*

 




Thơ Mỗi Ngày


  *

Tượng Hy Lạp

Với sự trợ giúp của con người và những yếu tố khác
thời gian làm một chuyện khi bị được ở đây.
Trước hết, nó hớt cái mũi, rồi tới khẩu súng,
tiếp đó, từng cái một, mấy ngón chân, mấy ngón tay
rồi cùng với năm tháng, cánh tay, cái này tiếp cái kia,
bắp vế trái, phải, hai cái vai, hai cái hông, cái đầu, hai mông đít,
và bất cứ cái gì, một khi rớt ra, là biến thành mẩu vụn, sỏi cát.

Khi một người nào đang sống, chết, kiểu đó
Máu ưá ra từ mỗi cú đòn

Nhưng tượng đá chết cái chết trắng
Và luôn luôn không hoàn toàn

Từ cái bức tượng mà chúng ta đang lèm bèm,
chỉ nửa phần trên lần lữa, đếch chịu đi tầu suốt,
Và nó giống như một hơi đời, cố níu kéo,
bằng một sự cố gắng tới chỉ.
Bởi vì kể từ bây giờ, nó quyết tâm kéo hết vào trong nó,
tất cả những ân sủng và trọng lực của những gì đã bị mất.

Và nó làm như vậy
Nó làm như vậy, vào lúc này
Nó làm và nó làm chóa mắt
Nó làm chóa mắt và nó kiên quyết kéo dài -

Thời gian, như thế đó, thật đáng vỗ tay, xoa đầu, ở đây
kể từ khi mà nó ngưng sớm
để lại một số việc, sau đó.

Wistawa Szymborka

The Turn of the Century

 It was supposed to be better than the rest, our twentieth century.
But it won't have time to prove it.
Its years are numbered,
its step unsteady,
its breath short. 

Already too much has happened
that was not supposed to happen,
and what was to come
has yet to come. 

Spring was to be on its way,
and happiness, among other things.
Fear was to leave the mountains and valleys.
The truth was supposed to finish before the lie. 

Certain misfortunes
were never to happen again
such as war and hunger and so forth. 

The defenselessness of the defenseless
was going to be respected.
Same for trust and the like. 

Whoever wanted to enjoy the world
faces an impossible task.
Stupidity is not funny.
Wisdom is not cheerful. 

Hope
is no longer the same young girl
et cetera. Alas. 

God was at last to believe in man:
good and strong.
But good and strong
are still two different people. 

How to live-someone asked me in a letter,
someone I had wanted
to ask the same thing. 

Again and as always,
and as seen above
there are no questions more urgent than the naive ones.

Wistawa Szymborka



**

Mới tậu, gồm 27 bài, song ngữ. Có mấy bài đã đăng trên Tin Văn, như Vermeer, Hard Life With Memory

*

VERMEER 

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn't earned
the world's end.
-Wislawa Szymborska
(Translated from the Polish
by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak)


VERMEER 

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.

Bài thơ này, GCC đọc trên NYRB, 11.11.2010, bèn chôm liền.
Tình cờ sao, tay Prospero, cũng đọc, nhưng trên lưới, và cũng chôm liền, và đi một đường vinh danh thực là tuyệt vời:
Bài thơ chống lại Tận Thế

Bạn phải đau nỗi đau Việt Nam tới cỡ nào thì mới làm nổi bài thơ “Vietnam”,[Szymborska], và chính vì đau nỗi đau VN như thế, thì mới lại làm nổi bài thơ chống lại Tận Thế như thế!

"God reveals in utter clarity that which we can't understand; that which we can understand He lays out in riddles."
Tạm dịch: Ông Giời bày ra cái th
ật rõ ràng để chúng ta đếch hiểu nổi. Còn cái chúng ta hiểu được, thì ông bày ra qua thai đố.

Liệu hai bài thơ trên, minh họa, câu trên?

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
Prospero

Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.

Ui chao, phán như thế mới là phán chứ, nhỉ?

Nhưng bạn đã nhận ra sức căng của thời tiết, vào lúc trời đất rơi vào thu phân?

… tóc em rối giữa hai đầu ngọn gió
hình như rừng rơi vào thu phân.

