*

 




Thơ Mỗi Ngày




*

Crucifixion

Crucified Jesus on a yellow cross
Washed down by cold rain
Spreads his arms wide
As if playing the accordion.

He bends his ear down to the instrument
Better to hear its sound
Unaware the passing tinker took it
When he went by cold and hungry. 

They all abandoned him, haughtily,
The revelers, the dancers
Only sparrows, crickets, and snowflakes
Still dance around him. 

The cross is at the crossroads
Where the village road meets the country road.
If you hear music, stop and listen!
It's true, you can hear the music!

Ljubomir Simovic
1935-

Simonic sinh tại Uzice, học văn và triết tại Ðại học Belgrade. Thành công cả về viết kịch và làm thơ. Kể từ khi cuốn sách đầu tay, Slavic Elegies, xb năm 1958, ông có thêm một số tuyển tập và 1 cuốn thơ tuyển.

Ðóng đinh Chúa

Chúa Giê Su bị đóng đinh trên cây thập tự vàng
Mưa lạnh dội xuống, rửa sạch Người
Nguời vươn rộng tay
Như chơi đàn accordion.

Người nghiêng tai xuống gần nhạc cụ
Như để nghe rõ thêm tiếng đàn
Không để ý đến anh hàn nồi đi qua,
Lạnh và đói,
Chôm mẹ cây đàn.

Chúng bỏ rơi Người, lũ người ngạo mạn
Lũ ham vui, đám nhảy nhót
Chỉ có chim sẻ, dế, và những bông tuyết
Vẫn khiêu vũ quanh Người.

Cây thập tự thì ở ngã tư,
Khi đường làng gặp đường tỉnh
Nếu bạn nghe âm nhạc
Hãy ngưng lại, và lắng nghe
Thực đấy, bạn có thể nghe âm nhạc!

Convenience

January 12, 2012
W. S. Merwin.

We were not made in its image
but from the beginning we believed in it
not for the pure appeasement of hunger
but for its availability
it could command our devotion
beyond question and without our consent
and by whatever name we have called it
in its name love has been set aside
unmeasured time has been devoted to it
forests have been erased and rivers poisoned
and truth has been relegated for it
we believe that we have a right to it
even though it belongs to no one
we carry a way back to it everywhere
we are sure that it is saving something
we consider it our personal savior
all we have to pay for it is ourselves

Tiện

Chúng ta không được làm ra từ hình ảnh đó
Nhưng mà từ cái khởi đầu mà chúng ta tin tưởng ở nó
Không phải vì làm dịu cơn đói
Mà vì sẵn đó, bèn đợp
Nó có thể đòi hỏi sự hiến dâng hết mình của chúng ta
Quá cả tra hỏi và bằng lòng
Và bằng bất cứ cái tên gì mà chúng ta gọi nó
Và trong cái tên đó, tình yêu được đặt qua một bên
Một thời gian không tính đếm đã được dâng hiến cho nó
những khu rừng đã được xóa bỏ, và những con sông được tẩm độc
và sự thực đã được trao cho nó
Chúng ta tin chúng ta có quyền với nó
Mặc dù nó chẳng thuộc về ai
Chúng ta đánh 1 vòng trở về với nó, ở bất cứ nơi đâu, bất cứ chỗ nào
Chúng ta chắc chắc nó gìn giữ 1 điều gì đó
Chúng ta coi nó là kẻ cứu rỗi của riêng cá nhân chúng ta
Tất cả những gì chúng ta phải trả giá cho nó, là chính chúng ta.


Thơ Noel 2011

Date: Sun, 12 Sep 2010 16:48:26 -0700

Dear GNV,

How have you been? I hope you enjoy your vacation and take care.
Bac Gau oi, dung lien luy nhieu voi cay viet khac.
Enjoy your works, your life and family.
Your readers and your family need you and are more important.
Soon,

H/A

Take Care.
Merry Christmas to U and Family

Dec, 25, 2011

NQT


Thơ Mỗi Ngày

TREATISE ON EMPTINESS

 

In a bookstore I accidentally ended up at the section on Tao, or
more precisely, by the Treatise on Emptiness.
I rejoiced, since that day I was perfectly empty.
What an unexpected meeting-the patient finds the doctor,
the doctor doesn't speak.

Adam Zagajewski

Luận về Lủng

Trong một tiệm sách, vào lúc tính chuồn, tôi thấy mình ở khu Tao,
hay chính xác hơn, vớ được cuốn Luận về Lủng.
Tôi sướng điên lên, thế là từ nay mình hoàn toàn trống rỗng.
Đúng là 1 cuộc gặp gỡ không chờ đợi –
Bịnh nhân kiếm thấy bác sĩ,
Bác sĩ đếch thèm phán! 

Hà, hà!

STAGLIEND

Don't linger in the graveyard
where the nineteenth century, dusty, charmless,
still repents; you'll be received
by doctors in stucco frock coats
buttoned to the throat, in stone cravats,
stone barristers with stony, slightly mournful
smiles (duplicity has outlived itself).
You'll be received by patresfamilias, professors
and children, marble children, plaster dogs,
always flawlessly obedient.
You'll see the past, meet
your older brothers, glimpse
Pompeii, submerged
in time's gray lava.

 STAGLIEND

Đừng nấn ná ở nghĩa trang
Nơi thế kỷ 19, bụi bặm, chẳng có tí quyến rũ
Vưỡn ân hận; bạn sẽ được đón nhận
bởi những bác sĩ mặc áo choàng stucco bằng vữa
nút áo tới tận cổ
thắt cà vạt bằng đá
những luật sư bằng đá, với nụ cười đá, hơi ảm đạm, ra cái điều ân hận,
[sự nhập nhằng tự nó sống dai]
Bạn sẽ được tiếp nhận bởi những vị chủ gia đình La mã, những giáo sư,
Và những đứa trẻ, những đứa trẻ bằng cẩm thạch, những con chó bằng thạch cao, luôn luôn
ngoan ngoãn không một vết trầy.
Bạn sẽ nhìn thấy quá khứ
Gặp những người anh lớn tuổi, nhìn thoáng thấy
Thành phố Pompeii chìm,
Vào thời dung nhám xám 


TWO-HEADED BOY

The fifteen-year-old boy carried a kitten inside
his dark blue windbreaker.
Its tiny head turned,
its large eyes watching
everything more cautiously
than human eyes.

Safe in the warm train,
I compare the boy's lazy stare
to the kitten's pupils,
alert and narrow.

The two-headed boy sitting across from me
made richer by an animal's unrest.

Adam Zagajewski

Đứa bé có hai cái đầu

Đứa con trai 15 tuổi mang theo 1 con mèo
ở bên trong cái áo khoác màu xanh đậm chống gió
Cái đầu con mèo cựa quậy
Đôi mắt của nó chăm chú theo dõi
mọi chuyện một cách rất ư là cẩn trọng
hơn là mắt người

An toàn trong toa xe ấm áp
Tôi so sánh cái nhìn lơ đãng, lười biếng của đứa trẻ,
với của con mèo,
cảnh giác, và tỉ mỉ,
Và thấy là khoảng cách giữa đứa bé và tôi
trở trên giầu có hơn lên rất nhiều
nhờ sự náo động của con vật.

*

*

Chúc Mừng Noel
Richie & Jennifer

Happy Christmas

Noel 2011

You who were born this night
To tear us from the Devil’s might

- TRADITIONAL POLISH CAROL

Đấng sinh ra đêm nay
Để kéo chúng ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Đồng dao Ba Lan
[Czeslaw Milosz trích dẫn]

Whoever considers as normal the order of things in which the strong triumph, and the weak fail, and life ends with death, accepts the devil's rule.
Kẻ nào coi trật tự sự vật, như là bình thường, theo đó, kẻ mạnh thì thắng, kẻ yếu thì thua, và đời thì chấm dứt bằng cái chết, kẻ đó chấp nhận luật của Quỉ.

