Thơ mỗi ngày
Thơ từ đâu tới?
Thơ ở đâu
xa.
Thơ
đi đâu ?
Ðây là câu
thi sĩ thường bị hỏi. Câu trả lời mau lẹ, chẳng đi đâu. Thế rồi bạn
nghĩ, chắc
không phải như vậy. Bạn đọc đủ thứ thơ về thi si tản bộ trong rừng,
xoay xoay trong mớ cỏ khô, có khi còn làm
một chuyến du
ngoạn địa ngục. Ðúng quá đi chứ. Tuy nhiên, thi sĩ, ngay cả khi họ
chiến đấu
trong 1 cuộc chiến, ít khi tháo đôi dép ra khỏi chân của họ. Liệu cái
sự mù lòa
của Homer là 1 bằng chứng bảo đảm cho đề luận của tôi? Tôi đánh cược
với mọi người, đã từng
chứng kiến, tận mắt, những vụ làm thịt lẫn nhau giữa Hy Lạp và dân
thành
Troy,
hay những cuộc phiêu lưu tuyệt vời của Odysseus băng qua Ðịa Trung Hải,
là, họ đã
bị Homer “thuốc”, trong lúc chờ bà xã dọn cơm trưa.
Rõ ràng rồi,
rất nhiều thi sĩ sẽ chối bai bải, làm gì có chuyện đó!
Ở đây, tại nước Mẽo, chúng ta nói một cách kính
cẩn về kinh nghiệm thực, rất thực, thực như đếm. Chúng ta làm những bài
thơ về
những ông
bố dẫn chúng ta đi câu cá và
làm bể trái tim của chúng ta khi ra lịnh hãy ném chú cá lại, trả cho
dòng sông. Chúng ta còn xì cho độc giả biết, cái xe đang chạy là xe gì,
đời nào, để tạo cảm
giác, cứ như thật, mà thật là thật nhe, thằng này chưa từng nói dối
nhe!
Ấy là
vì chúng ta nghĩ về mình, như là những đấng ký giả chưa từng phịa ra 1
cái tin
nhảm nhí! Và cũng như họ, chúng ta đi thực tế, là để báo cáo, ghi chú,
và có thể,
đẻ ra một phóng sự!
Ðừng tin chuyện đó, dù mảy may!
Như bất cứ một thi sĩ có
thể nói với bạn, một con người thì thường nhìn, bảnh, với cặp mắt nhắm
tít, chứ
không phải mở toang hoác!
Có thể
bạn sẽ tự hỏi chính bạn,
chẳng lẽ hầu hết sự vật xẩy ra
trong thơ, là chẳng có tí thật, như thằng cha Gấu ba xạo?
Ðâu phải như thế! Làm
gì có chuyện đó!
Chúng đều thực, lẽ dĩ nhiên. Ðó chính là điều mà thi sĩ hì hà
hì hục suốt – hao phí cả 1 đời, để mong có được sự thực. Hãy coi trường
hợp của
tôi. Một ngày đẹp trời, dưng không trồi lên sự thực, và thế là hồi ức
về ông nội
của tôi đã chết từ thuở xưa rồi Diễm ơi, bỗng lừng lững trở về. Hai mắt
tôi bèn
cứ thế mà vãi linh hồn, khi nhìn thấy ông vào cái năm cuối cùng của
mình, đang cà
chọt cà chọt, với một chiếc cẳng bằng gỗ, vòng quanh cái sân, để quăng
nắm hạt
ngô cho bầy gà con.
Tôi
nhớ ra cái vẻ cù lần của ông lúc đó và bệ ông vô 1 bài thơ. Trong sân
còn có cả
1 cái xe tải cũ. Mặt trời lặn trong lúc bà tôi đang gắt gỏng nhặng xị
với cái bếp
lò còn ông tôi thì ngồi ở cái bàn bếp suy tư về cảnh tượng của đời ông,
nay thế
này mai thế khác, sự ngu đần của tay huấn luyện viên đội banh địa
phương, và mùi
xúp đậu bốc lên từ bếp lò. Tôi thích cái đoạn tôi viết ra được trên mặt
giấy và
cứ thế đi vô giấc ngủ trong đêm, yên trí lớn, mình làm được 1 bài thơ
ra
trò.
Ngày
hôm sau, tôi đếch còn tin vào cái điều đó nữa. Mặt trời lặn xem ra thật
thơ mộng, cách miêu tả ông tôi, nghe mùi quá, coi chừng độc giả,
đọc, vãi linh
hồn ra mất, mình đang mần thơ chứ đâu phải đang viết phê bình như Thầy
Phúc, có quá nhiều điều phải vứt vô thùng rác!
Tôi căng
hai
tai, banh hai mắt, nhìn trân trân lên tờ giấy trắng, cho đến khi 1 từ,
hay 1 hình
ảnh xẹt tới. Ðừng ao ước 1 cái chi chân thực, ở trong 1 bài thơ, như
tôi trần
ai vỡ ra được bài học này. Chính vì vậy mà cái việc làm thơ coi bộ
không chắc ăn
1 tí nào, mà còn làm bạn hụt hơi, chới với. Cùng lúc, làm thơ còn có
nghĩa là
chẳng làm chi hết, chẳng có gì để làm, đúng hơn, ngoài việc, chờ sung
rụng!
Emiy Dickinson nhìn ra bên ngoài cửa sổ, băng qua con phố tới cái nhà
thờ,
trong khi chờ sung rụng; tôi nhìn ra cái cửa sổ của tôi, nhìn cái bóng
đêm, mới
tinh khôi, vừa mới phủ xuống cánh đồng tuyết dầy.
"Thơ chúi mãi
xuống, và, ngự trị, ở trong cái không tưởng thường hằng của chính nó”.
William Hazlitt
viết. Thi sĩ hy vọng, bài thơ sau cùng ló ra khỏi cái mớ bòng bong, và
thế là
chàng bước trở lại vào đời, thuyết phục một kẻ hoàn toàn xa lại điều mô
tả, thì
đã thực sự xẩy ra.
