry, take flight,
but also to descend, to penetrate the place
where our timid, modest realm begins.
Your voice at times persuades us,
if only for a moment,
that every day is holy
and that poetry, how to put it, rounds our life,
completes it, makes it proud
and unafraid of perfect form
I lay the book aside
at night and only then the city's normal tumult starts again,
somebody coughs or cries, somebody curses. 

-Adam Zagajewski (Translated from the Polish by Clare Cavanagh)

The New York Review, 1 March, 2007.
 

Đọc Milosz

Tôi đọc thơ ông, thêm một lần nữa,
những bài thơ viết bởi một người giầu có, thông tuệ,
và bởi một người nghèo mạt hạng, không nhà cửa, di dân, cô độc.
Ông luôn muốn nói nhiều hơn
chúng tôi có thể nói,
để chuyển hóa thơ, để cất cánh,
nhưng cũng để hạ cánh, dấn sâu vào khoảng đất
nơi cõi đời của chúng ta, dụt dè, chơn chất, bắt đầu.
Tiếng nói của ông, nhiều lần, chỉ trong một khoảnh khắc,
khiến chúng tôi ngộ ra một điều là,
mỗi ngày, một ngày, mọi ngày, thì thiêng liêng.
và rằng, thơ, thể hiện điều đó, bằng cách,
 quanh quẩn bên đời ta,
hoàn tất nó, làm cho nó tự hào, hãnh diện,
và, đâu cần một dạng hoàn hảo nào, cho thơ.
Tôi để cuốn sách qua một bên.
Đêm, và chỉ tới lúc đó, cái xô bồ, thường lệ, của thành phố lại khởi động,
một người nào đó ho, hay la, một người nào đó, nguyền rủa.

nqt chuyển dịch

Nguyên tác tiếng Ba Lan Clare Cavanagh dịch qua tiếng Anh.

Coetzee nói về Brodsky:  Ông chẳng hề loay hoay hì hục làm cho mình được yêu, thí dụ, như Pasternak, rất được yêu. Venclova cho rằng, người Nga tìm chẳng thấy, ở trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha thứ tất cả", "sướt mướt", "nức nở con tim", hay sự "vui tươi, nhí nhảnh". Nhà thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước, rất ư là không giống Nga, very un-Russian, vốn trở thành thói quen trong thơ Brodsky. Ông trau giồi hài hước, Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những ý nghĩ, tư tưởng, hay hoàn cảnh mà ông cảm thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi phải phơi lòng mình ra, hay có thể, chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".
*

Thực sự, trước 1975, TTT không phải là một nhà thơ được nhiều người yêu mến.
Chính vì vậy, sự bàng hoàng, cơn chấn động ở hải ngoại, khi nghe tin ông mất, chỉ có thể giải thích: Chính sự tiết tháo, cương trực, không khoan nhượng với cả chính mình không kiếm cách làm cho mình được yêu mến... hay ngắn gọn, chính cái sự quá sạch của ông, lại trở thành niềm tin cho tất cả mọi người!
Và như thế, ông lại giống...  Solzhenitsyn, ông này suốt một đời khổ hạnh, làm việc như trâu, không cho mình bất cứ một cơ hội nào bị sa ngã, bị dụ dỗ... bởi cái ác.
Solz cho rằng, chỉ có cách đó, để không bao giờ phản bội những người bạn tù của ông.
*

Về câu hỏi, tại sao đầy tù cải tạo lên phía Bắc, đã có một lần Gấu đưa ra một câu trả lời, khi đọc một số Granta.
Nay có câu trả lời đơn giản hơn của Shalamov:

Nature simplifies itself as it heads toward the poles (and we head north now because so many scores of thousands were doing so, as Stalin's rule developed, and as the camps crazily multiplied). Nature simplifies itself, and so does human discourse.

Thiên nhiên tự giản tiện chính nó khi hướng về phía cực, (và chúng tôi, bây giờ hướng bắc, ấy là vì hàng hàng lớp lớp đã đang làm như thế, khi chế độ Stalin phát triển, khi nhà tù cứ khùng điên nở rộ, tăng trưởng lên mãi). Thiên nhiên tự giản tiện, và cũng vậy, cách ăn nói của con người cứ thế co lại.