Czeslaw Milosz


Thiên hà ngôn tai?
Khổng Tử

“That every question possessed a power that did not lie in the answer. Man raises himself toward God by the questions he asks Him. He was fond of repeating”
Elie Wiesel: Night

Mọi câu hỏi có trong nó quyền năng không nằm trong câu trả lời. Con người nâng nó lên về Chúa bằng những câu hỏi mà nó hỏi Người. Và con người hài lòng lập đi lập lại
[Trích từ bài viết “Steiner’s Fiction and the Hermeneutics of Transcendence”, trong “Reading George Steiner”, The Johns Hopkins University Press.]

chúng ta cần. (và) giáng sinh

những bóng. đèn con treo. đầy
khu shopping bóng. lộn
đồ. chất đầy. ụn
ai. cũng tất bật. vội vã
cười. nói. big sale
đứa bé gái. đứng giữa. khu shopping
trông lạ. cái chuông nhỏ. reo. vang
em cứ thầm thì. với mùa. lễ hội
tôi xa. vắng
những chiếc. xe hơi. nghẽn
trong khu shopping. chật ních
họ. merry chrismas. và xin. tiền
em cười. bầy con nít. ngất ngây
tiếng ca chim sẻ. ríu rít. mùa đông
họ. đang nói về mùa. bầu cử
trong năm tới. chiếc áo khoát
thất nghiệp. không đủ. ấm
có lẽ vậy. khói thuốc bay. nồng
mùi. giáng sinh
cả một năm. đi. làm
không gặp lại. người thân
đã một năm
tóc. đã bạc thêm. em. có thấy
đừơng nét nổi. trên những bàn tay. khuôn mặt
cái lạnh. ẩn núp. dưới xương. tủy
những đứa. loai choai. cặp kè
trông. chẳng muộn phiền. gì
cũng như. chúng mình. lúc trước
chúng đợi. giáng sinh. về
chúng đợi. những ngày. nghỉ
chúng đợi. những hôp. quà
chúng có. đầy ắp tình. iêu
gió lạnh. em. cắn môi đến. bật máu
ngày xưa. con dốc trượt. dài với tuyết
anh tìm. bàn tay. trong bóng tối
đốt sáng. bằng nụ. hôn
rối xa. đến vô cùng
ngây dại. buồn thê
mùa đông. tiếp. mùa đông
và em. phục sinh
và giáng sinh. về. đôi môi. đỏ
màu xám chì. trên bầu trời
ngày. dù ảm đạm
chiếc xe. vụt trên xa. lộ
tìm đường. về
trái tim. bỏ. ngỏ
tuyết trắng rơi. thay. cho lông ngỗng
mỵ châu. nhỏ nhoi. giữa bầu trời
xa. lạ. và tuyết. tan
thành. những giọt nước. mắt
tiếng chuông. chênh vênh
gọi. mùa giáng sinh
anh. gọi. em
cái chớp. mắt thời gian xa. vợi

Đài Sử

Trang thơ Noel 2011

*

Apollinaire: Zone
Bản dịch tiếng Anh của Beckett

Sáng nay tôi nhìn thấy 1 con phố thật đẹp mà tôi quên mất tên
Đây là con phố trẻ mà tôi là 1 thằng bé
Chúa chết Thứ Sáu và sống lại bữa Chúa Nhật


*

Rough Outline

The famous torturer takes a walk
Whom does he see standing there in the snow
A pretty girl in a wedding dress
What are you doing out there all alone in the cold 

You're the famous torturer much feared
I beg you to spare my love
Who is in your darkest prison cell
I wish to marry him etc. 

I will not give back your bridegroom
He must be tortured tonight
By me personally
You can come along and help him lament his fate 

She remained where she was
The night was cold and very long
Down by the slaughterhouse a, dog-like creature howled
Then the snow started to fall again

Charles Simic
 

Nan Đề

Tên tra tấn nổi tiếng làm 1 cú tản bộ
Ai đứng ngoài tuyết kia?
Một cô gái đẹp trong chiếc áo cưới
Làm sao mà đứng giữa trời tuyết một mình cô em?

Ông là tên tra tấn nổi tiếng và ai cũng rất sợ
Tôi năn nỉ ông tha cho người yêu của tôi
Đang nằm trong phòng giam âm u
Tôi mong được kết hôn với anh ta, vân vân và vân vân

Ta sẽ không trả lại chú rể cho cô bé đâu
Tối nay nó sẽ bị tra tấn
Cô có thể tới coi
Và giúp anh ta than thở số phận của mình

Cô gái đứng đó, nơi cô đứng đó
Đêm thì lạnh và thật là dài
Ở bên dưới phố, Phượng Trong Thành Nội,
kế bên căn nhà đ
ồ tể
một con vật giống như 1 con chó sói
tru lên.
Và tuyết lại bắt đầu đổ xuống

LINDENS

 
So much sweetness-
the city's been anesthetized;
a skinny boy, who barely
takes up space on earth,
and a dog,
and I, a soldier in an unseen war,
and a river I love.
The lindens bloom.

Đoan

Ngọt quá –
Thành phố lịm đi
Một đứa trẻ gầy gò, vừa mới ló ra với đời
Và một con chó
Và tôi, một tên lính trong 1 cuộc chiến không nhìn thấy
Và 1 con sông mà tôi yêu
Đoan nở rộ

SEPARATION


I read almost with envy my contemporaries' verse:
divorces, partings, wrenching separations; anguish, new beginnings, minor deaths;
letters read and burned, burning, reading, fire, culture,
anger and despair-the very stuff of potent poems;
stern verdicts, mocking laughter of the lofty moralists,
then finally the triumph of the all-enduring self.

And for us? No elegies, no sonnets about parting,
 a poem's screen won't rise between us,
apt metaphors can't sever us,
the only separation that we don't escape is sleep,
sleep's deep cave, where we descend alone
-and I must keep in mind that the hand
I'm clasping then is made of dreams.

 Xa cách

Tôi đọc mà phát thèm thơ những người cùng thời:
Ly dị, bỏ đi, đau đớn mỗi người một ngả
Nhức nhối, khởi đầu mới, chết lãng xẹt;
Thư đọc, và đốt, cháy, đang đọc, lửa, văn hóa
giận dữ và chán chường - bảnh nhất thì cũng chỉ tới cỡ đó, thứ thơ ca mãnh liệt;
những lời tuyên án nghiêm khắc, cái cười chế nhạo của mấy đấng đạo đức kiêu căng
Và sau cùng là sự chiến thắng của cái tôi to tổ bố, vừa dai vừa dài vừa dở như hạch.

Và cho chúng ta ư? Không bi khúc, ai điếu, không trường đình, đoản đình tiễn biệt
Màn hình bài thơ không hiện ra giữa chúng ta
ẩn dụ oách hay không oách chẳng thể phục vụ chúng ta.
Cú chia cách độc nhất mà chúng ta không thể trốn thoát là… ngủ.
Cái hang sâu hoắm của giấc ngủ, nơi chúng ta xuống, một mình -
Và luôn tỉnh táo, ghi vô trong đầu, cái bàn tay
[Ở trong rạp xi nê, bữa trước khi đi trình diện
Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung]
Cái bàn tay mà Gấu cầm bữa đó,
thì làm bằng những giấc mộng.


Chúc vui, khỏe, và thanh thản trong mùa lễ cuối năm .
Và gởi bài thơ cho GNV :

Đọc giữa hai hàng chữ

Hình như lúc em được tượng hình
Thượng Đế đang ngồi nhìn mông mênh
Lỡ tay đánh vỡ đôi mắt ngọc
Đành nhặt sương đôi hạt rơi quanh

Mắt em từ đó chẳng bao giờ
Nhìn cho thật rõ với người ta
Trần gian bỗng trở thành thi vị
Những hình, những bóng nhẹ nhàng qua

Thuở bé mẹ dắt tay cổ tích
Trong vườn đâu thấy những gai đâm
Đâu thấy sâu nằm trong tơ kén
Chỉ thấy hoa và bướm bâng khuâng

Anh cứ viết mực màu đen mướt
Chữ kẽm gai trên giấy đỏ tươi
Cứ việc nhắc những ngày lạnh buốt
Qua mắt em chỉ thấy mặt trời.

K

Tks. NQT


Date: Sun, 12 Sep 2010 16:48:26 -0700

Dear GNV,

How have you been? I hope you enjoy your vacation and take care.
Bac Gau oi, dung lien luy nhieu voi cay viet khac.
Enjoy your works, your life and family.
Your readers and your family need you and are more important.
Soon,

H/A

Take Care.
Merry Christmas to U and Family

Dec, 25, 2011

NQT


Bên sông chiều mưa tới
Bên ta cụm khói rời
Sau lưng ngày con gái
Môi son đừng biếng lười

Merry Christmas and Happy New Year to CM


NTK's


Thơ Mỗi Ngày

Tưởng Niệm Bùi Giáng

Trả lời tờ The Paris Review, tại sao ông bực mình cái chuyện “chúng” cho in những bản nháp của Hoang Địa của Eliot, thi sĩ Auden trả lời:
-Bởi vì không có dòng nào mà ông viết ra khiến một người nào đó mong ước, là ông muốn giữ lại dòng thơ đó. Because there’s not a line he left out which makes one wish he’d kept it.
Áp dụng vào trường hợp “chúng” in “Đười Ươi” mà coi là “Chân Kinh”, của BG, thì cũng rứa.
Auden chửi “chúng” tiếp:
Tôi nghĩ thật nhục nhã xấu hổ mọi người bỏ ra nhiều cho 1 bản nháp hơn là cho một bài thơ hoàn tất: “ I think it shameful that people will spend more for a draft than for a completed poem."