Nếu may mắn thì có thể còn đem chúng vô giường với mình, hay
trong chuyến đi nghỉ hè, tại một hòn đảo nhiệt đới.
Một bài thơ thì cũng giống
như 1 thiếu nữ, đi dự một bữa tiệc, và sẽ hôn mọi người.
Không, một bài thơ là
một bí mật được chia sẻ bởi những người chưa từng gặp nhau.
So sánh với những
nghệ thuật khác, thi sĩ là những kẻ sử dụng hầu hết thời gian của mình
để vò đầu,
bứt tai, ở trong bóng tối:
Kể lể toàn
chuyện tình tuyệt vọng,
Với một mình cấu
lấy tóc mình.
TTT
Ðó là lý
do,
cuộc du lịch mà nhà thơ thích, thì đó là, đi vô nhà bếp, coi có miếng
thịt
nướng, và
1 chai bia, ở trong tủ lạnh, hay là không.
*
Năm mươi năm "ăn nằm" với thơ,
Charles Simic đã tạo ra một thể loại
thơ, mới, dễ miêu tả hơn là đặt tên cho nó: u tối, thiếu sự tôn kính,
thường
xuyên tưng tửng, bí ẩn “chìm”, nếu không muốn nói, thần bí; dòng thơ
bằng phẳng
đánh lừa người đọc; lời phán, và đề tài thường giản dị, như con dao,
cái thìa,
hay như tít bản nháp bài thơ mà ông mang vô lớp cho London coi, vào năm
1955:
“Một cuộc điều tra chính thức giữa những hạt cát”.
Sinh tại Belgrade 1938, đêm
trước Đệ Nhị Chiến, Simic "đau đáu" nỗi
đau bom đạn, đói khát, và 10 năm lưu vong của ông già và bà mẹ đi tù.
“Hitler
và Stalin, hai thằng khốn này đã âm mưu làm cho tôi thành 1 kẻ không
nhà”,
ông đã từng nói. Phải đến khi ông được 15, 16 tuổi thì gia đình mới
được đoàn
tụ, và tái định cư ở Mẽo.
Simic bắt đầu làm thơ khi học trung học ở vùng ngoại ô Chicago.
Thơ tôi nhắm tái lập lại cái
“kỳ kỳ cho hầu hết những sắc thái
quen thuộc của kinh nghiệm”. “Cơ bản của thơ dựa trên cơ may, tình cờ”,
và bởi
vì cơ may thường chạy tới bạo động, thành thử bạo lực thì cũng ngay mép
bờ, "thơ
chẳng đâu xa". Và mặc dù ông làm thơ từng dòng, từng dòng, khi được
hỏi, liệu
ông có 1 viễn ảnh lớn, bao trùm lên nó, nhà thơ lắc đầu. “No”, tớ chẳng
bao giờ
có một viễn ảnh. “Đôi khi, cái sự lớ ngớ thì không thể tránh được, và
nó thì
quan trọng”
LONDON: You say it several
times and in different places,
"good poetry honors the here and the now." And yet-and yet-you do not
name places, you do not name locations, you do not have dates. In your
poetry
of the period of Vietnam, Vietnam as such isn't.
It's full of all the pain but as such it isn't.
SIMIC: Well, my subject is
always contemporary history .... The
reason I don't name names is because I think names mean nothing.
London:
Ông nói vài lần, và, ở vài nơi, “thơ hay vinh danh cái ở đây và cái
lúc này”. Tuy nhiên, ông không nhắc tới nơi chốn, địa danh, ông không
chua thêm
ngày tháng. Trong thơ ông thời kỳ Việt Nam, Việt Nam đâu phải
như thế. Ðầy đau thương nhưng như thế đâu phải.
Simic:
Vậy đó. Ðề tài của tôi thì luôn luôn là lịch sử đương thời… Lý do
tôi không gọi tên là vì tôi nghĩ tên chẳng có nghĩa gì cả.
Where Is
Poetry Going?
Charles
Simic
A dog, a
chicken, a rubber boot, Bachichida village, Venezuela
This is a
question poets get asked often. The quick answer is nowhere. This can’t
be
right, you are thinking. You’ve read plenty of poems about poets
walking in the
woods, rolling in the hay and even taking a sightseeing trip through
hell. True
enough. Nevertheless, poets, even when they are fighting in a war,
rarely take
off their slippers. Doesn’t Homer’s blindness prove my thesis? I bet
every one
of those eyewitness accounts of Greeks and Trojan slaughtering each
other, and
the wonderful adventures Odysseus had cruising the Mediterranean, were
dreamed
up by Homer while waiting for his wife to serve lunch.
Sure, many
poets would deny this. Here in the United States, we speak with
reverence of
authentic experience. We write poems about our daddies taking us
fishing and
breaking our hearts by making us throw the little fish back into the
river. We
even tell the reader the kind of car we were driving, the year and the
model,
to give the impression that it’s all true. It’s because we think of
ourselves
as journalists of a kind. Like them, we’ll go anywhere for a story.
Don’t
believe a word of it. As any poet can tell you, one often sees better
with eyes
closed than with eyes wide open.
Am I
claiming, you are probably asking yourself, that most things that
happen in
poems are not true at all? Far from it. Of course they are true. It’s
just that
poets have to do a lot of time-wasting to get to the truth. Take my
case. One
day, out of the blue, the memory of my long dead grandfather comes to
me. My
eyes grow moist seeing him in the last year of his life limping around
the yard
on his wooden leg throwing some corn to the chickens. I recall the mutt
he had
then, and I put him in a poem. There’s even a rusty old truck in the
yard. The
sun is setting while my grandmother is fussing over the stove and my
grandfather is sitting at the kitchen table thinking about the vagaries
of his
life, the stupidity of the coach of the local soccer team and the smell
of bean
soup on the stove. I like what I got down on paper so far and fall
asleep that
night convinced I have a poem in the making.