Kolyma Tales [Chuyện trại tù Kolyma]

*

Varlam Chalamov

L'ancien Zek rend visite à Pasternak dès sa sortie du Goulag en 1953.
"La porte s'ouvrit aussitôt, Pasternak était sur le seuil. Des cheveux gris, un teint mat, de grands yeux brillants, une mâchoire lourde, des mouvements vifs et harmonieux. Un petit vestibule, un porte-manteau, à droite la porte de son cabinet de travail, et au fond, une pièce avec un piano jonché de pommes, un profond divan contre le mur, des chaises. Aux murs, des aquarelles de son père.”

*

Coetzee nói về Brodsky:  Ông chẳng hề loay hoay hì hục làm cho mình được yêu, thí dụ, như Pasternak, rất được yêu. Venclova cho rằng, người Nga tìm chẳng thấy, ở trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha thứ tất cả", "sướt mướt", "nức nở con tim", hay sự "vui tươi, nhí nhảnh". Nhà thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước, rất ư là không giống Nga, very un-Russian, vốn trở thành thói quen trong thơ Brodsky. Ông trau giồi hài hước, Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những ý nghĩ, tư tưởng, hay hoàn cảnh mà ông cảm thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi phải phơi lòng mình ra, hay có thể, chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".

Ui chao, liệu có thể bệ cả đoạn trên sang bài tưởng niệm ông anh nhà thơ?

Why not?

5 năm rồi không gặp...

5 năm rồi TTT đã ra đi, nhưng hẳn là ai cũng còn nhớ, khi ông sắp đi, ra lệnh cho vợ con, đừng làm phiền bè bạn, đừng thông báo thông biếc, sống ta đã chẳng làm cho họ vui, cớ sao ta chết, lại làm cho họ buồn?

Gấu phải mãi sau này, mới hiểu ra tại làm sao mà Milosz thèm được cái số phận bảnh tỏng của Brodsky: được lọc ra giữa những thi sĩ của thời đại của ông, của thành phố của ông, để nhân dân ban cho cái án cải tạo, rồi được Đảng tha cho về, được Đảng bắt phải lưu vong, và sau đó, khăn đóng áo dài bước lên Đài cao nhận Nobel. Trong khi cái số phần của Milosz, chính là cái mà ông miêu tả trong bài viết Rửa, To Wash, 1 thi sĩ bửn của thời đại của ông.

To Wash

At the end of his life, a poet thinks: I have plunged  into so many of the obsessions and stupid ideas of my epoch! It would be necessary to put me in a bathtub and scrub me still all that dirt was washed away. And yet only because of that dirt could I be a poet of the twentieth century, and perhaps the Good Lord wanted it, so that I was of use to Him.

Một nhà thơ của thế kỷ 20, cuối đời nhìn lại, thấy mình bẩn quá, bèn chui vô bồn tắm, dùng xà bông thơm kỳ cọ, cho văng tất cả những cái bẩn đi.
Kỳ mãi, kỳ mãi, vẫn không hết, và ông ngộ ra, số phận của ông là như vậy.
Bởi vì, nếu ông ta sạch,Thượng Đế đã không giao cho ông ta "nghĩa cả" đó, và nhân loại cũng đếch cần đến ông ta.

Gấu tin là trong bài thơ tự trào về mình, TTT cho biết, chưa từng bắn một phát súng, bảo là tự hào, thì thật nhảm (1): thi sĩ cũng muốn có tí bùn dơ ở trên người, và sau 30 Tháng Tư, phải cám ơn VC đã cho ông đi tù, cùng bạn bè,“cùng hội cùng thuyền”, nhờ cú đi tù mà lại làm được thơ, như những ngày đầu đời, “nụ hôn đầu Ga Hàng Cỏ”, bẽn la bẽn lẽn giấu các bạn tù!

(1) Một chủ nhật khác, một cách nào đó, là một bản văn giải thích hành động không rút súng bắn VC một lần nào!