TMT

GREEK STATUE

With the help of people and the other elements
time hasn't done a bad job on it.
It first removed the nose, then the genitalia,
next, one by one, the toes and fingers,
over the years the arms, one after the other,
the left thigh, the right,
the shoulders, hips, head, and buttocks,
and whatever dropped off has since fallen to pieces,
to rubble, to gravel, to sand.

When someone living dies that way
blood flows at every blow.
But marble statues die white
and not always completely.

From the one under discussion only the torso lingers
and it's like a breath held with great effort,
since now it must
draw
to itself
all the grace and gravity
of what was lost.

And it does,
for now it does,
it does and it dazzles,
it dazzles and endures-

Time likewise merits some applause here,
since it stopped work early,
and left some for later.

Tượng Hy Lạp

Với sự trợ giúp của con người và những yếu tố khác
thời gian làm một chuyện khi bị được ở đây.
Trước hết, nó hớt cái mũi, rồi tới khẩu súng,
tiếp đó, từng cái một, mấy ngón chân, mấy ngón tay
rồi cùng với năm tháng, cánh tay, cái này tiếp cái kia,
bắp vế trái, phải, hai cái vai, hai cái hông, cái đầu, hai mông đít,
và bất cứ cái gì, một khi rớt ra, là biến thành mẩu vụn, sỏi cát.

Khi một người nào đang sống, chết, kiểu đó
Máu ưá ra từ mỗi cú đòn

Nhưng tượng đá chết cái chết trắng
Và luôn luôn không hoàn toàn

Từ cái bức tượng mà chúng ta đang lèm bèm,
chỉ nửa phần trên lần lữa, đếch chịu đi tầu suốt,
Và nó giống như một hơi đời, cố níu kéo,
bằng một sự cố gắng tới chỉ.
Bởi vì kể từ bây giờ, nó quyết tâm kéo hết vào trong nó,
tất cả những ân sủng và trọng lực của những gì đã bị mất.

Và nó làm như vậy
Nó làm như vậy, vào lúc này
Nó làm và nó làm chóa mắt
Nó làm chóa mắt và nó kiên quyết kéo dài -

Thời gian, như thế đó, thật đáng vỗ tay, xoa đầu, ở đây
kể từ khi mà nó ngưng sớm
để lại một số việc, sau đó.


WALL

IN MEMORIAM HENRYK BERESKA

He always seemed young,
caught up in new projects and proposals;
he worked nonstop.
He liked to talk about the window
in his last apartment,
the East Berlin window that looked out
all those years on the wall and the West,
that enigmatic land, forbidden.
The wall covered in snow, in frost,
slick and damp with rain in May,
darkening in autumn;
the wall-a thing unto itself,
the jewel of German idealist philosophy.
When die Wende arrived, the turning point,
Henryk got even younger-
and decided to start a new life,
the life of a free man,
citizen of a free country.
He couldn't understand those
who mourned the end of the dictatorship.
He was full of tempered ardor,
though his neighbor in the village
where he kept his summer house,
an ex-Stasi officer, failed to stir
his sympathies. Of course.
He traveled through Europe, in Poland
honors and awards awaited him.
It seemed he would live on,
that he'd be given extra years
to reward him for that East Berlin window.
But a different decision was made. A different verdict
Neither reward nor punishment,
just frost, snow, and mist.