The next day
I’m not so sure. The sunset is too poetic, the depiction of my
grandparents is
too sentimental, and so much of it has to go. Weeks later—since I can’t
stop
tinkering with the poem—I arrive at the conclusion that the old dog
lying in
the yard surrounded by the pecking chickens and the rooster is what I
like
best. The sun is high in the sky, a cherry tree is in flower, and the
grandfather is out of the poem entirely. Typically, I have no idea if
there
will ever be a poem. Only God knows, and I try not to butt into his
business. I
strain my ears and stare at the blank page until a word or an image
comes to
me. Nothing genuine in a poem, or so I have learned the hard way, can
be willed.
That makes writing poetry an uncertain and often exasperating
undertaking. In
the meantime, there’s nothing to do but wait. Emily Dickinson looked
out her
window at the church across the street while waiting; I look out of my
window
at the early darkness coming over the fields of deep snow.
“Poetry
dwells in a perpetual utopia of its own,” William Hazlitt wrote. One
hopes that
a poem will eventually arise out of all that hemming and hawing, then
go out
into the world and convince a complete stranger that what it describes
truly
happened. If one is fortunate, it may even get into bed with them or be
taken
on a vacation to a tropical island. A poem is like a girl at a party
who gets
to kiss everybody. No, a poem is a secret shared by people who have
never met
each other. Compared to the other arts, poets spend most of their time
scratching their heads in the dark. That’s why the travel they prefer
is going
to the kitchen to see if there is any baked ham and cold beer left in
the
fridge.
February
7,
2011 5:45 p.m.
Đinh Cường
TƯỞNG
NIỆM 5
NĂM NGÀY MẤT THANH TÂM TUYỀN
22.3.2006 –
22.3. 2011
Năm ngoái, 2010,
TV đã đi loạt bài tưởng niệm 5 năm ngày mất TTT!
Thơ Dịch của
TTT
Note:
Tks.
NQT
I died for
beauty, but was scarce
Adjusted in
the tomb,
When one who
died for truth was lain
In an
adjoining room.
He
questioned softly why I failed?
"For
beauty," I replied.
"And I
for truth, -the two are one;
We brethren
are," he said.
And so, as
kinsmen met a night,
We talked
between the rooms,
Until the
moss had reached our lips,
And covered
up our names.
Tôi
chết vì
cái đẹp, nhưng thật khốn khổ
Tôi chết vì
cái đẹp, nhưng thật khốn khổ
phải
xoay sở
sao cho vừa trong nấm mồ của mình
Khi một kẻ nào
đó chết vì sự thực,
được đặt xuống
phòng kế bên
Anh ta nhẹ
nhàng hỏi, tại sao tôi thất bại?
“Vì cái đẹp”,
tôi trả lời.
“ Còn tôi thì
vì sự thực - cả hai thì là một;
Như vậy hai đứa
mình là anh em, đồng đạo, anh ta nói.
Và như thế đó,
như hai bà con gặp nhau trong một đêm
Hai chúng trò
chuyện giữa hai căn phòng
Cho tới khi
rêu mọc tới môi
Và phủ lấp tên
của chúng tôi
Note: Bài thơ G
tưởng dễ nhá, nhưng, khi đọc 1 trang net cãi nhau búa xua về nó, mới tá
hỏa!
Tuy nhiên, cái từ "chìa
khoá" của bài thơ, là từ "thất bại", fail:
The ending
is subtly prepared for with the question "why I failed?" The crucial
word is "failed," rather than "died." Their deaths and any
hopes of succeeding in their goals are futile. The moss covers their
lips and
their names on the grave marker; death has ended all communication and
effectiveness. With this image Dickinson shows the powerlessness of the
human
condition and the relentless indifference of nature to human beings,
who are
obliterated at death. The speakers are never named; they are anonymous.
Is it
ironic that the only life in the poem is the moss?
| Posted on
2005-12-12 | by Approved Guest
Bài thơ
trên, thiển nghĩ, TTT chọn dịch vì nó có gì tương tự với bài thơ của
Shakespeare, mà ông cũng đã từng dịch, ở đầu cuốn Một Chủ
Nhật Khác.
Cái người nằm
xuống vì cái đẹp là một nữ nhân, còn người “thất bại” vì sự thực
kia, nam nhân.
Không thể
chung phòng được, tuy cùng thất bại như nhau. Họ là bà con, là anh em,
là đồng đạo,
là vậy.
Chúng ta đọc
bài thơ rồi đọc tiếp bài thơ sau đây, ở đầu MCNK, mới đúng là
Song Kiếm Hợp
Bích.
Phượng Hoàng
và Bồ Câu
Cái đẹp,
sự
thật, sự hiếm quí
Ân sủng rất
mực giản dị
Táng tro cốt
nơi đây.
Cõi chết Phượng
Hoàng nương náu
Và ngực Bồ
Câu đoan trinh
Trong thiên
thu an nghỉ.
Không lưu
truyền tông tích
Chẳng bởi tật
nguyền
Vì chưng hôn
phối thanh khiết.
Vẻ thật
không sao thật
Dáng đẹp
phô, hão huyền
Sự thật cùng
cái đẹp đã mai một.
Trước quanh
quách đôi linh điểu
Hằng chân thật
hoặc mỹ miều
Vọng gửi
khúc kinh cầu ngưỡng mộ.
Thanh Tâm
Tuyền dịch
The Phoenix
and the Turtle
Beauty,
truth, and rarity,
Grace in all
simplicity,
Here
enclosed'd in cinders lie
Death is now
the phoenix' nest,
And the
turtle's royal breast
To eternity
cloth rest,
Leaving no
posterity -
"Twas
not their infirmity,
It was
married chastity.
Truth may
seem but cannot be;
Beauty brag,
but 'tis not she;
truth and
beauty buried be.
To this
urn
let those repair
That are
either true or fair;
For those
dead birds sigh a prayer.