Nên nhớ, TTT đã từng nhập thân vào bạn của ông, là anh chàng sĩ quan VNCH, Đạo, anh này đã từng nằm suốt đêm ở bên ngoài, chờ cho tên VC nằm vùng, một “serial killer”, chuyên xử tử những tên Ngụy trong vùng, đêm đó lén về nhà, hú hí với vợ con, sáng trở về rừng, mới ra lệnh cho lính dưới quyền nổ súng!

TTT có mấy cuốn tiểu thuyết viết bỏ dở, chưa kể Ung Thư, hoàn tất nhưng không cho xb. Trong mấy cuốn đó, cuốn nào cũng thật là tuyệt, ở những đoạn mở.

Uổng thật!
Tiếc quá!

Giấu mặt, viết về 1 em mới nhơn nhớn, khung cảnh Đà Lạt.
Truyện anh chàng sĩ quan VCNH tên Đạo.

Một cú tự thuật, TTT vô Quang Trung, giữa đám con nít mới lớn, chúng gọi ông là Cụ, hay Bố gì đó.
Còn ông, qua nhân vật kể chuyện, xưng là Ông Già.

Nhân nói chuyện... Bố: Cả trại tù Đỗ Hòa, đám học viên, không chỉ Đội Ba, mà Gấu là Y Tế Đội, đều gọi Gấu là Bố!

Bà Cụ Gấu tự hào lắm, vì “chi tiết là Thượng Đế” thần sầu này!


Thủ Thiêm

Gấu có những kỷ niệm khủng khiếp về cái đói, khi còn là 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít. Có những kỷ niệm, là của ông bố của Gấu. Thí dụ cái chuyện bà nội của Gấu, chồng chết sớm, nuôi đàn con, có nồi thịt, bắt con ăn dè ăn xẻn thế nào không biết, nồi thịt biến thành nồi ròi.

Vô Nam, phải đến sau 30 Tháng Tư, Gấu mới được tái ngộ với cái đói, những ngày đi tù VC.
Thê lương nhất, và cũng tiếu lâm nhất, có lẽ là lần Gấu Cái đi thăm nuôi, lần đầu, sau mấy tháng mất tiêu mọi liên lạc với gia đình.
Cái tật viết tí tí, không bao giờ dám viết ra hết, kỷ niệm, hồi nhớ, tình cảm… nhất là thứ kỷ niệm tuyệt vời, nhức nhối.... là do cái đói gây nên!

Nhân Gió-O 10 năm

Sư Tử Hà Đông

Charles Simic đọc Vợ Hổ, Tiger's Wife:

The Weird Beauty of the Well-Told Tale

Cái đẹp thật là kỳ cục của một câu chuyện được kể thật là ngon lành

Bữa trước Blogger HH có vẻ ngạc nhiên, vì cái sự ghét đọc những bài điểm sách của GNV. Sự thực, Gấu chỉ ghét cái kiểu đọc sách của Mít ta, ở cả hai phía, người điểm sách, và độc giả, thường chỉ cần đọc bài điểm, là kể như biết về cuốn sách, tha hồ vung vít, nếu có ai hỏi tới, hoặc cũng chẳng cần có ai hỏi tới, thì cũng giơ đôi giầy mới lên khoe, tớ mới tậu nè. Ngưồi điểm sách Mít thường là không học qua cái nghề này, viết tuỳ hứng, hoặc tuỳ tác giả có phải phe ta hay không. Cả 1 dòng văn học Miền Trung, trong thời kỳ chiến tranh, ở một số tác giả làng nhàng, được in ấn lại, chỉ dành cho những độc giả mê đoc sách, và được những nhà phê bình phe ta đưa lên tận mây xanh!

Mớ sách quí đó, phải được đọc đúng, hiểu đúng, về chúng, về những tác giả viết ra chúng, không thể viết “khơi khơi” như thế được.
Hình như HH có 1 bài viết về Lê Văn Thiện, được lắm, theo cái nghĩa, lần đầu đọc nó, và ở cách xa cuộc chiến...
Để check lại, rồi viết tiếp. NQT

Chúng ta chưa có thói quen đọc những bài điểm sách đúng đắn, nghiêm túc, về một tác giả.