Adam Zagajewski: Unseen Hand


 Tường

Tưởng niệm HENRYK BERESKA

Ông luôn có vẻ trẻ măng
giữa những chương trình, dự án mới mẻ;
ông làm việc không ngừng.
Ông hay nói về cái cửa sổ
ở căn phòng sau cùng của ông
Cửa Sổ Đông Bá Linh bao nhiêu năm tháng đó
nhìn ra bức tường và Tây Phương
Cái vùng đất bí ẩn, cấm đoán.
Bức tường phủ tuyết, sương,
Trơn và ướt cùng mưa Tháng Năm,
Tối sẫm đi vào Mùa Thu
Bức tường – nó của chính nó, cho chính nó,
Kim cương, ngọc quí của triết học lý tưởng Đức
Khi Đỉnh Cao Trí Tuệ, Bước Ngoặt Của Thế Kỷ tới
Henryk trẻ hẳn ra, trẻ như chưa từng bao giờ trẻ như thế -
Ông quyết định khởi đầu một cuộc đời mới,
Cuộc đời của một con người tự do,
Công dân của một xứ sở tự do.
Ông không thể hiểu những người khóc than sự chấm dứt của chế độ độc tài
Ông bừng bừng, hớn hở, như lên cơn sốt
Tuy nhiên ông hàng xóm trong làng
Nơi có căn nhà mùa hè của ông
Một cựu cớm Stassi, thì không hớn hở như vậy. Lẽ tất nhiên
Ông đi du lịch, Âu Châu, Ba Lan
Vinh quang, giải thưởng đợi chờ ông
Có vẻ như ông sẽ tiếp tục sống
Và được ban cho thêm những năm tháng
Để tưởng thưởng ông, về Cái Cửa Sổ Đông Bá Linh
Nhưng một quyết định khác đã ban ra.
Một bản án khác
Chẳng thưởng mà cũng đếch phạt,
Chỉ có mù sương, lạnh tuyết


FORGET

Forget the suffering
You caused others.
Forget the suffering
Others caused you.
The waters run and run,
Springs sparkle and are done,
You walk the earth you are forgetting.

Sometimes you hear a distant refrain.
What does it mean, you ask, who is singing?
A childlike sun grows warm.
A grandson and a great-grandson are born.
You are led by the hand once again.

The names of the rivers remain with you.
How endless those rivers seem!
Your fields lie fallow,
The city towers are not as they were.
You stand at the threshold mute.

- Czeslaw Milosz

(Translated from the Polish by Jessica

Fisher and Bozena Gilewska)

NYRB Dec. 20, 2001

Quên

Quên đau khổ
Bạn gây ra cho người khác
Quên khổ đau
Người khác chơi bạn
Nước chảy xuôi, chảy xuôi mãi,
Mùa Xuân lấp lánh, và kể như xong
Bạn bước trên trái đất bạn đang quên

Đôi khi bạn nghe một điệp khúc xa xa
Nó nghĩa gì vậy, bạn hỏi, ai đang hát
Một ông mặt trời như một đứa bé con trổi lên, ấm áp
Một thằng cháu trai, một đứa chút, chít ra đời.
Bạn lại được thằng bé nắm tay dẫn đi.

Những cái tên của những con sông ở mãi với bạn.
[Sông gì nhỉ?
Sông Hồng, sông Xề Gòn chứ còn sông gì nữa, cha nội!]
Ui chao, chúng có vẻ dài vô tận.
Những cánh đồng của bạn n
ằm bỏ hoang.
Những cái tháp thành phố thì không như xưa.
Bạn đứng ở bực thềm, câm nít.


Nháp: Charles Simic – The Uncertain Certainty
Ngu Yên

Đọc cái bài viết, song song, về kinh nghiệm làm thơ của Simic, và của Ngu Yên, thì GCC nhận ra 1 điều là, hai ông làm khơ khác nhau, tuy cùng 1 thứ kinh nghiệm như nhau.
Simic khi còn là 1 đứa con nít, bỏ chạy 1 cuộc chiến, và suốt đời không làm sao quên, và ông làm thơ từ kinh nghiệm đó, (1) cộng thêm cái đau lưu vong, làm thơ bằng tiếng xứ tạm, quê tạm.
Ông Ngu Yên thì cũng di dân, cũng kinh nghiệm cuộc chiến Mít đầy [dầy, cũng được] mình, bỏ chạy xứ Mít VC. 
Vậy mà thơ khác hẳn nhau, hay dở chưa nói.
Những bài thơ tuyệt vời nhất của Simic, GGC mê cực mê, thì cũng không được Ngu Yên đọc.

Kể sơ một bài:

READING HISTORY

for Hans Magnus

At times, reading here
In the library,
I'm given a glimpse
Of those condemned to death
Centuries ago,
And of their executioners.
I see each pale face before me
The way a judge
Pronouncing a sentence would,
Marveling at the thought
That I do not exist yet. 

With eyes closed I can hear
The evening birds.
Soon they will be quiet
And the final night on earth
Will commence
In the fullness of its sorrow.