William
Shakespeare
Ai Lao - Sông Núi
Chân Tình
Thích Đồng Văn
Người Về
Người về
bóng ngả trên đường phố
Phố đổi màu
theo mỗi bước chân
Mười năm ở lại
cùng muông thú
Mây đã thành
mưa rụng mấy lần
Chén rượu
quan hà chưa uống cạn
Hương nồng
ngây ngất vẫn còn đây
Người ơi!
trăng vẫn tròn trong mộng
Sao chẳng chờ
nhau một kiếp nầy
Người về một
tấm thân hoang phế
Ngơ ngác bên
đường lạc dấu vui
Chiếc áo
phong trần xin gửi lại
Mười năm đi
quên mất tiếng cười
Vẫn tạ ơn đời
khi sống sót
Mười năm máu
chảy đọng thành thơ
Lòng ai muôn
dặm còn thao thức
Có biết rằng
đây vẫn đợi chờ
Người về
thương bóng mây qua núi
Núi đứng
muôn đời nhớ tiếc mây
Cứ tưởng một
lần quay trở lại
Cùng nhau
vui hết cuộc sum vầy
Ngụm khói
lam chiều thôn Việt Bắc
Như màu khói
thuốc thuở quen nhau
Bài thơ xưa
viết mừng em lớn
Vẫn giữ làm
tin chẳng nhạt màu
Người về ngồi
lại thềm soan cũ
Cỏ mọc điêu
tàn trên lối xưa
Xin khóc một
lần cho thảm thiết
Cho sóng triều
dâng mở hội mùa
Ngôi mộ ven
đường ai chết đó
Đi tìm tung
tích của cha anh
Đâu những
oan hồn xưa lạc bước
Về đây nghe
lại khúc quân hành
Người về cúi
nhặt bài thơ cũ
Nhặt trái
tim mình trong khói tro
Mười năm đá
cũng mềm như lệ
Chẳng trách
ai quên một chuyến đò.
Trần Trung Đạo
[Trích: http://www.lebichson.net]
Lời
giới thiệu:
Thú thực Gấu vốn không mê thơ ông này. Nhưng bài này thì... được.
Gấu khoái những
câu:
Người ơi!
trăng vẫn tròn trong mộng
Sao chẳng chờ
nhau một kiếp nầy?
Người về cúi
nhặt bài thơ cũ
Nhặt trái
tim mình trong khói tro
Mười năm đá
cũng mềm như lệ
Chẳng trách
ai quên một chuyến đò.
Nhưng câu
"Về đây nghe lại khúc quân hành", thì quá hỏng!
NKTV
Một Ngày
TMT
Bừng mắt dậy
trời ong ong sáng
cái sáng mơ
màng như câu hỏi bâng quơ
nắng hôm nay
nắng già hay trẻ
trời hôm nay
mây trắng hay vàng
mây có màu
xanh hay mầu tím
đặt bàn chân
nghe đất thở nồng nàn
một ngày
ngoài cửa nghe lạ lắm
tiếng động
nghe như tiếng trẻ thơ
cây lá xôn
xao như bàn tay chạm
những chiếc
xe mang lên dốc nỗi mong chờ
những chiếc
xe lại quay xuống dốc
để lại trên
đồi một câu thơ
một ngày
không biết ai gõ cửa
có lá thư
nào đến từ bên kia sông
có chút tình
nào quàng trên vai núi
cho con chim
đứng hót mãi trong lồng
tiếng chim
trưa sao nghe rất lạ
tiếng ngân
rơi vào trong mặt trời hồng
một ngày nắng
vừa đi vừa rơi từng vốc
gẫy nhánh thời
gian trên những thân cây
ai thả vó xuống
hồ vớt mặt trời bềnh bồng trên nước
hứng đời từng
mảng chảy qua tay.
TMT
3/2011
Bài thơ
thần
sầu, đúng là trận gió mát, đúng vào ngày Tận Thế Sóng Thần Japan!
Cái kiểu, buổi
tối nghe tin người thân tử trận, buổi sáng ra vườn, thấy bông hồng thật
đẹp, thật
tươi.
Liệu, đây là
ý của Steiner khi phán: The nearing shadow of Hitler made me?
Hay, the
unmerited scandal of survival?
Đọc thử chơi
thi phẩm mới “Một ngày” của nữ sĩ Trần Mộng Tú tôi thấy nό… tuyệt vời
quá! Tuyệt
vời quá… sức tưởng tượng của một kẻ không quá… nghèo tưởng tượng. Nào
là “trời
ong ong sáng… cái sáng mơ màng như câu hỏi bâng quơ…” Nào là “một ngày
ngoài cửa
nghe lạ lắm / tiếng động nghe như tiếng trẻ thơ …” Và “tiếng chim trưa
sao nghe
rất lạ / tiếng ngân rơi vào trong mặt trời hồng…” Rồi bài thơ kết thúc
với “câu
hỏi bâng quơ”: “ai thả vó xuống hồ vớt mặt trời bềnh bồng trên nước /
hứng đời
từng mảng chảy qua tay”
Chắc đây là
cái Xứ Thần Tiên của cô bé Trần Mộng Tú? Bởi lẽ cái Xứ Thần Tiên của cô
bé
Alice nό… kinh khủng nhiều hơn!
Thiển nghĩ:
Một ngày của của đại đa số nhân loại bây giờ, hôm qua, hôm nay, hay hôm
sau hầu
như thảy đều hệt nhau và đều một “màu tro xám xịt”, nên bọn phàm phu
khi thức dậy
là phải lo làm vệ sinh, ăn sáng hay nhịn đόi, rồi tất tả ra đi kiếm
sống, chẳng
cό thì giờ để mà… bâng quơ các chuyện nọ kia vớ vẩn. Thử hỏi: Trên trái
đất nhiễu
nhương này, trái đất như một nấm đất/nấm mồ đang cό những người hy sinh
để cό
được tí tự do, tranh đấu chịu đựng chịu khổ từng phút từng giờ cho con
cái họ
được no cơm ấm áo, và nhứt là sau thiên tai ở nước Nhựt Bổn, thì tìm
đâu ra “những
chiếc xe lại quay xuống dốc / để lại trên đồi một câu thơ…” nhỉ? Nếu
như xe cό
để lại thơ thì… thơ gì? Chắc phải là… thơ Trần Mộng Tú?
Đό là chưa kể
thi nhân đời xưa sáng suốt hơn Trần nữ sĩ vì họ đã “bừng con mắt dậy
thấy mình
tay không”!