Holzwege:

.... Dans la forêt, il y a des chemins qui, le plus souvent encombrés de broussailles, s'arrêtent soudain dans le non-frayé.
On les appelle Holzwege.
Chacun suit son propre chemin, mais dans la même forêt.
Souvent, il semble que l'un ressemble à l'autre. Mais ce n'est qu'une apparence.
Bûcherons et forestiers s'y connaissent en chemins. Ils savent ce que veut dire: être sur un Holzweg, sur un chemin qui ne mène nulle part Trong rừng, có những con đường cồng kềnh, chằng chịt với những bụi cây, khi không khựng lại không sao nhúc nhích.
Người ta gọi là Holzwege.
Mỗi người con đường của riêng mình, nhưng cùng 1 khu rừng.
Thường là con đường này giống con đường kia. Nhưng đó chỉ là bề ngoài.
Mấy đấng tiều phu, mấy ông kiểm lâm rất rành chuyện này. Họ biết “ở trên một Holzweg”: ở trên 1 con đường chẳng dẫn tới đâu


January-22-10 4:55:05 AM
Kính gởi Gấu Nhà Văn,
Tôi được đọc bài thơ "Biển" cuả ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng ông hình cuả "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trang Tin Văn cuả ông thật bổ ích và thú vị. Chỉ có điều tôi không biết cái index, map cuả website Tin Văn như thế nào, vì trong "Nhật Ký" chỉ lưu từ 2003 đến 2007, mong ông chỉ cho. Tôi nhiều khi bị lạc vì các ngã ba ngã tư trong bài, nhưng lại bắt gặp thêm nhiều kỳ thú.

Chân thành cảm ơn ông.

Xuân

Tặng BG

Vẫn thấy trong mơ đời trở giấc
Cỏ cây rù quyến gió hoang đàng
Trời xanh cao vút giếng nước ngọc
Đất hiền thở hương nắng thênh thang
1976

TTT: Thơ Ở Đâu Xa 

Note: 1976, sau 1975  một năm.

V/v. Những con đường rừng

Đọc "Note préliminaire", bản dịch tiếng Pháp:

Cái tít tiếng Đức của tác phẩm này là Holzwege. Cái tít thì quá mờ hoặc. Cái nghĩa đầu tiên của Holzweg đúng là “con đường” (Weg) ăn vào “rừng” (Holz) để mang củi (gỗ được chặt, cắt, bois coupé (Holz) – như vậy nghĩa đầu tiên là “con đường rừng”, nghĩa này vẫn còn được sử dụng vào những ngày của chúng ta...


Date: Sun, 11 Jul 2010 12:38:54 -0700

Không những viết rất hay về Nguyễn Tuân, GNV còn viết rất hay, tuy không dài, về Bùi Giáng.
Một phận người yêu thương và ngậm ngùi...
Tks
NQT

Sau khi tìm ra bài thơ này in trong tập “Mưa nguồn” của thi sĩ “khét tiếng” họ Bùi, tôi gặp nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và đọc lại cho ông nghe. Tuy Hoàng Phủ Ngọc Tường nói chưa được rõ lắm, nhưng tôi nghe lời nhận xét của ông về bài thơ này, đại ý: “Đây là một bài thơ tóm gọn hiện tượng luận của Heidegger trong quyển Những con đường rừng: khách thể (ở đây là chân lý) có đặc điểm cởi mở (sẵn sàng để được nhận thức) và chủ thể thì hiểu bằng sự thông cảm. Hình như Bùi Giáng thích hiện tượng luận của Heidegger hơn là thuyết hiện sinh của J-P Sartre. Chả thế mà trong một cuốn sách viết về Heidegger (in năm 1963), Bùi Giáng đòi dùng roi quất J-P Sartre “để cho nó biết thế nào là triết học”, và khi có người chê quyển sách ấy thì Bùi Giáng đến sớm gõ cửa đòi đánh nhau”!

Ngậm ngùi.

GCC nhìn thấy BG, lần đầu tiên, khi ông đứng bên kia đường, tính qua đường, ghé quán cà phê, và bà vợ của vị chủ quán chạy xe qua mặt ông, cũng ghé quán. Ông đưa tay vỗ vào sau lưng bà chủ quán, và cũng là vợ 1 người bạn, cũng thi sĩ.
Đó là lần đầu tiên GCC hân hạnh được uống cà phê với ông. Gấu nhớ tới lần viết bài cho Thời Tập của Viên Linh, hình như là về Quang Dũng, cũng dân Sơn Tây như Gấu, và Gấu có đưa ra 1 nhận xét, người ta chỉ làm thơ khi còn nhỏ, vừa mới lớn, và khi về già, làm gì có thứ trung niên thi sĩ.
Gấu lúc đó không biết BG có cái nick là “trung niên thi sĩ”. Gấu nghe kể lại là, sau đó BG đi kiếm VL, tính hỏi tội, và, tất nhiên, qua VL, hỏi tội thằng viết bài.

BG làm thơ nhiều quá, dễ quá, cho nên có nhiều đấng coi thường thơ của ông. Nhưng đó là chuyện sau này. Khi ông làm “Mưa Nguồn”, thì quá bảnh, quả đúng là thi sĩ.

Nhân đây, nhớ ra, không phải tự nhiên mà GCC mò số báo cũ, có bài thơ về lần vượt biển tại Vàm Láng, ra tới cửa biển Vũng Tầu bị gặp bão, máy chết, nhờ vậy mà thoát chết, bởi vì nếu ra xa quá, là hết dạt vô bờ, được công an biên phòng tóm, cho đi tập trung cải tạo hai niên ở Trại Bà Bèo.

GCC kiếm số báo trên, để đọc bài viết của Charles Smic về Elizabeth Bishop. Theo Simic, Bishop làm thơ đã ít, mà in thơ lại càng ít, bà là 1 người cầu toàn, a perfectionist, chữ của Simic.
Ông viết: Bà chưa từng cho in 1 bài thơ tồi. She never published a bad poem.
Như bà trả lời 1 cuộc phỏng vấn, bà sửa soạn để đợi 40 năm, cho 1 bài thơ, để hoàn tất nó [trong túi luôn có 1 bài thơ đang làm dở, như Cô Tú phán], bởi vì một nhà thơ tốt chẳng bao giờ phải vội vã [since no good poet can afford to be in a rush].

Khi BG làm Mưa Nguồn, ông chưa điên. Sau đó, ông điên, và đa số thơ ông làm vào thời kỳ này, dở. Người ta cứ thổi cái sự điên của ông, nhưng điên làm hỏng ông.

Ngậm ngùi còn là như vậy nữa.
Cái gì gì "Đười ươi chân kinh"?
Nhảm vừa vừa thôi.
NQT

*

The art of Elizabeth Bishop

Poetry in paint

Elizabeth Bishop’s Other Art

Cũng vô lý như làn kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình
Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa
Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng
Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa
Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư vô. 

Đọc một lần, đọc hai lần những câu thơ ấy của Bùi Giáng, ai có thể cả quyết ông nói tới điều gì?
NDT

Bài thơ trên, nếu đừng cố tìm nghĩa của nó, thì lại nhận ra nghĩa của nó!

Nó "tự nhiên" vô cùng.

Và đây cũng chính là thơ của E. Bishop, như chính thi sĩ khẳng định, qua Simic:
What she most admired in poetry was the naturalness of tone. "It takes great skill to make it seem natural," she said. She was never afraid of sounding flat, trusting ordinary words to make sublime poetry. Điều mà bà mê nhất trong thơ là sự tự nhiên của giọng. Phải cực có tài mới làm được điều này, làm cho nó tự nhiên. Bà chẳng hề sợ thơ của bà có vẻ sến, và tin cậy ở những từ bình thường để làm thơ siêu thoát, cao cả.

Mong ước của Bishop cũng có thể là mong ước của BG [ông đâu muốn trở thành trò hề "Đười Ươi Chân Kinh"]:

When you write my epitaph, you must say I was the loneliest person who ever lived," she told Robert Lowell in 1948.
Khi anh viết câu đề trên mộ của tôi, anh phải nói, tôi là 1 người cùng cực cô đơn đã từng sống ở trên đời này.

Nếu để ý đến cái trò hề người đời xưng tụng ông, thì BG quả là 1 người cùng cực cô đơn.
NQT

The Power of Reticence
Quyền uy của sự Kiệm lời

Charles Simic

Edgar Allan Poe & The Juke-Box:
Uncollected Poems, Drafts, and Fragments

by Elizabeth Bishop,

edited and annotated by Alice Quinn. Farrar, Straus and Giroux, 

367 pp., $30.00
....

When you write my epitaph, you must say I was the loneliest person who ever lived," she told Robert Lowell in 1948. Elizabeth Bishop's life started with a double tragedy. Born in Worcester, Massachusetts, on February 8, 1911, she lost her father when she was eight months old. He had been an executive in a construction company founded by his own father. Her mother, who came from Canada, never recovered from the shock and was committed to a sanitarium when Elizabeth was four. She never saw her again. From the ages three to six, she lived in Great Village, Nova Scotia, with her maternal grandparents, and then from 1918 to 1927 in various suburbs of Boston with her mother's older sister, who was married but childless. Kept from school often by asthma, eczema, St. Vitus's dance, and various nervous ailments, she was primarily educated at home until at the age of sixteen she was enrolled at the prestigious Walnut Hill School for Girls in Natick where she published her first poems in a student magazine.