How vast, dark, and impenetrable
Are the early-morning skies
Of those led to their death
In a world from which I'm entirely absent,
Where I can still watch
Someone's slumped back,

Someone who is walking away from me
With his hands tied,
His graying head still on his shoulders,

Someone who
In what little remains of his life
Knows in some vague way about me,
And thinks of me as God,
As Devil.

Đọc Sử Ký

Gửi Hans Magnus

Đôi khi đọc ở đây
Tại thư viện
Tôi được đưa mắt nhìn
Những người bị kết án tử hình
Những thế kỷ đã qua
Và những đao phủ của họ
Tôi nhìn mỗi khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa tuyên án
Lạ làm sao, là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi đó mình chưa ra đời! 

Với cặp mắt nhắm tít, tôi có thể nghe
Những con chim chiều tối
Chẳng mấy chốc, chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau cùng trên trái đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi thống khổ của nó

Bao la, tối, không cách nào xuyên thủng,
Là những bầu trời sáng sớm
Của những con người bị dẫn tới cái chết của họ
Trong một thế giới mà tôi thì hoàn toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của tôi, tôi vẫn có thể ngắm
Cái lưng lảo đảo,
Của một người nào đó,
Một người nào đó đang bước xa ra khỏi tôi
Với hai tay bị trói
Cái đầu xám của người đó thì vẫn còn trên hai vai 

Một người nào đó
Trong tí xíu thời gian còn lại của cuộc đời của mình
Biết, một cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về tôi, như là Thượng Đế
Như là Quỉ

GCC đọc bài này, là lại nhớ tới ông cụ của Gấu, bị chính 1 đấng học trò của ông, cho đi mò tôm.

Ở bên đó, ông sẽ nghĩ về Gấu, như là 1 tên Bắc Kít khốn nạn, hay là 1 tên Bắc Kít đã được Miền Nam… thuần hóa?

(1)

Simic was born in Belgrade, Serbia then part of Yugoslavia. Growing up as a child in war-torn Europe shaped much of his world-view, Simic states. In an interview from the Cortland Review he said, "Being one of the millions of displaced persons made an impression on me. In addition to my own little story of bad luck, I heard plenty of others. I'm still amazed by all the vileness and stupidity I witnessed in my life." Simic immigrated to the United States with his family in 1954 when he was sixteen. He grew up in Chicago and received his B.A. from New York University. He is professor emeritus of American literature and creative writing at the University of New Hampshire and lives on the shore of Bow Lake in Strafford, New Hampshire.

"Lớn lên  tại 1 Âu Châu bị chiến tranh quần nát tạo nên cái nhìn thế giới của tôi, phần lớn. Là 1 trong hàng triệu con người mất mẹ quê hương, “vô xứ” [từ này chôm của Đào Triết Gia, và cùng cái từ này, là cái mà triết gia Mít gọi là "văn chương vô xứ", khi ông viết về Linda Lê], điều này gây ấn tượng lên tôi. Thêm vào số phận hẩm hiu của riêng mình, nho nhỏ, tí tí, thì tôi còn nghe cả lố, từ những người khác. Tôi vưỡn còn và chắc là luôn luôn, ngỡ ngàng, về bao điều quỉ ma, ngu si đần độn, mà tôi chứng kiến trong đời." Simic phán.

Tuy cũng Mẽo, dù di dân, như Ngu Yên, nhưng Simic viết về những đấng thi sĩ Mẽo:

“Chúng mần thơ như thể Lịch Sử vờ chúng”
[“They wrote as if History had little to do with them”] (1)

Ui chao GCC chỉ muốn tặng thi sĩ Mít câu trên!

Hà, hà!

(1)

Trong bài điểm thơ Milosz, của Simic, NYRB, Dec, 20, 2001:

Cũng theo hư không mà đi
A World Gone Up in Smoke

Cũng trong bài này, Simic trích mấy câu của Milosz, quá thần sầu:

Trong thế giới này,
Chúng ta tản bộ trên mái Địa Ngục,
Ngắm hoa.

In this world
we walk on the roof of Hell
gazing at flowers.

TV sẽ đăng bài này!