Thi sĩ ta vẫn
còn… lãng mạng, vẫn còn… sống trong tháp ngà hay sau
nhỉ?
Thơ thẩn cái
kiểu này… nếu không để cho xe thì để cho ai nhỉ?
NDT/DM
Note:
-Lãng mạn.
Không phải lãng mạng, hay văng mạng! Hay sao, không phải hay sau.
-Ðọc thử, rồi
còn ‘chơi’ nữa, tếu thật.
Cô bé TMT
này chưa ngây thơ bằng thiền sư “tệ lắm” cũng ba vợ, [có thể hơn, vì
theo bài
viết của Thi Vũ, chúng ta thấy hai bà túc trực bên giường, khi chàng
sắp đi.
Bây giờ thấy có thêm 1 bà nữa].
PCT, suốt 71 năm một cuộc đời, “chưa đi hết một đêm hoang vu”, chẳng hề
biết đến
thiên hạ sự là cái chi chi.
Nhưng cũng chính thiền sư đã từng phải hỏi ông Chánh Tổng An Nam, đưa
tao mấy Fờ
Răng về mua sữa cho mấy đứa nhỏ.
Ðọc tâm sự của Bà Ba hay Bà Nhất, trên trang nhà của Bà, thì thấy bà
cũng cô
đơn lắm, làm sao ông chồng không nhận ra?
Thơ TMT, ngây thơ đến như
vậy, nhưng
vẫn lọc ra được nỗi đau của thiên hạ, và của chính ‘cô bé’, theo G.
Vấn nạn
"Trăng Ơi [tại sao] Thơ Ấu Mãi", liên quan tới PCT/TMT, thí dụ, một
cách nào đó, lại mắc mớ tới vấn nạn “Céline”, như ông này đang gây xôn
xao trên
văn đàn thế giới: Tại sao một thằng nhà văn đầy hận thù, và nhất là,
thù Do
Thái đến mức khủng khiếp như thế, mà lại đẻ ra toàn những tác phẩm độc
nhất vô
nhị?
Philippe
Sollers, qua Steiner trích dẫn trong bài viết của ông trên TLS,
số12.2.2010, Le Grand Macabre [đúng ý NDT, nhe, “màu
tro xám xịt” sao bằng “Ma Kiếp, Khùng Ðiên, Ba Trợn..
Lớn”?], ngỡ ngàng tự hỏi: Làm sao chúng ta nắm
bắt được sự kiện, rằng, cái lòng thù hận màu da [da màu, thì cũng rứa]
của
Céline lại không làm mất đi, phủ nhận [negate] thiên tài văn chương của
ông ta?
Với TMT, vấn
nạn, nhẹ thôi, nhưng với PCT, mới căng, vì liên quan đến Thiền, đến
Phật, và lại
một câu hỏi nhức nhối hơn nhiều: Liệu, một khi đạt đến vô ngã, thì đếch
thèm để ý đến Cái Ác Làm Thịt Người, [lý thuyết về vô ngã không nhìn
thấy cái
ác làm thịt người, the “doctrine of no-self sees no evil of killing”]?
Bởi thế Tây
Phương không làm sao hiểu nổi cái cảnh Hòa Thượng TQD nhờ người đổ xăng
lên người
ông, rồi [làm ơn xin tí lửa], bật cây quẹt “xoẹt” 1 cái!
Hòa Thượng
TQD còn phải nhờ người đổ xăng, bật quẹt. Bạn có nghe nói tới thiền sư
Vakkali,
vô Niết Bàn bằng cách tự cưa cổ mình? [TLS
1.10.2010. Bài điểm hai cuốn Chiến Tranh
Phật Giáo, Buddhist Warfare, [Michael
K. Jerryson và Mark Juergensmeyer , editors, 257 trang, Oxford
University
Press], và cuốn The Six Perfections,
của Dale S. Wright, nhà xb Oxford University Press].
V/v Làm
thơ sau Auschwitz thì dã man.
OK. Nhưng, làm
thơ ngay khi ở Auschwitz, thì sao?
Ðây là trường
hợp xẩy ra với H.G. Adler, mà TV đã giới thiệu, qua bài viết trên tờ
The New
Yorker, The Long View.
Cái nhìn dài.
Cách đọc TMT của NDT, G này sợ rằng, phải xếp vào loại "cái nhìn ngắn",
chăng?
THE LONG
VIEW
A
rediscovered master of Holocaust writing.
BY RUTH
FRANKLIN
In the spring of 1950,
the philosopher and cultural critic Theodor Adorno, who was then
teaching at
the University of Frankfurt, received a letter from H. G. Adler, an
unknown
scholar living in London. Adler informed Adorno that he had reviewed
the
professor's "Philosophy in Modern Music" for the BBC, and mentioned
that he happened to be the author of an academic study of
Theresienstadt, a
concentration camp in what is now the Czech Republic. Adorno wrote
back, and a
friendly correspondence sprang up between the two men, despite a
fundamental
conflict in their viewpoints. A year earlier, Adorno, a core member of
the
Frankfurt School of Marxist social theorists, had written an essay
titled
"Cultural Criticism and Society," setting the terms for the debate over
the literary representation of the Holocaust in a single famous dictum:
"To write a poem after Auschwitz is barbaric." By contrast, Adler, a
survivor of the camps, had started writing poems about them while he
was still
a prisoner, and went on to address his experiences during the war both
in
novels and in scholarly accounts.
In Adorno's ideologically driven
view, no
kind of sense could be drawn from the victims' fate; to try to impose
an
artistic coherence upon such a monstrosity was an inherent
falsification, and
to write poetry in its shadow epitomized the decadence of bourgeois
culture.
For Adler, the attempt to assimilate the horror of the camps into art
was a
necessity-not only an essential aspect of his life's work but also a
means of
recapturing his own humanity after the catastrophe.