It is marvelous to wake up
                together
At the same minute; marvelous to
                hear
The rain begin suddenly all over
               the roof,
To feel the air suddenly clear
As if electricity had passed
               through it
From a black mesh of wires in the
              sky.
All over the roof the rain hisses,
And below, the light falling of
              kisses.

An electrical storm is coming or
              moving away;
It is the prickling air that wakes
               us up.
If lightning struck the house now,
             it would run
From the four blue china balls on
              top
Down the roof and down the rods
             all around us,
And we imagine dreamily
How the whole house caught in a
            bird-cage of lightning
Would be quite delightful rather than
          frightening;

And from the same simplified
         point of view
Of night and lying flat on one's
         back
All things might change equally 
         easily,
Since always to warn us there
        must be these black
Electrical wires dangling.
       Without surprise
The world might change to
        something quite different,
As the air changes or the
        lightning comes without our
        blinking,
Change as the kisses are changing
        without our thinking. 

What she most admired in poetry was the naturalness of tone. "It takes great skill to make it seem natural," she said. She was never afraid of sounding flat, trusting ordinary words to make sublime poetry. There are a few awkward lines in this untitled poem that she may have wanted to fix, but most likely she kept it out of her first book because of its subject matter. It may not have mattered or been clear to the reader that this was a lesbian love poem, but it apparently did so to Bishop, who censored herself, being still uncertain about her sexual inclinations at the time. It was written, according to Alice Quinn's detailed and invaluable notes, either in the late 1930s for Louise Crane, a college friend, or for Marjorie Stevens, a woman she was living with in Key West between 1941 and 1946. A notebook from this period and a typed copy of the poem were given to a Brazilian friend who read no English and it was not discovered until the American poet and scholar Lorrie Goldensohn visited Brazil in 1986 and met the woman while doing research for her book on Bishop.

Thật là tuyệt cú mèo khi thức dậy, cùng nhau,
Cùng 1 phút; tuyệt cú mèo khi nghe
Mưa bất thình lình rơi trên mái tôn
Ngửi thấy mùi không khí bất thình lình sạch ơi là sạch
Như thể điện chạy qua nó
Từ mạng dây đen trong bầu trời
Suốt mái tôn mưa rả rích
Và để rớt xuống bên dưới một đợt hôn nhè nhẹ


*

NYRB April 27, 2006

Tình cờ đọc bài thơ trên, trong 1 số báo cũ.
Làm nhớ phép lạ đêm 23 Tết, ở ngọn hải đăng Vũng Tàu  (1)

(1) Viết là Khiếp

Đêm 23 tháng Chạp, năm 1985, cùng lúc với ông Táo chầu trời, trên một chiếc tầu vượt biển sắp sửa chìm gần ngọn hải đăng ở cửa biển Vũng Tầu, có một ông già bị cậu thanh niên đứng kế bên lầm là người yêu của anh.
Quá khiếp đảm trước cái chết có thể xẩy tới bất cứ lúc nào, cậu thanh niên điên cuồng vò đầu, vò tai người yêu, tức ông già, lảm nhảm những lời hoảng loạn. Tuy đang bận tâm vì một chuyện khác, ông già vẫn nhận ra, nước biển mặn, lạnh buốt, còn nước mắt của cậu thanh niên, mặn, nóng hổi, rát hằn một bên má. Những cột nước như từ trên trời đổ mãi. Con thuyền chúi sâu xuống khoảng không đen, sâu thẳm, rồi bị đẩy bắn lên cao, chót ngọn sóng.
Ông già đang nhớ lại những lần chết trước đó.

Kiểu Cổ

Tôi nhớ một bức họa cổ, được vẽ rất ư là chi li, tỉ mỉ.
Bị một con cá voi nuốt, một người đàn ông nhỏ con, mặc áo cà sa, ngồi trong bụng cá, ở 1 cái bàn nhỏ, có một ngọn đèn dầu.
Nhưng thỉnh thoảng, con cá mập bị đói. Và đây là bức họa thứ nhì.
Một lượng nước lớn lao từ cổ họng con cá voi ào vô bụng, trong có 1 lượng cá nhỏ.
Cái bàn với cây đèn dầu bị lật đổ, người đàn ông nhỏ con hụp lặn, vùng vẫy chống lại bức tường trơn trượt là 1 khối lượng khổng lồ ở trong bụng con cá voi.
Khi sóng rút đi, ông ta đặt cái bàn cho ngay ngắn trở lại, treo cây đèn lên, và bắt đầu làm việc.
Có lẽ ông ta đang nghiên cứu Cựu Ước? Có lẽ ông ta nghiên cứu những bản đồ?
Một người vượt biển, vào mùa biển động, may mắn thoát chết một cách kỳ diệu như ông ta, thì sẽ quan tâm đến cái sự gì ở trên đời, nhỉ?

GCC thường nghĩ đến mấy bức họa cổ đó, khi, hằng đêm, xếp mấy cuốn sách đang đọc dở lên bàn, để viết Tạp Ghi cho trang Tin Văn, sau khi đã cài cửa ngõ rất ư là cẩn thận!

*

*

Thì thầm muộn trong đêm từ Ba Lan

Note: Charles Simic điểm mấy cuốn mới ra lò của ba nhà thơ Ba Lan, trên NYRB, Dec 22,  2011.

Đọc câu sau đây, mà chẳng sướng & tủi sao?

It is truly remarkable how many fine poets Poland has given to the world in the last century. This is an extraordinary accomplishment for a country used as a short cut in two world wars by both German and Russian invading and retreating armies, who, in addition to redrawing its borders repeatedly and occupying it for years, slaughtered millions of its citizens and deported others. Perhaps, as Czeslaw Milosz speculated back in 1965, in the preface to his much-admired anthology Post-war Polish Poetry, a poet crawling out from under the historical steamroller is better prepared to assume the tasks assigned to him than his colleagues in happier countries. For us, he said, "history is extremely real. It may not be to American poets, but for us it is very, very much a part of reality."

This sounds plausible, although as Milosz himself noted elsewhere, only a small percentage of human suffering ever gets into literature, while most of it disappears without a trace. Many nations that had undergone similar horrors have remained comparably mute afterward, so the vitality of Polish poetry must be due to many other factors besides its history. Nevertheless, even a cursory look at the lives of the three poets under review here leads one to the inescapable conclusion that the despair and moral outrage provoked by what happened to their nation were decisive for each of them.

Thực sự đáng kể, là con số khá nhiều nhà thơ tuyệt vời Ba Lan đã đến với thế giới trong thế kỷ vừa qua. Quả là 1 thành tựu lạ kỳ của một xứ sở được coi như là một “short cut” [đường cắt ngắn, lối đi tắt…] giữa hai cuộc thế chiến, bởi cả hai quân đội Đức và Nga, xâm lăng, rồi rút lui, và, không chỉ vẽ lại bản đồ biên giới, và chiếm giữ đất nước trong nhiều năm, mà còn làm thịt hàng triệu người Ba Lan, tống xuất, lưu đầy hàng triệu người Ba Lan khác. Có lẽ, như Czeslaw Milosz phán, vào năm 1965, trong lời tựa cho 1 tuyển tập thơ của ông, rất được ái mộ, Thơ Ca Hậu Chiến Ba Lan, một nhà thơ bò lồm ngồm ra khỏi đáy của con tầu lịch sử, thì đúng là đã được sửa soạn đầy đủ, thông tri đầy đủ… để đóng cái vai nhà thơ, và thi hành OK những trách nhiệm được trao cho anh ta, hơn là ba thứ cà chớn khác, tức những đồng nghiệp văn hữu, thi hữu của anh ta, ở trong những xứ sở hạnh phúc hơn. Đối với chúng ta, ông [Milosz] nói, “lịch sử thì thực cực kỳ thực. Điều này chưa chắc đã đúng, đối với những nhà thơ Mẽo, thí dụ, nhưng đối với chúng ta [những nhà thơ Ba Lan], nó quá đúng, quá đúng, là 1 phần của thực tại”.

Nghe thì có vẻ thật là bùi tai, nhưng cũng lại chính Milosz, ở 1 chỗ khác, phán, chỉ một phần trăm rất nhỏ của nhân loại đau khổ cực kỳ may mắn được bò vô văn chương, thơ ca, trong khi đa số, hoặc hầu hết nhân loại, biến mất, chẳng để lại 1 tí dấu vết. Rất nhiều quốc gia trải qua rất nhiều đau thương tang tóc, kinh hoàng, man rợ… tương tự như Ba Lan, nhưng mà sau đó trở thành câm, hoặc cả nước bị Sáu Dân, Tấn Dũng…  bịt miệng, thành thử cái chuyện thơ ca bảnh tỏng như Ba Lan hậu chiến có thể còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác, ngoài yếu tố lịch sử của nó.
Mặc dù vậy, chỉ một cái nhìn thoáng qua cuộc đời ba nhà thơ Ba Lan được đề cập tới ở đây, là ngộ ra liền tù tì, là có ngay 1 kết luận không thể chệch đi đâu được: Sự chán chường, và sự vi phạm đạo đức, về những gì xẩy ra cho đất nước của họ, là yếu tố quyết định đối với mỗi một người trong cả ba.