Mấy câu sau đây, của Milosz, đọc, mà chẳng "sướng điên" lên ư:

Một đời đếch đủ
Tớ muốn sống tệ lắm là hai cuộc đời
trên cái hành tinh buồn này.
Trong những thành phố cô đơn
Trong những làng chết đói
Để nhìn mọi cái ác
Nhìn những xác người thối rữa ra, tàn lụi đi
Và phán về luật chơi, theo đó, thời gian là đề tài
Thời gian,
Thứ thời gian đang hú ở trên đầu chúng ta,
Như là một ngọn gió.

"Trời buồn gió cao" [TCS], là vậy.


ANTENNAS IN THE RAIN

Cột thu thanh trong mưa

Tôi nhìn thấy biển và những trái cam.

Trước hết là tuyết – Quí bà, quí ông, xin một phút im lặng.

Tin nóng hổi, Bach thức giấc trở lại, và hát.

Thời gian giữ lời của nó (nó luôn luôn giữ lời).

Đọc Milosz bên cửa sổ mở rộng. Tiếng láy bất thần của những con nhạn.

Những nhà thờ nhỏ ở bên dưới đám cây đoan vào mùa hè – lũ ong nô đùa.

“Cap diem.” Ông ta nắm lấy ngày, nhưng khi ông kiểm tra con mồi vào buổi tối, hoá ra đêm.

-Bạn thực sự rất mê những thư viện?

Cà rốt, hành, cerely, mận, trái hạnh, đường bột, bốn trái táo bự, màu xanh là nhất (lá thư tình của bạn)

Đừng để lôi đi. Phán, nghi lễ Chính Thống thiếu chất tếu!

Nhà thương - những người bịnh, tàn phế trong áo choàng kế bên người y sĩ giải phẫu da rám nắng, miệng mỉm cười.

Tại làm sao bạn luôn viết về những thành phố?

Cứ giả như là chúng ta đọc thơ rất cẩn trọng,

như đọc thực đơn trong những nhà hàng cực sang, cực đắt tiền.

"Periagoge" –  ý niệm của Plato về sự chuyển hóa nội tại.

Khúc đường lồi hẳn lên ở Công trường Bastille – có lẽ một Bastille khác ẩn bên dưới mặt đất.

Mẫu đơn thích gái quê trong nhà thờ.

Làm sao anh có thể nhớ em, khi em không chịu bỏ đi? (nhạc sến)

Có bao nhiều kiểu nhớ nhung? Một vị giáo sư VC phán, sáu.

Hàng chữ trên xe bus: CÓ MÁY LẠNH.  Những chuyến du lịch ban ngày - Wieliczka, Auschwitz.

Lũ người vô gia cư, không nhà cửa xúm quanh mấy cái lò sưởi ở nhà ga xe lửa Sài Gòn vào Tháng Chạp.

Bức họa của Vermeer, người đàn bà ngồi đan thật là an toàn ở hiên nhà, đằng sau, bên trong nhà tối thui,
đằng trước, con phố và ánh sáng.

Vô phương hòa giải.

Mặt trời làm đau, đứa bé ở công viên làu nhàu.

Gấu, nói một cách trách móc: Tớ sống ở đó, bạn biết đấy, nhưng chưa bao giờ tớ phán, quá đủ rồi, Sài Gòn!

Mọi thứ trở lại. Hứng khởi [Inspiration: Phiện thú lắm] khuyết lại đầy, như vầng trăng tới tháng. Ham muốn. Dục vọng.

Hài kịch và Bi kịch; Simone Weil chỉ coi bi kịch.

Cây thuốc phiện đỏ và tuyết đen.

Nụ cuời của người đàn bà, chẳng còn trẻ nữa, đọc sách trên xe lửa đi Warsaw

Ôi, sao em chân dài, siêu sao, siêu đẳng, đến như thế?

Đền Delphi, đầy những du khách, mở cửa cho những kỳ bí.

Biển tức giận vào lúc nửa đêm: giận dữ, phải nói như vậy.

Và Bảo Tàng Lò Thiêu ở Washington - tuổi thơ của tôi, những toa tầu của tôi, gỉ sét của tôi.

Buổi chiều Tháng Năm: Những cột thu thanh trong mưa.

Khu phố Lê Lợi, Bùng Binh Chợ Bến Thành la lớn, GCC, tên chó đẻ, tên cà chớn!

Những con cá heo gần Tân Cảng: chúng mê nhất, sự chuyển động cổ xưa, như biểu tượng những nhà học giả sử dụng như là những âm tiết của thơ.