G rất mê đọc sách, để kiếm sách đọc!

Nhờ những bài điểm sách trên Partisan Review, thời mới ra được hải ngoại mà G khám phá ra cái mỏ Đông Âu, và biết ơn tờ báo, đúng cái kiểu biết ơn mà Âu châu đang bày tỏ, trước một tác giả như Kundera, thí dụ, qua bài viết trên blog của tay PA [không phải Phan An, hay Phan Anh, nhe!]

Ce que l’Europe centrale doit à Kundera

(1) Bài trên tờ Books, về K, đọc thú hơn. NQT

Bài viết của tay này chôm hình từ bài viết của Gấu, chôm từ một số báo Granta, có bài viết Cuộc Trở Về Vĩ Đại, của K.
Chàng về Hà Nội [Prague], khóc ròng khi thấy dấu vết của tụi thực dân trên thân thể 1 em Bắc Kít, qua biểu tượng của nó là... Hà Lội!
Thằng khốn kiếp để lại hai cú thật là nặng nề trên thân thể em!
Súng lớn mà!

Dzui thôi mà!


*
.

1968: Bạn tưởng tượng, con phố Lê Lợi, Mậu Thân, và Cao Bồi, PXA, bạn GNV, đứng trên terrace, phía bên dưới là tổng hành dinh của Tướng Givral, coi đồng hồ, ra lệnh Tổng Tấn Công!


Hơn 240.000 dân Thanh Hóa thiếu đói

Mấy anh Tẩy mũi tẹt bợ đít VC này quả là giỏi tiếng Việt!
Thiếu đói, nghĩa là... dư no?

Quả là bợ đít thực, cái tít là của tờ Tuổi Trẻ.
Đói đã sợ rồi, bây giờ lại sợ thiếu đói nữa, làm sao sống?



Notes About Brodsky

Milosz

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài

Bài viết Sự quan trọng của Simone Weil cũng quá tuyệt.
Bài nào đọc cũng tuyệt, khiến Gấu tự hỏi, tại làm sao cũng CS, mà ở đó lại có những bậc như Brodsky, như Milosz, thí dụ.

Bắc Kít, chỉ có thứ nhà văn nhà thơ viết dưới ánh sáng của Đảng!

Cái vụ Tố Hữu khóc Stalin thảm thiết, phải mãi gần đây Gấu mới giải ra được, sau khi đọc một số bài viết của những Hoàng Cầm, Trần Dần, những tự thú, tự kiểm, sổ ghi sổ ghiếc, hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh... Sự hèn nhát của sĩ phu Bắc Hà, không phải là trước Đảng, mà là trước cá nhân Tố Hữu. Cả xứ Bắc Kít bao nhiêu đời Tổng Bí Thư không có một tay nào như xứng với Xì Ta Lin. Mà, Xì, như chúng ta biết, suốt đời mê văn chương, nhưng không có tài, tài văn cũng không, mà tài phê bình như Thầy Cuốc, lại càng không, nên đành đóng vai ngự sử văn đàn, ban phán giải thưởng, ra ơn mưa móc đối với đám nhà văn, nhà thơ. Ngay cả cái sự thù ghét của ông, đối với những thiên tài văn học Nga như Osip Mandelstam, Anna Akhmatova… bây giờ Gấu cũng giải ra được, chỉ là vì những người này dám đối đầu với Stalin, không hề chịu khuất phục, hay "vấp ngã"!

Gấu tin là, Tố Hữu tự coi ông như là Xì của xứ Bắc Kít. Ông còn bảnh hơn cả Xì, vì là một thi sĩ thứ thực, nếu chúng ta đọc dòng thơ cách mạng hồi ông còn trẻ. Tất cả các văn nghệ sĩ Bắc Kít sở dĩ sợ Tố Hữu đến như thế, chính là vì với họ, Tố Hữu là…. Xì Ta Lin mũi tẹt, Bắc Kít! 