What can poetry say?
Thơ để làm cái chó gì?
Thơ nói đư
ợc cái chó gì?

THEODOR ADORNO hiển hách phán, vào năm 1951, rằng, làm thơ sau Auschwitz thì “dã man”. Tuy biết thừa đi rằng thì là chữ thì ra cái chó gì, đâu có làm chết nổi ai, nhiều thế hệ những nhà thơ sau đó vưỡn làm thơ, vưỡn sử dụng chữ để diễn tả "điều không thể".
“Thơ ca và Nhà nước”, một sự kiện xẩy ra vào ngày 20 Tháng Chín cũng bị ám ảnh bởi vấn đề này:
Làm thế nào đưa vào chữ những sự kiện làm bạn...  á khẩu?
Nẩy ra từ sáng kiến "Thi sĩ trong thành phố", được tổ chức bởi tạp chí “Thơ hiện đại trong dịch thuật”, và Ân xá Quốc tế, đêm thơ trên nhắm chứng tỏ chỗ đứng của thơ trong việc “đưa ra một lời phán trước công chúng, có tầm vóc phổ cập”. Năm nhà thơ xuất hiện trong buổi lễ  thì đều mắc míu với nhau, cách này cách khác, qua những động cơ nhân đạo: Timothy Allen, một cựu nhân viên của 1 cơ quan cứu trợ, Zuzanna Olszewska, chủ trì những nghiên cứu nhân chủng học với những phụ nữ tị nạn Afghan; Carlos Reyez Manzo, thi sĩ thường trú đầu tiên của Amnesty, đã từng sống sót tra tấn dưới thời Pinochet ở Chile.
Toàn những lý do nhân đạo, thành ra thật khó mà chỉ trích! Chưa kể những khoảnh khắc tưng bừng, "nổi lửa đi em", khi nghe đọc thơ, thí dụ, những dòng thơ tù, bằng tiếng Mít của Bác H. được Mr. Allen dịch qua tiếng Anh: Nay thì trong thơ phải có thép/ mỗi dòng thơ là 1 hành động kháng chiến, chống lại – tuy nhiên trên mức độ trọn gói, buổi đọc thơ kể như hỏng.
Ngày hội thơ cho thấy, có vẻ như những nhà thơ được chọn lựa, thì là do những vấn đề mà họ viết, hơn là họ làm thơ bảnh như thế nào!
Thất bại của ngày hội thơ, là do thiện ý của nó, muốn trình ra 1 cái nhìn t
ự mãn, hài lòng về thơ, một liên hệ giữa thơ và chủ nghĩa nhân đạo, rằng, thơ thì tốt, OK, ngon cơm, và là 1 sức mạnh, trước những đề tài đa dạng, nào là Thơ Tù của Bác H, nào là Pinochet…
Thơ  như là 1 cõi tâm, một môi trường dễ chịu, đưa con người lại mí nhau,…
as an inherently ethical or comforting medium that brings people together.
Nhưng nếu thơ tốt, chỉ đến mức như thế, thì làm sao dung nổi những người làm thơ, chẳng vì lý do gì?
Thơ chẳng hiểu tại sao?
Thơ, những con đường rừng, chẳng dẫn tới đâu: Chemins qui ne mènent nulle part [Heidegger]? (1)
But in doing so, the evening undermined the power of any one poet to say much of anything:
Nhưng làm như thế, là tụi mi coi thường quyền uy của bất cứ một nhà thơ, nói rất nhiều, về bất cứ 1 chuyện gì, dù cà chớn tới mức nào!

(1)

*

Tôi thấy người mừng rỡ xiết bao
Trời xanh hơn lá ở trên cao
Con chim nhảy nhót trên cành nhánh
Người nắm tay tôi rủ bước vào 

Ngôi nhà người dựng giữa rừng xanh
Cửa gió bằng cây có nhánh cành
Để kiếp sơ sơ và cũng để
Mở mời anh chị bước vào nhanh 

Hôm nay tôi kiếm củi trong rừng
Lạc mất đường về chợt bỗng dưng
Sực nhớ rằng đây, rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng.

Sau khi tìm ra bài thơ này in trong tập “Mưa nguồn” của thi sĩ “khét tiếng” họ Bùi, tôi gặp nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và đọc lại cho ông nghe. Tuy Hoàng Phủ Ngọc Tường nói chưa được rõ lắm, nhưng tôi nghe lời nhận xét của ông về bài thơ này, đại ý: “Đây là một bài thơ tóm gọn hiện tượng luận của Heidegger trong quyển Những con đường rừng: khách thể (ở đây là chân lý) có đặc điểm cởi mở (sẵn sàng để được nhận thức) và chủ thể thì hiểu bằng sự thông cảm. Hình như Bùi Giáng thích hiện tượng luận của Heidegger hơn là thuyết hiện sinh của J-P Sartre. Chả thế mà trong một cuốn sách viết về Heidegger (in năm 1963), Bùi Giáng đòi dùng roi quất J-P Sartre “để cho nó biết thế nào là triết học”, và khi có người chê quyển sách ấy thì Bùi Giáng đến sớm gõ cửa đòi đánh nhau”! 

Thì ra nhiều bài thơ “lơ ngơ” của Bùi Giáng lại thấm đẫm tinh thần triết học.
Các nhà phê bình thường kêu thơ ta ít tính triết học, và thiếu vắng những tư tưởng lớn. Tôi nghĩ, đọc lại thơ Bùi Giáng, phần nào chúng ta sẽ trả lời được câu hỏi đó.

Blog NTT

Hình như HPNT có tí lầm ở đây.
Heidegger và Sartre là cùng 1 nguồn, hiện sinh. (1)
Có thể nói, do đọc Heidegger [Hữu Thể và Thời Gian] mà Sartre viết Hữu Thể và Hư Vô, L'Être et le Néant].

Hiện tượng luận là của Husserl.
Bởi thế, khi vinh danh bạn mình là Merleau-Ponty, Sartre đã than thở, trong khi tôi loay hoay mò mẫm với hiện sinh thì bạn tôi đã bước qua hiện tượng luận rồi.

Hơn nữa, đọc bài thơ của BG, thì không thể nói là, nó ấm ớ liên quan tới Những con đuờng rừng được!

Nguyên tác, Holzwege:

 .... Dans la forêt, il y a des chemins qui, le plus souvent encombrés de broussailles, s'arrêtent soudain dans le non-frayé.
On les appelle Holzwege.
Chacun suit son propre chemin, mais dans la même forêt.
Souvent, il semble que l'un ressemble à l'autre. Mais ce n'est qu'une apparence.
Bûcherons et forestiers s'y connaissent en chemins.
Ils savent ce que veut dire: être sur un Holzweg, sur un chemin qui ne mène nulle part.

Dịch "Những con đường rừng" [Miền Nam đã từng dịch như vậy] thực sự không đúng. "Những con đường chẳng dẫn tới đâu"

Bài thơ của BG đâu có nghĩa... “chẳng dẫn tới đâu”?

Sực nhớ rằng đây, rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng.

(1)

Heidegger cũng “từ chối” sự mắc míu giữa chủ nghĩa hiện sinh của Sartre, và Être et Temps của ông. Như trong Thư về chủ nghĩa nhân bản, Lettre sur l’humanisme, ông viết, qua trích dẫn của Bernard-Henry Lévy, Thế kỷ của Sartre, Le siècle de Sartre:

La réaction de Heidegger à ces malentendus, et aux autres qui en procèdent, ne se fera guère attendre. Déjà, dans la lettre de 1931 à la Société française de philosophie, il avait coupé court à l'interprétation existentiaaliste de sa pensée par Jean Wahl. Mais, là, face à l'opération sartrienne et à l'écho considérable qu'elle rencontre, il va plus loin encore et sa mise au point est des plus fermes. Il y a les concessions mondaines d'un côté : telle lettre de janvier 1944 où on feint d'être reconnaissant à « un penseur autonome qui connaît à fond le domaine à partir duquel je pense ». Mais il y a l'œuvre, de l'autre, où, tout à coup, on ne plaisante plus. « Tout ceci », disait-il dans le Nietzsche (2), tout cet effort théorique qui portait le titre de Sein und Zeit, était situé, et doit encore être pensé comme situé, « en dehors de la philosophie de l'existence et de l'existentialisme ». Et, dans la Lettre sur l'humanisme : « rien », pas « le moindre point commun» entre ce que j'entendais, dans Sein und Zeit, par « Existenz » et ce qu'entend ce Sartre par « existence ». J'ai dit, dans le paragraphe 9 de mon livre, que « l'essence du Dasein réside dans son existence» ? Oui. Mais « Eksistenz » ne voulait pas dire « vécu », ou « existence» au sens français, mais évoquait « l'homme dans l'Ouvert », la « clairière de l'être dans laquelle il se tient au milieu de l'étant ». Et quant au mot « essence », il était en italique et cet italique changeait tout - il aurait dû interdire à ce jeune littérateur, adepte et ultime héritier de la métaphysique de la subjectivité, de traduire aussi sottement par “l’existence précède l’essence”.