Một nhà hát quá nhỏ làm sao chiếu phim của Bergman?

Trốn chạy nhà tù này, qua nhà tù tới.

Sau thông báo"zuruckbleiben", tại một trạm xe điện ngầm ở Bá Linh, một khoảnh khắc im lặng - tiếng động của sự vắng mặt.

Chim én ở Sài Gòn, cuống lên vì mùa hè, bèn huýt sáo inh ỏi.

Một động từ, mệt lừ đừ, bèn chui trở lại cuốn từ điển vào ban đêm.

Mama luôn luôn hé nhìn trang chót của cuốn tiểu thuyết - để biết chuyện gì xẩy ra tiếp theo…

Sự thực thì là Ky Tô, Catholic, sự tìm kiếm sự thực thì là Thệ Phản, Protestant [W.H. Auden].

Một vài chuyên viên tiên đoán, vào cuối thế kỷ 21 con người sẽ đếch làm sao mà chết được nữa.

Mở ra.

Trả tiền điện thoại, khí đốt, trả sách, Gấu Cái ra lệnh.

Trong máy bay, sau bữa ăn tối, hai vị thần học mập, lùn, so sánh tiền hưu.

Ở Sài Gòn, con phố Độc Lập Thống Nhất, Đại Thắng Mùa Xuân… tên dài thòng,

có thể dẫn tới Thiên Đàng, nhưng bị thiến, cụt thun lủn, than ôi.

Liệu cái thang máy sẽ đưa đến đúng nơi nó đưa chúng ta tới?

Từ xe lửa chạy hối hả, chúng ta đã nhìn thấy những đồng ruộng - từ những khu rừng

như từ những giấc mộng, hươu nai xuất hiện.

Đá cẩm thạch không nói chuyện với gạch ngói, đất sét (với thời gian).

Cô gái bán hàng trong tiệm giầy ở con phố Thương Mại, người Việt.

Cô nói bạn quỳ xuống, tôi là thuyền nhân.

Tôi vặn đài qua làn sóng ngắn, ai đó đang thổn thức ở Bolivia.

Bộ mặt Chúa Ky Tô ở S. Luigi dei Francesi.

Một điều chắc chắn: Thế giới thì còn đang sống, và cháy đỏ.

Ông ta đọc Holderlin trong phòng đợi xám xịt, xỉn xìn xin.

Thuyền nhân là quốc gia độc nhất được miễn cái gọi là chủ nghĩa quốc gia.

Cái mát mẻ không làm sao diễn tả được của cơn mưa mùa Xuân.

Được cắt bởi lưỡi dao.

“Ở đây cũng có những vị thần”

Trái cây nứt.

Tôi hỏi ông via: “Bố làm gì suốt ngày?” “Ta tưởng nhớ.”

Những chiếc xe giao hàng trên xa lộ Hy Lạp, thương hiệu Metafora.

Trên mặt biển long lanh sáng ngời, một cái xuồng kauak, đứng ỳ 1 chỗ, hầu như không động đậy -  một cái kim la bàn.

Có nhớ cái tay chơi hồ cầm tuyệt vời trong cái áo khoác lang thang của 1 tên hề?  

Vào ban đêm, những ánh đèn của một khu tinh chế rộng lớn - một thành phố đếch có ai sống.

Tại làm sao mà những khoảnh khắc như thế này chấm dứt thật là mau lẹ?

Đừng nói chuyện cái kiểu đó. Hãy nói từ bên trong những khoảnh khắc.

Yêu những vật bình thường, không đổi chác.

Những con thuyền trên dòng sông xanh, rượt đuổi thời gian.

Thơ là niềm vui giấu thất vọng.

Nhưng bên dưới thất vọng - nhiều niềm vui hơn.

Nói từ bên trong.

Không về thơ.

Đừng nói, hãy lắng nghe.

Đừng lắng nghe.

Adam Zagajewski: Eternal Enemies

3/13/12

Những nhà thơ trở lại

V/v Phùng Cung. Và “kéo thế giới về xứ Mít chiêm ngưỡng cường quốc thơ”.

GCC đã từng để thơ PC kế bên thơ Mandelstam.