ON PASTERNAK SOBERLY

**

*

Boris Pasternak 

Pasternak's poems are like the flash of a strobe light-for an instant they reveal a corner of the universe not visible to the naked eye. I fell in love with these poems as a child. They were magical, fragments of the natural world captured in words that I did not always understand. Pasternak was my father's favorite poet. In the evenings he often recited his poems aloud, as did Marina Tsvetayeva, a friend of the family who often came to our house in those years before the war.
Long afterwards, George Plimpton and Harold Humes brought the live Pasternak into my life. A year or so after the resounding success of Doctor Zhivago, when the dust had begun to settle on the scandal of his being forced to give up the Nobel Prize, they sent me on a mission to Moscow to interview the poet for The Paris Review.
I'll never forget that sunny day at Peredelkino in the winter of 1959-1960, a few months before Pasternak died. The sparkling snow, the fir trees, the half torn note pinned to the door on the veranda at the side of the house: "I am working now. I cannot receive anybody. Please go away." On an impulse, thinking of the small gifts I was bringing the poet from admirers in the West, I did knock. The door opened.
Pasternak stood there, wearing an astrakhan hat. When I introduced myself he welcomed me cordially as my father's daughter- they had met in Berlin in the twenties. Pasternak's intonations were those of his poems. In an instant the warm, slightly nasal singsong voice assured me that my parents' country still existed and that it had a future as real as that sunny day. Today, no matter how harsh life in Russia is, that flash of feeling is proven true. Russia has survived, and the natural world around us which Pasternak celebrated is as wondrous as ever.

- Olga Carlisle

16-17 mai [1933]. Ossip Mandelstam est arrêté dans la nuit pour avoir écrit en novembre 1933 un poème sur Staline: «Ses doigts épais sont gras comme des asticots / Et ses mots tombent comme des poids de cent kilos. / Il rit dans sa moustache énorme de cafard, / Et ses bottes luisent, accrochant le regard. / [ ... ] Et chaque exécution est un régal, / Dont se pourlèche l'Ossète au large poitrail." Il avait lu son poème à Pasternak dans la rue au début de l'année.
Mandelstam est envoyé en relégation à Voronej. Il pourra regagner Moscou le 16 mai 1937.
Nadejda Mandelstam racontera: Il [Pasternak] vint chez nous avec Akhmatova et me demanda où il fallait s'adresser. Je lui conseillai d'aller chez Nikolaï Ivanovitch Boukharine - car je savais déjà ce qu'il pensait de l'arrestation de Mandelstam - et chez Demian Biedny. [ ]
Boris Leonidovitch lui [Biedny] téléphona le jour-même .
- "Ni vous ni moi ne devons nous mêler de cette affaire ... ", dit-il à Pasternak ... "
22 mai. Pasternak est admis à l'Union des écrivains. Juin. Pasternak reçoit un appel téléphonique de Staline qui lui annonce que l'affaire Mandelstam est en cours de révision ... Nadejda Mandelstam, dans ses Mémoires, raconte que Staline reprocha à Pasternak de ne pas s'être adressé à lui, puis demanda si Mandelstam était « un maître". «Pasternak répondit: "Là n'est pas la question". - "Mais quelle est la question?" demanda Staline.
Pasternak répondit qu'il aimerait rencontrer Staline pour parler. "Parler de quoi?" - "De la vie et de la mort", répondit Pasternak. Staline raccrocha.»
Plus de vingt ans plus tard, Anna Akhmatova précisera que cette conversation téléphonique «a suscité une multitude de légendes. Une minable Triolet, même, eut l'audace d'écrire (au moment où Pasternak était attaqué évidemment) que Boris avait causé la perte d'Ossip Mandelstam. Nadia et moi considérons que Pasternak s'est conduit honorahlement».
Pasternak, ed Quarto, Galliamard

Trong The Noise of Time, Tiếng động của thời gian, lời giới thiệu, có một giai thoại thật thú vị liên quan tới Pasternak, vụ bắt nhà thơ Osip Mandelstam và một cú phôn của Bác Xì, từ Điện Cẩm Linh.