B-H Lévy: Le Siècle de Sartre p.185-186

Bài thơ của BG, quá dễ hiểu, có mắc mớ gì tới triết học ghê gớm chi đâu, và, làm sao mà tóm gọn được hiện tượng luận của Heidegger?
Như trích dẫn cho thấy, giữa mấy đại gia Heidegger, Sartre, Husserl… cũng trùng trùng những ngộ nhận, làm sao mà 1 bài thơ của BG...  tóm gọn nổi?

Vừa vừa thôi. I CAN U. [Tôi xin can mấy ngài. NQT]


 

THE WORLD'S PROSE 

Die Prosa der Welt

-Hegel, of course

 

Imagine a day begun in Le Bon Cafe;
colored newspapers on tables and Aznavour's songs come
drifting from the speakers. A brief moment of attention:
the coquettish French "r" whirls like a child's plaything
within the mighty city, the empire's hub,
and seems about to thaw the winter's queen.
Nervous bureaucrats in narrow suits
gulp scalding coffee, the liquid of oblivion.
Four solitary airplanes circle overhead.

I stand before the picture Rilke talks of:
a family of acrobats has turned up in a desert.
No one's watching, and their many tricks
and songs, concealed in tambourines and supple muscles,
their leaps and jokes all go for nothing here.
They gaze uncertainly, they look around;
the young woman on the far right would like
to leave the painting (she stands apart).
They look around, but what is there to see?

Snow lies around us, covering the architecture of power.
Snow wraps the monumental shapes with slipcases
and even the narrow heads of obelisks have turned white.
Provincial trees breathe quietly beneath the snow,
and fresh leaf buds sleep tight, waiting for a sign.
You pay with life for every moment of snow, for
what is white and what is black, for happiness, for seeing.
The prose of life spreads out around us,
while poetry crouches in the heart's chambers.

Dòng đời

Hãy tưởng tượng một ngày bắt đầu ở Le Bon Café
Những tờ nhật báo màu sắc ở trên bàn,
và tiếng hát lang thang trôi dạt của Aznavour
từ những loa. Nè, hãy để ý, cái âm “r” của Tẩy mới nhõng nhẽo làm sao,
như một thứ đồ chơi của con nít trong thành phố lớn lao, trung tâm của đế quốc,
như làm tan lớp giá băng của nữ hoàng mùa đông.
Những viên chức bồn chồn trong những bộ đồ chật cứng,
Nhấp cà phê nóng bỏng, thứ nước của quên lãng.
Bốn chiếc máy bay cô đơn vần vũ ở trên đầu

Tôi đứng trước bức tranh Rilke nói về:
một gia đình nghệ sĩ nhào lộn ở sa mạc
Chẳng ai thèm nhìn họ,
và rất nhiều những mánh khoé trình diễn, những bài ca,
được giấu ở trong những cái trống, những bắp thịt mềm mại, dẻo dai.
Những cú nhẩy, những câu chuyện tiếu lâm, khôi hài
Tất cả đều vô dụng ở đây
Họ nhìn quanh, lơ đãng;
Một người đàn bà trẻ ở tít xa phiá bên phải,
có vẻ như muốn rời bức tranh (nàng đứng riêng ra).
Họ nhìn quanh, nhưng có gì ở đó đâu?

Tuyết chung quanh chúng ta, che phủ kiến trúc của quyền lực
Tuyết bao đền đài tưởng niệm
bằng những cái hộp,
và ngay cả những cái đầu của những đài tưởng niệm
thì cũng biến thành màu trắng
Cây cối thở im lặng dưới tuyết
Và những chồi lá non ngủ, chật, cứng, đợi dấu hiệu
Bạn trả bằng đời của mình, cho mọi khoảnh khắc tuyết
Cho cái thì trắng, cái thì đen, cái thì hạnh phúc,
cái thì để nhìn ngắm,
chiêm ngưỡng và kính trọng (1)
Dòng đời trải ra chung quanh chúng ta
Trong khi thơ "ngoạ hổ tàng long"
ở trong những căn phòng của trái tim.

(1) Thứ tình yêu Platonique, chiêm ngưỡng và kính trọng...

Tứ tấu khúc

Ui chao, đọc bài thơ thì lại nhớ đến lần đầu, 1994, đến thành phố lạnh, xứ lạnh, tuyết lạnh, bão tuyết lạnh, và cái bàn tay của cô bạn, lấy ra khỏi cái bao tay, ấm thật ấm, bắt tay anh cu Gấu đang run rẩy...

Hà, hà!

Cái cô bạn, cùng ngồi xuồng ngày nào, năm lụt, trong xuồng có đủ khổ đau dành cho 3 người...

Dòng đời trôi quanh ta.
Thật.
Thơ ở trong đầu.
Thật.

Cô bạn thân ơi
Nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi

Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay

Biển

A KING

In memory of Jozef Czapski

 

He was very old. But his spirit held.
Of one acquaintance (old as he) he said:
"That famed Petersburg beauty; observe
her face." He still painted. Lived. Wrote. Thought.

He knew Akhmatova. Spoke with de Gaulle,
Andre Malraux also took note.
Gide (too Parisian) disappointed him.
A penniless count, he helped the poor. 

So tall (and good), as if proud
nature wished to put him on display.
Mary McCarthy once glimpsed him in a crowd
at a museum and jotted down: a righteous man 

Beauty thrilled him. He spoke
more often though of ugliness and pain -
things it seems he scarcely knew
(but how can we be sure?)

What's the moment when divinity appears?
How can we tell, since we always keep it
in the past tense or the future (hopefully!)
We describe it from a distant country, 

where we've been carried by a wild express train
with no stops at that small still station
we call Beauty, a resting place
too modest for its taste. 

But we can talk of ugliness
at length, and pain will still fill
many tomes; our quick sightseeing trip
becomes a humble tortoise city tram. 

His death was long and patient; perhaps those
who rule the earth and play at chess demurred:
should such a splendid upright shape, a king,
be made a horizontal form, a line of print?

Adam Zagajewski

Một Vì Vua

Tưởng nhớ Jozef Czapski 

Ông rất già. Nhưng tinh thần bảnh lắm, cứng lắm, vững như trụ.
Về một mối thân quen [cũng già như ông], ông nói:
“Cái đẹp Petersburg nổi tiếng, hãy quan sát mặt của bà".
Ông vẫn vẽ. Sống. Viết. Nghĩ. 

Ông biết Akhmatova. Nói chuyện với de Gaulle.
André Malraux ngồi loay hoay ghi "notes".
Gide (quá Paris), ông không ưa.
Một vị bá tước không 1 đồng xu, ông giúp kẻ nghèo 

Dáng thật cao (và tốt), như thể thiên nhiên cao ngạo
muốn đưa ông ra trình diễn.
Mary McCarthy có lần thoáng nhìn thấy ông trong đám đông
ở một viện bảo tàng và phán thật là ngắn gọn:
một người đàn ông chính trực 

Cái đẹp làm ông hồi hộp. Tuy nhiên ông nói nhiều về cái xấu và cái đau –
điều mà ông hầu như không rành
(nhưng làm sao chúng ta chắc chắn về chuyện này?) 

Khoảnh khắc, khi tính thần thánh xuất hiện, là gì?
Làm sao chúng ta biết, kể từ khi mà chúng giữ nó
trong thì quá khứ, hay thì tương lai (may mắn thay!)
Chúng ta miêu tả nó, từ một xứ sở xa 

Trong khi chúng ta bị mang đi bằng 1 chuyến xe lửa tốc hành man dại
Đếch thèm ngưng ở một cái nhà ga nhỏ xíu có tên là Cái Đẹp,
Một trạm nghỉ quá tầm thường, khiêm tốn nên đếch hợp với cái gu của nó.

Nhưng chúng ta vưỡn có thể nói về sự xấu xí dài dài,
và cái đau thì cũng được đưa vô trong nhiều chương, hồi, tập;
cuộc cưỡi ngựa coi hoa của chúng ta trở thành 1 chuyến cưỡi rùa dạo chơi thành phố
rất ư là khiêm tốn.

Cái chết của ông thì dài, và kiên nhẫn;
có lẽ những kẻ trị vì trái đất và chơi cờ, lưỡng lự:
Liệu dáng đứng cao sang, tuyệt vời như thế, một vì vua
Có thể trở thành một dáng nằm ngang,
như một dòng mực?
  

Ui chao bài thơ mới tuyệt vời làm sao. Làm Gấu nhớ tới giai thoại một họa sĩ Tầu không hợp lòng vua, bị Cớm đến nhà tính đưa đi cải tạo, bèn đi vô luôn bức tranh của mình! (1)
Ông bạn của thi sĩ như vậy là cũng từ biệt cuộc đời, và biến thành một dòng thơ! (2)

(1)

Hiếm nhà văn được như Borges: ông đi vào truyền thuyết, ngay từ khi còn sống, không như một nhà văn nổi tiếng, mà là một huyền tượng. Trong chuyện Tàu có trường hợp tương tự: Để trốn tránh cơn giận dữ của nhà vua, và cái chết tiếp theo đó, Wang Fo rời cuộc đời, bước vào bức tranh ông vẽ.
Source

(2)

GCC cũng đã từng viết về Nguyễn Tuân, như trên!