Le Bruit Du Temps

Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc.
Phùng Cung
 
En me privant des mers, de l'élan, de l'envol
Pour donner à mon pied l'appui forcé du sol:
Quel brillant résultat avez-vous obtenu?
Vous ne m'avez pas pris mes lèvres qui remuent!
Mandelstam

[Mi lấy của ta
Biển
Trời
Gió
Cùm chân ta vào đất:
Làm sao mi cấm môi ta run?]

Nhà thơ biết rằng mặc dù sự cô đơn, tủi nhục, tiếng môi run sẽ có một ngày nghe được,
và thơ, như cái chai ném xuống biển, sẽ có ngày vượt biển đợi, tới bờ mong.
Tại Voronej, vùng Crimé, chốn lưu đầy, cảm thấy giờ phút cuối cùng đã điểm,
tiếng môi run chẳng vì thế mà câm nín: 

Ta không muốn, như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái thân xác này
Biến thành ngã  tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố, thành đường.... 

Hãy học cùng với Mandelstam, nghệ thuật khó khăn:
Lắng Nghe Tiếng Thời Gian.

[Như học cùng Phùng Cung:
Lắng Nghe Mới Rõ
Tiếng Tóc Mình Chuyển Bạc] 

Nilkiata Struve

Lời Tựa "Tiếng Thời Gian"
(tập thơ xuôi của nhà thơ Nga Ossip E. Mandelstam) 

"Pour moi, pour moi, pour moi dit la révolution"
"Tout seul, tout seul, tout seul répond le monde" 

On vivait mieux auparavant,
A vrai dire, on ne peut comparer
Comme le sang bruissait alors
Et comme il bruit maintenant.

Mandelstam

LMH giới thiệu PC

Thơ Phùng Cung là thứ thơ kiệm chữ, phảng phất gợi nhớ Tanca, Haiku của Nhật. Thơ ấy buộc mỗi chữ phải ở thế thăng hoa. Xem Đêm đạt tới độ ấy: tứ không lộ và chữ thì như nhập hồn. Ví dụ mùa nước lụt, với Phùng Cung, đã là 'Mùa nước mắt': 

Đê tiền triều gãy khúc
Đồng ngập trắng
Con lềnh đềnh cõng - vắng - bơi - suông
Thương em đứng giữa mùa nước mắt.



&

*

Mấy dòng thơ sau đây, của Mandelstam, để tặng con phố mang tên ông. 

Như Phố TCS !

What street's this one?
- 'This is Mandelstam Street.
His disposition wasn't "party-line"
Or "sweet-as-a-flower".
That's why this street -
Or, rather, sewer
Or possibly slum -
Has been named after Osip Mandelstam.'
 

Con phố nào đây?
-Phố Mandelstam
Sao không có tí ‘đường lối của Đảng’
Hay ‘đẹp như thơ, ngọt như hoa’
Chắc vì thế mà có con phố như thế này –
Hay, tốt hơn, thì là một cái cống rãnh
Hay, có thể, phố ổ chuột-
được đặt tên theo nhà thơ Mandelstam 

Sau khi Stalin chết, Mandelstam được ‘phục hồi’, nhưng vẫn chưa có con phố nào được đặt tên nhà thơ, ở toàn xứ Liên Xô 

Bắc Kít, mê tiếng Nga, mê Cách Mạng Nga, mê kít Nga, thành thử Gấu phải chọn 1 nhà thơ Nga vinh danh Cù Hậu Duệ, để cho chúng biết Nga đâu phải chỉ có thứ thơ xúi người ta giết người, và phải chọn đúng cái ông làm thơ chửi Stalin, và chết ở trong tù, làm gì có thứ thi sĩ ngồi viết tự kiểm, xin tha, về nhà, để… làm thơ!

Trong bài Tựa cho tập thơ của chồng, bà vợ chỉ ra sự khác biệt giữa thơ canh tân, và thơ truyền thống, đúng vấn đề chúng ta đang đụng phải, khi nghĩ tới thơ lục bát của xứ Mít.

Có gì dễ bằng làm thơ lục bát, và có gì cực khó, làm thơ lục bát?

Gấu thấy nhan nhản thơ lục bát ở trên lưới, sợ quá đến hết dám đọc!