Liền sau khi Osip bị bắt, nhà thơ được Stalin đích thân hỏi tội. Đây là một đặc ân chưa từng một nhà thơ nào được hưởng, do quyền uy của nhà thơ [perhaps the profoundest tribute ever paid by the Soviet regime to the power of Mandelstam’s pen]. Do chính Boris Parternak kể lại.
Một bữa bà vợ Mandelstam đến gặp ông năn nỉ xin can thiệp để Osip được thả. Đó là lần đầu tiên ông biết Osip bị bắt. Cả hai không hề là bạn thân. [Ngay cả về thơ, thì hai ông cũng đếch chịu nhau, theo như Pasternak nhận xét, thơ Osip từ trong sáng qua hũ nút, còn Pasternak, từ rắc rối qua giản dị]. Tuy nhiên, do bà vợ M. năn nỉ quá, P. hứa sẽ làm hết sức mình. Đúng vào thời gian đó, có một ông to lắm ở trong BCT lăn cổ ra chết, và theo đúng nghi thức, xác của ông ta phải chường ra tại Nhà Hội [the Columned Hall of the House of Unions], cho những quan Xô Viết đến thăm lần chót. P. đến, và nhận thấy trong đám này có Bukharin, và bèn tới năn nỉ giùm bà vợ Osip. B. nói, khó đấy, nhưng sẽ cố. Vài đêm sau đó, một đêm, trong bữa tụ tập tại nhà P. giữa đám Bọ L.,  Bọ PXN… [?], thì điện thoại reo. Giọng người bên đầu kia hỏi, có đồng chí Pạt tẹc nặc đó không; đồng chí Xì muốn nói chuyện, từ điện Cảm Linh. Một lát sau, có giọng nhừa nhựa nghe ra dân Georgian:

-Phải Pạt đó không? Đây là Xì ta lìn.
-Good Evening, Comrade Stalin. By the way, this is not a leg-pull, is it? [Này đừng có bịp tụi này nhé]
-No, no, this is Stalin, all right.
Nghe tên Stalin cả phòng im ắng. Pạt nói:
-Hiện trong phòng có 26 người. và họ đều đang nghe. Có được không? [Does that make any difference?]
Xì nói, OK, này, về Mandelstam, thì sao?
-Tôi muốn làm điều gì đề giúp anh ấy.
-Anh có nghĩ, anh ta là một nhà thơ bảnh, a very good poet?
-Đồng chí Xì. Đồng chí cũng biết là chẳng nên hỏi một nhà thơ, anh ta nghĩ gì, về một nhà thơ khác. Cũng như chẳng ai hỏi một người đàn bà đẹp, về một người đàn bà đẹp khác.
-Đồng chí nói như vậy, có nghĩa là, đồng chí không khoái thằng chả đó? [Then am I to take it you don’t think much of him?]
-Không, không, đồng chí lầm rồi. Tôi là một nhà thơ thật khác ông ta. Chỉ có vậy. Tôi nghĩ, ông ta là người viết bảnh, a good writer.
-“Tốt lắm, cám ơn”. Ngưng. “Tại sao không ghé tôi chơi?”
-Cái này thì hơi bị kẹt. Đúng ra, ở địa vị đồng chí, thì đồng chí phải mời, thì tôi mới dám tới.
Xì cười lớn và chúc Pạt một buổi tối ra trò. Ngày hôm sau Mandelstam được thả. [Nhưng chẳng được lâu].
*

Chói lọi mới chẳng trói lại!
Này đừng có bịp tụi này đấy nhé!

Source

*

Contemporary trends conceived art as a fountain, though it is a sponge. They decided it should spring forth, though it should absorb and become saturated. In their estimation it can be decomposed into inventive procedures, though it is made of the organs of reception. Art should always be among the spectators and should look in a purer, more receptive, truer way than any spectator does; yet in our days art got acquainted with powder and the dressing room; it showed itself upon the stage as if there were in the world two arts, and one of them, since the other was always in reserve, could afford the luxury of self distortion, equal to a suicide. It shows itself off, though it should hide itself up in the gallery, in anonymity.
Pasternak
Milosz trích dẫn, trong bài viết về Pasternak, trên.