Dịch…
thoáng: Vào mùa xuân 1950 triết gia và nhà phê bình văn hóa
Adorno lúc đó
đang dạy tại Ðại học Frankfurt, nhận được 1 cái thư của H.G. Adler, một
học giả
vô danh sống tại London. Adler báo cho Adorno biết, ông "đọc lại" tác
phẩm âm nhạc của Adorno, "Triết học trong âm nhạc hiện đại" cho BBC,
và nhân đó, nói tí về mình, tớ là tác giả một nghiên cứu có tính khoa
bảng về
Theresienstadt, một trại tập trung ở 1 nơi bây giờ có tên là Cộng Hòa
Czech.
Hai người sau đó thư từ qua lại, mặc dù chẳng ai chịu ai về quan điểm.
Một năm
trước đó, Adorno, thành viên gạo cội của Frankfurt School of
Marxist
social theorists, viết tiểu luận "Phê bình văn hóa và Xã hội", xác dịnh
cái nhìn của ông về vị trí Lò Thiêu trong văn học, trong đó có câu phán
để đời:
Làm thơ sau Lò Thiêu thì dã man.
Ngược lại, Adler, một kẻ sống sót Lò Thiêu, đã khởi sự làm thơ về nó,
ngay từ
khi ông còn là tù nhân, và tiếp tục viết về kinh nghiệm của mình trong
thời kỳ
chiến tranh trong những cuốn tiểu thuyết...
- Primary
Sources: An excerpt from H. G. Adler’s “Panorama.”
Source
Thuyền xuôi bến khác
Sóng theo
Bạc đầu
Tuyệt!
Cái này kêu là đốt cây quẹt đã
đốt rồi, vậy mà vưỡn cháy!
Gấu nhớ là, TCS dùng hình ảnh “Áo xưa dù nhàu, cũng xin bạc đầu
gọi mãi tên nhau”, cũng tới lắm!
Thư tín:
…. tiếc
hoài, là anh không bao giờ chịu viết cái gì cho nó trọn vẹn, thành 1
bài đầy đủ.
Giả sử muốn trích lại những ý của anh, thì trích làm sao? Chẳng hạn cái
hình ảnh
"đốt cây quẹt đã đốt rồi, vậy mà vưỡn cháy", và nhiều ý khác nữa.
Tks.
Bài viết trên
TV rất khó trích dẫn, vì chẳng có bài nào ra bài nào, 1 phần vì tôi
thực sự không
còn cái hứng viết thành 1 bài, một phần do không có thì giờ để gò cho
nó thành
1 bài, và thấy cũng chẳng cần thiết, nhưng đúng hơn, là như thế này:
Có những câu,
thí dụ như câu trên, chỉ là 1 viên gạch đặt tạm đó, đánh dấu, cho khỏi
quên, chờ
khi nào rảnh viết tiếp, và thường là quên luôn.
Bởi vì chỉ 1
câu trên, là một số vấn nạn liên quan tới nó:
Viết chỉ là
lập lại điều đã có 1 người đã từng nói tới, nhưng hơn cả người đã từng
nói tới?
Viết là tìm
ra điều mà người khác không nhìn ra, giữa hai sự vật tưởng như không
liên quan,
tìm cái khác thường, trong cái vẫn thường.
Làm sao mà có
thể nhìn ra cái hình ảnh sóng bạc đầu kia, là để đuổi theo hoài hoài,
đến bạc đầu,
một người đã bỏ mình mà đi?...
Trong cái đám
ăn theo TCS, có kẻ nào giải thích, hay tìm ra được, sợi dây dẫn nối kết
“áo xưa
dù nhàu”, với “cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau” ?
Borges
coi đây
là một ẩn dụ, metaphor, nhưng ông nói tiếp, như mọi từ trừu tượng,
metaphor, chính
nó, cũng là một ẩn dụ.
Liệu có 1 ẩn dụ như thế nối kết hai hình ảnh trên?
Ẩn dụ
của ẩn dụ, qua đó, hình ảnh đầu, ‘áo xưa dù nhàu’ nhập vào, biến thành
[transform, chữ của Borges] hình ảnh sau, ‘bạc đầu gọi mãi tên nhau’?
Little Boat,
Take Care
We see
nothing except what is unimportant to see,
I recall my
father saying.
His room was
empty of furniture.
Even the
wall next to his bed where he rested his head
Now seemed unfamiliar.
Come
evening, store windows have their own reveries.
When found out, they appear
surprised
To see us
and not someone else walking by.
Lost soul,
where have you been hiding?
I thought I
heard one of them whisper
As I made my
way back to the car
Which sat
alone in a huge parking lot
With a
pretty view of the bridge and the bay.
One little
sailboat still left on it,
Heading
bravely out to the open sea.
Charles
Simic: Master of Disguises
Cánh buồm nhỏ kia ơi, hãy
cẩn trọng
Chúng ta chẳng
nhìn thấy gì,
ngoại trừ điều
chẳng đáng nhìn
Tôi nhớ cha
tôi nói như vậy
Căn phòng của
ông thì trống trơn,
chẳng bày biện
một món gì
Ngay cả bức
tuờng kế cái giuờng ông thường dựa đầu
Bây giờ thấy
kỳ kỳ không giống như ngày nào
Chiều tối tới,
những cửa kính nhà hàng
có những giấc mơ của riêng chúng.
Khi bị phát
giác, chúng có vẻ ngạc nhiên
Nhìn chúng
tôi, không phải một người nào đó, bước qua
Những cô hồn
vất vưởng kia ơi, tụi mi trốn ở đâu rồi?
Tôi nghĩ, vừa
nghe có tiếng thì thầm của một trong bọn.
Khi tôi làm
1 tua trở về với chiếc xe
Nằm cô đơn tại
bãi đậu lớn
Có cái nhìn
thật đẹp về phía cây cầu và bãi biển
Một cánh buồm
nhỏ vẫn còn bị bỏ ở đó,
Can đảm lên
đường, ra biển rộng ngoài kia
This
"exemplaire broche" (paperback) of Une
Saison en Enter was auctioned
at Sotheby's, Paris, on December 15. The printing of the book was paid
for by
the writer's mother, and undertaken in Brussels in 1873 by M.-J. Poot
et
Compagnie. Incidents in the prose poems within are thought to relate to
Rimbaud's stay in London the previous summer with Paul Verlaine. The
partnership ended when Verlaine shot Rimbaud in the wrist and went to
prison.