Cảnh Huấn Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với viên cai ngục, hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như thế này  phải tìm đất khác để mà tụ lại); chẳng đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực.

Chữ người tử tù


Wislawa Szymborska's "Vermeer"

A poem against the apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế

Aug 27th 2010, 16:53 by More Intelligent Life, A.R. | NEW YORK

I HAPPENED upon this poem on the New York Review of Books's website, and was startled by how beautifully Wislawa Szymborska captures the dance between motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a moment frozen yet continually happening.

Vermeer

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.

"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated from the Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak

Note: Bài thơ này, TV đã post, nay chỉ post thêm lời bình của tay Prospero.
Bản tiếng Việt, của TV, cũng phân biệt ra hai từ "W", và "w".
GNV cũng đọc nó trên tờ NYRB, như Prospero.
Thế mới thú chứ!

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.
Source

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.

Ui chao, phán như thế mới là phán chứ, nhỉ?

Nhưng bạn đã nhận ra sức căng của thời tiết, vào lúc trời đất rơi vào thu phân?

… tóc em rối giữa hai đầu ngọn gió
hình như rừng rơi vào thu phân.
TMT

Tiện thể đi thêm 1 đường Prospero, về Thơ Ca và Chủ Nghĩa Vác Ngà Voi: Thơ có thể nói cái gì?

Books, arts and culture

Prospero

Poetry and humanitarianism

What can poetry say?

Sep 23rd 2011, 10:06 by E.H. | LONDON

THEODOR ADORNO famously declared in 1951 that to write poetry after Auschwitz was “barbaric”. Mindful of the limits of words, generations of poets still strive to use them to describe the impossible.  

“Poetry and the State”, an event that took place on September 20th, was haunted by this problem: how to put into words events that leave you speechless. Organized by the poetry initiative “Poet in the City”, the magazine Modern Poetry in Translation and Amnesty International, the evening aimed to show the relevance of poetry in making “a public statement with a universal reach”. The five poets who gave readings were connected, in some way or another, to humanitarian causes. They included Timothy Allen, a former aid worker, Zuzanna Olszewska, a fellow from Oxford who conducts anthropological studies with female Afghan refugees, and Carlos Reyez Manzo, Amnesty’s first poet in residence, who survived torture under Pinochet’s regime in Chile.

 This makes it a difficult event to criticize. But although there were moments of joy in the readings—for instance, the concluding lines in Mr. Allen’s translation of Ho Chi Minh’s “Prison Diary” from the Vietnamese, “my poems are made of steel / and each is an act of resistance”—on the whole, the evening did not hold together. It felt as if the poets had been chosen more for the problems they wrote about rather than how well they wrote. The question of translation only seemed pertinent when Amarjit Chandan read from his poems both in Punjabi and English, creating a delightful interplay between the two languages.

Swamped by the various causes they were connected to, and only speaking for an average of 12 minutes each, the poets were unable to stand out as individuals. They were gathered together under an umbrella of worthiness, but there was no examination of the relationship between poetry and humanitarianism. We were meant to take it for granted that poetry is a force for good against subjects as diverse as Pinochet, Britain’s cuts in arts funding (which David Constantine of Modern Poetry in Translation decried for making the country the “philistine place we’re in”), and the state of the environment.  

“Poetry and the State” seemed to hold a complacent view of poetry as an inherently ethical or comforting medium that brings people together. But in doing so, the evening undermined the power of any one poet to say much of anything.

THEODOR ADORNO hiển hách phán, vào năm 1951, rằng, làm thơ sau Auschwitz thì “dã man”. Tuy biết thừa đi rằng thì là chữ thì ra cái chó gì, đâu có làm chết nổi ai, nhiều thế hệ những nhà thơ sau đó vưỡn làm thơ, vưỡn sử dụng chữ để diễn tả "điều không thể".
“Thơ ca và Nhà nước”, một sự kiện xẩy ra vào ngày 20 Tháng Chín cũng bị ám ảnh bởi vấn đề này:
Làm thế nào đưa vào chữ nhưng sự kiện làm bạn cấm khẩu, ú a ú ớ, không làm sao nói lên lời?


 

THE WORLD'S PROSE 

Die Prosa der Welt

-Hegel, of course

 

Imagine a day begun in Le Bon Cafe;
colored newspapers on tables and Aznavour's songs come
drifting from the speakers. A brief moment of attention:
the coquettish French "r" whirls like a child's plaything
within the mighty city, the empire's hub,
and seems about to thaw the winter's queen.
Nervous bureaucrats in narrow suits
gulp scalding coffee, the liquid of oblivion.
Four solitary airplanes circle overhead.

I stand before the picture Rilke talks of:
a family of acrobats has turned up in a desert.
No one's watching, and their many tricks
and songs, concealed in tambourines and supple muscles,
their leaps and jokes all go for nothing here.
They gaze uncertainly, they look around;
the young woman on the far right would like
to leave the painting (she stands apart).
They look around, but what is there to see?

Snow lies around us, covering the architecture of power.
Snow wraps the monumental shapes with slipcases
and even the narrow heads of obelisks have turned white.
Provincial trees breathe quietly beneath the snow,
and fresh leaf buds sleep tight, waiting for a sign.
You pay with life for every moment of snow, for
what is white and what is black, for happiness, for seeing.
The prose of life spreads out around us,
while poetry crouches in the heart's chambers.

Dòng đời

Hãy tưởng tượng một ngày bắt đầu ở Le Bon Café
Những tờ nhật báo màu sắc ở trên bàn,
và tiếng hát lang thang trôi dạt của Aznavour
từ những loa. Nè, hãy để ý, cái âm “r” của Tẩy mới nhõng nhẽo làm sao,
như một thứ đồ chơi của con nít trong thành phố lớn lao, trung tâm của đế quốc,
như làm tan lớp giá băng của nữ hoàng mùa đông.
Những viên chức bồn chồn trong những bộ đồ chật cứng,
Nhấp cà phê nóng bỏng, thứ nước của quên lãng.
Bốn chiếc máy bay cô đơn vần vũ ở trên đầu

Tôi đứng trước bức tranh Rilke nói về:
một gia đình nghệ sĩ nhào lộn ở sa mạc
Chẳng ai thèm nhìn họ,
và rất nhiều những mánh khoé trình diễn, những bài ca,
được giấu ở trong những cái trống, những bắp thịt mềm mại, dẻo dai.
Những cú nhẩy, những câu chuyện tiếu lâm, khôi hài
Tất cả đều vô dụng ở đây
Họ nhìn quanh, lơ đãng;
Một người đàn bà trẻ ở tít xa phiá bên phải,
có vẻ như muốn rời bức tranh (nàng đứng riêng ra).
Họ nhìn quanh, nhưng có gì ở đó đâu?

Tuyết chung quanh chúng ta, che phủ kiến trúc của quyền lực
Tuyết bao đền đài tưởng niệm
bằng những cái hộp,
và ngay cả những cái đầu của những đài tưởng niệm
thì cũng biến thành màu trắng
Cây cối thở im lặng dưới tuyết
Và những chồi lá non ngủ, chật, cứng, đợi dấu hiệu
Bạn trả bằng đời của mình, cho mọi khoảnh khắc tuyết
Cho cái thì trắng, cái thì đen, cái thì hạnh phúc,
cái thì để nhìn ngắm,
chiêm ngưỡng và kính trọng (1)
Dòng đời trải ra chung quanh chúng ta
Trong khi thơ "ngoạ hổ tàng long"
ở trong những căn phòng của trái tim.

(1) Thứ tình yêu Platonique, chiêm ngưỡng và kính trọng...

Tứ tấu khúc

Ui chao, đọc bài thơ thì lại nhớ đến lần đầu, 1994, đến thành phố lạnh, xứ lạnh, tuyết lạnh, bão tuyết lạnh, và cái bàn tay của cô bạn, lấy ra khỏi cái bao tay, ấm thật ấm, bắt tay anh cu Gấu đang run rẩy...

Hà, hà!

Cái cô bạn, cùng ngồi xuồng ngày nào, năm lụt, trong xuồng có đủ khổ đau dành cho 3 người...

Dòng đời trôi quanh ta.
Thật.
Thơ ở trong đầu.
Thật.

Cô bạn thân ơi
Nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi

Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay

Biển

A KING

In memory of Jozef Czapski

 

He was very old. But his spirit held.
Of one acquaintance (old as he) he said:
"That famed Petersburg beauty; observe
her face." He still painted. Lived. Wrote. Thought.

He knew Akhmatova. Spoke with de Gaulle,
Andre Malraux also took note.
Gide (too Parisian) disappointed him.
A penniless count, he helped the poor. 