Đương thời coi thơ như dòng suối. Không phải vậy, thơ là miếng bọt biển.
Đương thời cho vọt thơ ra như vãi linh hồn.
Đúng ra, phải thẩm thấu, hút sạch, nuốt sạch...  và trở nên bão hòa..

Bùi Giáng (hay Nguyễn Đức Sơn ?): Em chưa vãi mà hồn anh đã ướt, là cũng ý đó.

*


Người trong chốn giang hồ, thân không làm chủ.

Ôi chao, Gấu lại nghe ông bạn văn VC than, tại sao anh cứ nhắc mãi đến Lò Thiêu?
Nó liên can gì tới Việt Nam?
*

"Tại sao anh cứ cay đắng mãi như thế?"
SCN
*

D. M. Thomas, trong “Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong ta”, chương “Cái chết của một thi sĩ”, đã nhận xét, về cuốn Dr. Zhivago:
Bác sĩ  Zhivago không chính trị một cách lộ liễu, như nhiều người tại Tây Phương hô hoán, một cuốn tiểu thuyết nhằm lên án, tố cáo... Nhưng nhà cầm quyền Xô Viết nhận ra, đây đúng là một kẻ thù chết người đối với chế độ. Bất cứ một trang là một sự chơn chất, nhiệt thành, cho một điều gì hết sức lớn lao, thực hơn nhiều, so với bất cứ  một chế độ chính trị nào, đâu phải chỉ cái thứ chính quyền toàn trị, xây dựng bằng hàng triệu người chết, lao động khổ sai, và một thứ ngôn ngữ vô nghĩa.
[Every page asserted a fidelity to something infinitely greater and more truthful than any political system, let alone a creed built on millions of deaths, slave labor, and a dead and a meaningless language].

Giả như áp dụng nhận định trên cho Thơ Ở Đâu Xa, những vần thơ làm ở một nơi chốn không thể làm thơ, liệu có khiêm cưỡng chăng?
Không! Chúng còn bảnh hơn cả Dr. Zhivago, theo nghĩa, thơ bảnh hơn văn, càng bảnh hơn tiểu thuyết, thứ văn chương bình dân. Người ta chẳng kể, về một nhà văn nữ hàng đầu thế giới, vừa nhặt gạo, vừa trông ông bố nằm bệnh, vừa viết tiểu thuyết, khi được in ra, mấy dấu chấm trên mấy chữ i, toàn là sạn gạo!
Nhà văn nữ Tuý Hồng chẳng đã, vừa nấu cơm, vừa [Tôi] nhìn tôi trên vách  [bếp]?

Nên nhớ, khi Pasternak được tin, Nobel trao cho ông vì Dr. Zhivago, ông rất bực. Ông nghĩ ông phải được Nobel như là nhà thơ.
Pasternak mất ngày 30 Tháng Năm 1960 [sau 30 Tháng Tư một ngày!] Đám tang của ông là một sự kiện khác thường, và, hầu như bí ẩn: Có lẽ đây là dấu báo đầu tiên, chỉ cho thấy, cái nhà nước uy quyền tột bực, hiển hiện ở khắp mọi nơi như thế đó vậy mà không thể lấn lướt thơ ca, … simply could not overcome poetry.

Thông báo giải thưởng Nobel, tháng 10, 1958, tiếp theo sự ra mắt Dr. Zhivago tại Tây Phương đã bùng ra chiến dịch tố cáo, bôi nhọ Pasternak, bắt đầu từ tờ Sự Thật. Tiếp theo, Hội Nhà Văn trục xuất ông. Bí thư Thành Đoàn gọi Pasternak là một con heo ỉa đái vào cái máng ăn của nó. Pasternak từ chối giải thưởng, nhưng cũng không yên thân. Ông gần 70, sức khỏe tồi tệ, chiến dịch làm nhục làm ông hoàn toàn suy sụp. Người tình, Olga Ivinskaya, sợ ông bị tim quật chết, và căng hơn, có thể tự sát, bèn năn nỉ ông viết thư cho Khrushchev, xin cho ở lại nước Nga, vì nếu rời nước Nga, là chết.