According to Graham Robb in his excellent biography, the original
edition of
Saison "contains about fifteen mistakes ... wrong genders, irregular
punctuation, and some rogue spellings". This was due not to Rimbaud's
ignorance - he was "careful with his fair copies" - but to Poot's
failure to send proofs. Rimbaud collected about ten copies, abandoning
the
remaining 490 and leaving Poot's bill unpaid. Originally priced "un
franc",
this one fetched €13,750.
TLS 24 &
31 12.2010
Mùa
Địa Ngục, bản in đầu tiên, được bày bán tại Sotheby's, Paris,
vào ngày December
15.
Theo
tay viết tiểu sử Rimbaud, bản in có chừng 15 cái lỗi..., nhưng không
phải lỗi
của Rimbaud, vì thi sĩ rất cẩn thận trong việc
chăm sóc bản in, nhưng là do ông
không nhận được bản in thử.
" Ừa
thì kệ trớt cho rồi
Chén thù
chén tạc cho vui bạn bè.
Tối nay nằm
ngủ chắc mơ
Thấy dăm hột
bụi hết giờ đi rong."
Ngày
giông
gió gọi tình đi
Co tay
che một
bờ mi ướt đầm
ĐÁ đem vào
những tiếng nói của đời thường và biến nó thành thơ. Không phải ai cũng
đem được
chữ "kệ trớt" vào được trong câu 6. Và ít nhà thơ nào dám liều lĩnh
viết là "hột bụi", ngay cả trên những trang văn. Chẳng hạn, nhà văn
Nguyễn Thị Hoàng Bắc, bà viết "hạt bụi", và đặt tên cho tác phẩm của
mình là "Long Lanh Hạt Bụi". Còn "hột"?
Hột là tiếng nói của người miền Nam.
"Hột"
rất hiếm hoi xuất hiện trong văn chương. Vậy mà Đá đã làm: hột bụi, hột
mưa
..., làm rất tự nhiên, rất tới.
Lục bát của
Đá tràn đầy khí hậu của sông nước miền Nam, một thứ khí hậu mà Nguyễn
Đình Chiểu
đã gieo hột mùa xuống lòng ruộng "Lục Vân Tiên". Thứ khí hậu đó kéo
con người lại với nhau: cận kề, gần gũi. Thứ khí hậu đó thẳng thừng nói
"không" với những xã giao khách sáo, xa lạ, đầy khuôn phép.
Chẳng hạn:
" nhớ
chi mà nhớ cho lung
cái người
hôm bữa
buồn hung
ngồi
nhìn..."
Bạn có để ý
đến chũ "lung" và chữ "hung" trong câu trên không? Hoặc
"bán xổ" và "biểu" của câu dưới đây?
" người
đem vàng trộn cùng thau
đem ra bán xổ
biểu sao
không buồn!"
Blog DNV
ĐÁ
said...
Đá
không ngờ là những "hoa kiểng quê mùa" của mình được ông sắp đặt một
cách trân trọng như vầy. Xin cảm ơn ông rất nhiều. Chính điều này nhắc
Đá từ
rày phải cẩn trọng hơn mỗi khi đặt bút...
Đá cũng cảm ơn Vua Lì đã ưu ái dành cho những lời khen tặng.
Cũng đành
Thả tuột dây
neo
Thuyền xuôi
bến khác
Sóng theo
Bạc đầu…
Note: Gấu gặp
cái blog này, lâu rồi, rồi quên luôn.
Thuyền xuôi
bến khác
Sóng theo
Bạc đầu
Tuyệt!
Cái này kêu
là đốt cây quẹt đã đốt rồi, vậy mà vưỡn
cháy!
Gấu nhớ là,
TCS dùng hình ảnh “Áo xưa dù nhàu, cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau”,
cũng tới
lắm!
Tks both
of DA & DNV
NQT
V/v Cặp chữ
Hột & Hạt
Theo Gấu, cũng
tuỳ hoàn cảnh.
Nhớ lần ngồi
Quán Chùa với ông anh nhà thơ [TTT], nhắc tới Tống Biệt, ông phán, phải
“nước
chảy huê trôi”, chứ nếu “hoa trôi”,
là hỏng!
Cái hạc bay
cao vút tận trời, từ “vút” mà chẳng hách
sao?
Cái, cũng hay, tuyệt.
Chẳng bù Bắc
Kít, gọi Gái Đẹp thay vì Người Đẹp, Cái Hoa, Cái Hĩm, Cái Thảo… toàn cái không hà!
Chán Bắc Kít
quá!
Hà, hà!
Tây cũng chán.
Nhưng Tây
Ninh thì lại OK!
Có lần, viết
về Nhất Linh, Gấu này, chôm 1 câu của tụi mũi lõ, nhà văn nhớn là kẻ
kết hôn với
xứ sở của nó, và ở trong trường hợp Nhất Linh, xứ sở của ông là xứ Bắc
Kít.
Chứng
minh thì ê hề, nào Nhặt Lá Bàng, nào Xóm Cầu Mới, nào Đôi Bạn, nào Quán
Gió.
Nhưng câu
phán trên của tụi mũi lõ, về già Gấu mới nhận ra cái phần yếu của nó.
Ấy là vì,
nghe câu phán, có mùi chính trị, đúng không?
Phải nói, như vầy, nhà thơ lớn là kẻ ăn ngủ với xứ sở của nó.
Nếu nam thi sĩ, thì xứ sở của nó là Cái Gái, Cái Hĩm.
Còn nếu nữ thi sĩ, thì là, là gì nhỉ?
Một thầy... Thành chăng?