So tall (and good), as if proud
nature wished to put him on display.
Mary McCarthy once glimpsed him in a crowd
at a museum and jotted down: a righteous man 

Beauty thrilled him. He spoke
more often though of ugliness and pain -
things it seems he scarcely knew
(but how can we be sure?)

What's the moment when divinity appears?
How can we tell, since we always keep it
in the past tense or the future (hopefully!)
We describe it from a distant country, 

where we've been carried by a wild express train
with no stops at that small still station
we call Beauty, a resting place
too modest for its taste. 

But we can talk of ugliness
at length, and pain will still fill
many tomes; our quick sightseeing trip
becomes a humble tortoise city tram. 

His death was long and patient; perhaps those
who rule the earth and play at chess demurred:
should such a splendid upright shape, a king,
be made a horizontal form, a line of print?

Adam Zagajewski

Một Vì Vua

Tưởng nhớ Jozef Czapski 

Ông rất già. Nhưng tinh thần bảnh lắm, cứng lắm, vững như trụ.
Về một mối thân quen [cũng già như ông], ông nói:
“Cái đẹp Petersburg nổi tiếng, hãy quan sát mặt của bà".
Ông vẫn vẽ. Sống. Viết. Nghĩ. 

Ông biết Akhmatova. Nói chuyện với de Gaulle.
André Malraux ngồi loay hoay ghi "notes".
Gide (quá Paris), ông không ưa.
Một vị bá tước không 1 đồng xu, ông giúp kẻ nghèo 

Dáng thật cao (và tốt), như thể thiên nhiên cao ngạo
muốn đưa ông ra trình diễn.
Mary McCarthy có lần thoáng nhìn thấy ông trong đám đông
ở một viện bảo tàng và phán thật là ngắn gọn:
một người đàn ông chính trực 

Cái đẹp làm ông hồi hộp. Tuy nhiên ông nói nhiều về cái xấu và cái đau –
điều mà ông hầu như không rành
(nhưng làm sao chúng ta chắc chắn về chuyện này?) 

Khoảnh khắc, khi tính thần thánh xuất hiện, là gì?
Làm sao chúng ta biết, kể từ khi mà chúng giữ nó
trong thì quá khứ, hay thì tương lai (may mắn thay!)
Chúng ta miêu tả nó, từ một xứ sở xa 

Trong khi chúng ta bị mang đi bằng 1 chuyến xe lửa tốc hành man dại
Đếch thèm ngưng ở một cái nhà ga nhỏ xíu có tên là Cái Đẹp,
Một trạm nghỉ quá tầm thường, khiêm tốn nên đếch hợp với cái gu của nó.

Nhưng chúng ta vưỡn có thể nói vế sự xấu xí dài dài,
và cái đau thì cũng được đưa vô trong nhiều chương, hồi, tập;
cuộc cưỡi ngựa coi hoa của chúng ta trở thành 1 chuyến cưỡi rùa dạo chơi thành phố
rất ư là khiêm tốn.

Cái chết của ông thì dài, và kiên nhẫn;
có lẽ những kẻ trị vì trái đất và chơi cờ, lưỡng lự:
Liệu dáng đứng cao sang, tuyệt vời như thế, một vì vua
Có thể trở thành một dáng nằm ngang,
như một dòng mực?
  

Ui chao bài thơ mới tuyệt vời làm sao. Làm Gấu nhớ tới giai thoại một họa sĩ Tầu không hợp lòng vua, bị Cớm đến nhà tính đưa đi cải tạo, bèn đi vô luôn bức tranh của mình! (1)
Ông bạn của thi sĩ như vậy là cũng từ biệt cuộc đời, và biến thành một dòng thơ! (2)

(1)

Hiếm nhà văn được như Borges: ông đi vào truyền thuyết, ngay từ khi còn sống, không như một nhà văn nổi tiếng, mà là một huyền tượng. Trong chuyện Tàu có trường hợp tương tự: Để trốn tránh cơn giận dữ của nhà vua, và cái chết tiếp theo đó, Wang Fo rời cuộc đời, bước vào bức tranh ông vẽ.
Source

(2)

GCC cũng đã từng viết về Nguyễn Tuân, như trên!

Cảnh Huấn Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của đời mình rồi quay sang nói với viên cai ngục, hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân, (con người như ông, những chữ như thế này  phải tìm đất khác để mà tụ lại); chẳng đợi người cai tù nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã nhập vào những chữ chưa khô mực.

Chữ người tử tù

Master of Disguises

Surely, he walks among us unrecognized:
Some barber, store clerk, delivery man,
Pharmacist, hairdresser, bodybuilder,
Exotic dancer, gem cutter, dog walker,
The blind beggar singing, O Lord, remember me,

Some window decorator starting a fake fire
In a fake fireplace while mother and father watch
From the couch with their frozen smiles
As the street empties and the time comes
For the undertaker and the last waiter to head home.

O homeless old man, standing in a doorway
With your face half hidden,
I wouldn't even rule out the black cat crossing the street
The bare light bulb swinging on a wire
In a subway tunnel as the train comes to a stop.

Tổ sư Hoá trang

Hẳn rồi, hắn đi giữa chúng ta mà không ai nhận ra
Một anh thợ hớt tóc, một viên thư ký, một người giao hàng
Nhà bào chế thuốc Tây, thợ làm tóc, lực sĩ thẩm mỹ
Người khiêu vũ điệu Ba Tư, Ả rập
Thợ kim hoàn, người dẫn chó đi dạo,
Người ăn xin mù ư ử, Ôi Chúa, hãy nhớ đến tôi

Một cửa sổ trang hoàng Noel “bục” 1 phát, khởi sự đám cháy dởm
Ở một đám lửa dởm, trong lúc bà via và ông via nhìn,
Từ giường nằm, với nụ cười đóng băng
Con phố trống dần, đã tới lúc người chủ nhà hòm và tên bồi cuối cùng về nhà

Ôi tên già không nhà, đứng ở lối đi vô nhà
Với bộ mặt giấu mất một nửa,
Ta sẽ không ra lệnh cho con mèo đen vượt qua đường
Ngọn đèn nơi đường hầm lắc lư khi xe điện ngầm tới trạm

Summer Light

 

It likes empty churches
At the blue hour of dawn

The shadows parting
Like curtains in a sideshow,

The eyes of the crucified
Staring down from the cross

As if seeing his bloody feet
For the very first time.

Charles Simic

Ánh Sáng Mùa Hè

Nó thích nhà thờ trống rỗng
Vào cái giờ xanh của buổi sáng tinh mơ

Những cái bóng bỏ đi
Như những bức màn trong 1 buổi diễn phụ

Con mắt của Người bị đóng đinh
Nhìn xuống từ cây thập tự

Như thể Người nhìn thấy máu của Người
Ở chân
Lần đầu

Private Miseries

More than this crippled veteran playing the banjo,
I have no right to grumble,
More than this old woman cracking open her purse
To give him a quarter,

Lest they both take offense and beat me
On the head with one of his crutches.
My own anguish must remain unspoken,
Hidden behind a firm stride and a smile.

One day I knelt down and cursed God
For all the suffering and injustice he consents to.
Since then, I have felt even more alone.
Like a lifelong widower forever unconsoled

I pass the homeless huddled in doorways
Upon a winter morning and dare not
Grouse about my own sleepless night,
And my cold feet that make me hurry past them.

Những nỗi khốn khổ mình ên

Hơn cả cái anh cựu binh VNCH,
già què, đang từng tưng với cây đàn băng dzô
Tớ đếch có quyền càu nhàu
Hơn cả cái bà già đang cố mở bóp
lấy mấy nghìn Cụ Hồ cho ông lính Ngụy già què

Cứ để cho họ cảm thấy bị tổn thương và đập vào đầu tớ
Với một trong những cây nạng
Cái nỗi thống khổ của riêng tớ phải được nín khe,
Và được giấu ở bên dưới bước đi mạnh mẽ, và nụ cười.

Một bữa tớ quỳ xuống và nguyền rủa Thượng Đế
Về bao đau khổ và bất công mà ông ta cứ nhè tớ mà trút xuống
Kể từ đó, tớ cảm thấy cô đơn còn hơn bao giờ hết
Như một bà goá cả đời không hề được an ủi.

Tớ đi qua một đám người vô gia cư láo nháo ở hành lang
Một buổi sáng mùa đông và không dám
Càu nhàu về một đêm mất ngủ của riêng tớ
Và đôi chân lạnh giá của tớ càng khiến tớ vội vã đi qua họ

And Who Are You, Sir?

I'm just a shuffling old man,
Ventriloquizing
For a god
Who hasn't spoken to me once.

The one with the eyes of a goat
Grazing alone
On some high mountain meadow
In the long summer dusk.

Nhưng Ngài là Ai, hử Ngài?

Tớ chỉ là một tên già lê lết
Nói chuyện bằng bụng
Về một ông trời
Chưa từng nói với tớ một lần
Kẻ có đôi mắt dê
Thả dê một mình
Trên cánh đồng cỏ trên núi cao
Vào một hoàng hôn dài mùa hè

Charles Simic