Ông mất ngày 30 Tháng Năm 1960. Thông báo chính thức, nhỏ nhoi, và, cáo thị độc nhất về đám tang, là một bản viết tay, dán ở kế bên quầy bán vé đi Kiev Station, ở Moscow, từ đó đi tới Peredelkino, một 'colony' ở ngoại vi thành phố Moscow, là nơi nhà văn cư ngụ:
“Vào 4 giờ chiều ngày Thứ Năm, 2 Tháng Sáu, linh cữu Boris Leonidovich Pasternak, nhà thơ vĩ đại nhất của Liên Xô hiện nay, sẽ được đưa về lòng đất”.
Cáo thị bị bóc, lại dán tiếp, nhiều lần, bởi một bàn tay vô danh.
Nghi lễ Chính Thống giáo đã được cử hành tại nhà riêng, một cách êm ả, vào buổi chiều hôm trước đám tang.
Sáng hôm sau, bốn danh thủ dương cầm – Stanislav Neigauz, Andrei Volkosky, Marya Yudia [bà đã từng nói với Stalin, ông là một kẻ tội lỗi lớn lao, a great sinner] và Sviatoslav Richter đã chơi nhạc vài tiếng đồng hồ tại nhà.
Trong số những người khiêng quan tài, có Andrei Sinyavsky và Yuli Daniel [sau bị truy bức, bách hại vì những bài viết chống đối, ly khai của họ], và Lev Koplev [Solz đưa ông này vô, làm một nhân vật trong Tầng Đầu]. Họ nhập vô một biển cả, những khuôn mặt rầu rĩ, tiếc thương: bạn bè, sinh viên, học sinh, công nhân, và dân quê. Một viên chức Hội Nhà Văn bước ra từ một chiếc limousine lớn, mầu đen, tính ké tí vai, khiêng quan tài nhà thơ, nhưng đám sinh viên la to, đi chỗ khác chơi.

Giỗ đầu

Gấu đọc Dr. Zhivago thời mới lớn, thời gian thường qua nhà ông anh nhà thơ, đói ăn đói cả đọc. Cùng đọc với bà cụ. Hai bà cháu cùng mê đọc. Và cùng mê Dr Zhivago. Em Lara ở trong truyện đẹp hơn nhiều so với Lara khi được chuyển thể thành phim, nhưng bắt buộc phải như vậy thôi.

Trên VN thư quán có cuốn này.


Carlos Fuentes: Women

on
Sister Benedicta & Anna Akhmatova & Simone Weil

Triết gia Đức gốc Do Thái Simone Weil là đệ tử của Alain. Và lời phán của ông thầy xuống đệ tử, là suy đi nghĩ lại mọi điều, dựa vào việc đọc, mỗi năm, một triết gia hay một nhà thơ, như Plato và Homer. Alain không nghĩ ông là Cộng Sản hay xã hội. “Tôi thuộc phe Tả đời đời, một phe Tả chẳng bao giờ hành xử quyền lực, như bản chất của nó, thể nào cũng đưa đến lạm dụng.”
Simone Weil chẳng những suy đi nghĩ lại mọi chuyện mà còn quyết định biến tư tưởng của bà thành hành động, đưa chúng vào thử nghiệm ở trên đường phố, ở xưởng thợ, ở mặt trận. Khi còn là sinh viên, bà có biệt danh là “Thánh Nữ Đỏ”, và bà biểu lộ khuynh hướng tả phái của bà bằng cách đi tới nhà máy, xưởng thợ cùng làm việc với công nhân, chiến đấu chống phát xít tại Tây Ban Nha, và sau đó, dục bỏ “chủ nghĩa ái quốc của Nhà Thờ”, và luôn cả những tiếng nói của Ky Tô Giáo Pháp, hô hào: “Thà Hitler còn hơn là Mặt Trận Bình Dân”. Nhưng Simone Weil cũng dục bỏ Liên Xô Cộng Sản, khi bà biết về những vụ thanh trừng của Stalin.