[Nhân vật của NNT, trong Một
Mối Tình: Tôi hỏi, thầy
Thành nào, chị cười, thầy mới về dạy trường xã mình nè, thầy hay lại
nhà chơi,
chưa vợ nên hay biểu chị làm mai, tưởng chuyện chi khó, con gái xứ này
giỏi
giang thiếu gì. Có lần, thầy thấy chị ngồi lau ống khói đèn thờ, thầy
bảo, xứ
này không hợp với chị, thầy nói câu nào nghĩ lại cũng trúng. Em gặp
thầy một lần
coi, thầy Thành nói chuyện hay lắm, thì người ta từ thành phố xuống mà.
Nghe kể
chuyện trên đó rồi, chị thấy sống ở đây chán thiệt, chán thí mồ đi. Gì
mà ngày
mà cũng giống y ngày nấy, hổng thấy thay đổi gì hết trơn."]
Đó là điều Đoàn
Nhã Văn, quanh co, ngại ngần, không dám nói thẳng ra:
Lục
bát của Đá tràn đầy khí hậu của sông nước miền Nam…
Brodsky,
trong bài On Grief and Reason, Về
Khổ đau và Lý trí, dùng cụm từ ‘being
versed in country things”, “muốn làm người trẻ tuổi, đạp xe trên đường
đồng”
[TTT], khi vinh danh nhà thơ Mẽo, Robert Frost.
Ông nhắc tới 1 sự kiện, vào năm
1959, trong bữa tiệc mừng Frost 85 tuổi, ở New York, nhà phê bình bảnh
nhất của
thời đó, là Lionel Trilling, đứng dậy, tay cầm ly rượu chân cao, a
goblet, tuyên
bố, Robert Frost là “nhà thơ kinh khiếp”, “a terrifying poet”.
Lẽ dĩ nhiên, có tí
xì xào, nhưng đúng là từ đó, kinh khiếp.
“Và
bây giờ tôi [Brodsky] muốn làm 1 sự phân biệt giữa kinh khiếp, và bi
đát,
tragic. Bi kịch, tragedy, như các bạn biết, luôn luôn là sự kiện đã
rồi, a fait accompli, một khi mà cái sự ghê sợ,
terror, thì luôn luôn đòi hỏi, cái phần tham dự, anticipation, cái phần
nhìn nhận
của con người, man’s recognition, về cái sự cũng đành, của chính nó,
trước ghê
rợn.
Và nếu như
thế, thì nhà thơ Frost rất ư là bảnh, theo cái nghĩa “kinh khiếp”,
chứ không phải “bi đát”. Nói rõ hơn, thế giá của ông, his posture, thì
rất ư khác biệt với truyền thống Đại Lục [Continental tradition, tức
truyền
thống Âu
Châu, theo như Gấu hiểu], về một thi sĩ như là 1 người hùng bi đát. Và
chỉ nội
sự khác biệt này khiến ông trở thành [nhà thơ] Mẽo, American.”
Gấu
này dài dòng, trích dẫn tứ lung tung, như trên, chỉ là để thêm 1 ý vào
thơ lục bát của Đá: nó có cái truyền thống Nam Bộ, rất riêng tư của nó,
khác ba
thứ lục
bát tiền chiến, của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, thí dụ.
Nhà
thơ kinh khiếp trước Ghê Rợn Lớn.
Tuyệt
Nhưng
GRL, là cái gì, nhỉ?
Còn Brodsky?
Ông
chính là nhà thơ người hùng bi đát, bị trù eỏ, đi đừng có về nhé!
A Virgilian
Hero, Doomed Never to Return Home
Nhưng phải
Brodsky, khi vinh danh nhà thơ Derek Walcott, mới đã:
Tiểu sử đích
thực của thi sĩ thì như của chim chóc, và có lẽ phải nói là, y hệt
nhau: their
real data are in the way they sound.
Cái sự di
chuyển lục bát, từ tiền chiến qua.. Đá,
thì cũng Brodsky tiên đoán ra được: khi biên cương nổi lên thì trung
tâm chấm dứt!
Hung, lung,
mình ên, rau nhúc... cái tiếng nói như của chim đó, khác hẳn thứ tiếng
nói nhọn
hoắt của Bắc Kít [chán nhỉ!].
The Sound of
the Tide
Because
civilizations are finite, in the life of each of them comes a moment
when
centers cease to hold. What keeps them at such times from
disintegration is not
legions but languages. Such was the case with Rome, and before that,
with
Hellenic Greece. The job of holding at such times is done by the men
from the
provinces, from the outskirts. Contrary to popular belief, the
outskirts are
not where the world ends-they are precisely where it unravels. That 1
affects a
language no less than an eye.
Derek Walcott
was born on the island of Saint Lucia, in the parts where "the sun,
tired
of empire, declines." As it does, however, it heats up a far greater
crucible of races and cultures than any melting pot north of the
equator. The
realm this poet comes from is a real genetic Babel; English, however,
is its
tongue. If at times Walcott writes in Creole patois, it's not to Hex
his
stylistic muscle or to enlarge his audience but as a homage to what he
spoke as
a child-before he spiraled the tower.
Poets' real
biographies are like those of birds, almost identical- their real data
are in
the way they sound. A poet's biography is in his vowels and sibilants,
in his
meters, rhymes, and metaphors. Attesting to the miracle of existence,
the body
of one's work is always in a sense a gospel whose lines convert their
writer
more radically than his public. With poets, the choice of words is
invariably
more telling than the story line; that's why the best of them dread the
thought
of their biographies being written. If Walcott's origins are to be
learned, the
pages of this selection are the best guide. Here's what one of his
characters
tells about himself, and what may well pass for the author's
self-portrait:
I'm just a
red nigger who love the sea,
I had a
sound colonial education,
I have Dutch, nigger, and English in me,
and either I'm nobody, or I'm a nation.
Hoặc là tớ
chẳng là ai, hoặc là tớ là một quốc gia
The sun set
in the sea; the same odd sun
rose from
the sea,
and there
was one of it and one of me.
(From
“Crusoe in England,” Geography III)
This year is
the centenary of the birth of Elizabeth Bishop, one of the most
celebrated
figures in American poetry, and several new collections of her prose,
poems,
and correspondence have been published to commemorate it. Her work is a
widely
recognized force in American poetry. Far less known is that Bishop was
also