|
Thơ
Mỗi Ngày
LINE FOUR
I only write about the
dead, one beggar said.
Summer will be starting soon. On the Porte de Clignancourt-
Porte d'Orieans line you always catch the odor of burnt
paper; an inquisitive rat
at the Saint-Michel stop seems to ask:
what century is this, dear sirs and madams? I waded slowly
through this day.
Once again I missed what's most important.
Adam Zagajewski
Đường bốn
Tôi chỉ viết về những
người đã chết,
một đấng ăn xin phán.
Mùa hè sẽ bắt đầu sớm.
Trên tuyến Porte de Clignancourt- Porte d'Orieans,
Bạn luôn ngửi thấy mùi giấy cháy;
Một con chuột vẻ thăm dò ở trạm Saint-Michel
hình như muốn hỏi:
Thế kỷ này là thế kỷ gì,
Thưa mấy ông mấy bà thân mến ?
Tôi lặn lội chậm rãi qua ngày
Và, lại quên, không nhớ điều quan trọng nhất.
Castle
The guards
cried out incomprehensibly
in a
mountain tribe's guttural dialect.
Venetian
windows opened and closed.
Long
limousines arrived and left.
Someone
seemed to be dying in the palace.
A black
banner unfurled,
then drew
back like a grass snake's tongue.
Swallows,
psalms, grew frantic with worry...
But who
could it have been,
since the
castle had been empty for so long,
given up to
bats and irony?
Still
everything seemed to indicate
that
somebody was dying in the palace.
One couldn't
overlook
the signs of
life.
Adam Zagajewski
Lâu Đài
Lính gác la điều chi không
hiểu
Bằng 1 thứ tiếng Mán Mường gì đó
Cửa sổ chớp
mở và đóng
Những chiếc
xe li mô dzìn tới rồi đi
Hình như có
ai chết ở trong tòa lâu đài
Một tấm vải đen
trải ra rồi lại cuốn lại
Như cái lưỡi
rắn cỏ.
Những con
chim nhạn, những lời kinh cầu trở thành tán loạn.
Nhưng ai chết
mới được chứ, bởi là vì đã từ lâu
Tòa lâu đài
trống rỗng
Trao số phận
của nó cho lũ dơi và sự tiếu lâm, khôi hài?
Tuy nhiên, mọi
điều đều chỉ ra chỉ 1 điều
Có 1 người nào
đó chết ở trong tòa lâu đài.
Người ta không
thể coi nhẹ những ký hiệu của cuộc đời.
Bruce Weigl
The Metaphysician
in the Dark: An Interview
Nhà Siêu hình
trong Bóng tối: Một cuộc phỏng vấn
BW: Liệu là
do cuộc hành trình từ Yugoslavia, một cuộc hành trình sau cùng đưa ông
tới New
York, làm ông thành nhà thơ? Liệu kinh nghiệm di dân, 1 cách nào đó,
thúc ép ông
đề ra những câu hỏi mà chỉ thơ ca mới có thể trả lời?
Charles Simic:
Có thể. Nhưng bố ai mà biết được, who can tell? Tôi biết những gã cùng
một cái
nền y chang, trở thành kỹ sư, thợ sửa máy bưu điện. Về một mặt khác,
kinh nghiệm
di dân quả là có thúc ép tôi hỏi, và tiếp tục hỏi, một vài câu hỏi về
lịch sử thế
kỷ 20.
BW: Làm sao
mà ông hòa giải, reconcile, những hình thức lớn rộng hơn của lịch sử,
và lời cầu
nguyện về những điều ghê rợn, the litany of terrors (kể cả những điều
mà ông chứng
kiến khi còn là 1 đứa con nít trong chiến tranh ở Yugoslavia) với những
hình thức
dành riêng, độc nhất, là những hình thức nghệ thuật?
CS: Nhà thơ
Holderlin đã hỏi như vậy rồi: Tại sao thi sĩ trong thời kỳ đốn mạt? Và
Heidegger trả lời: Vào thời đại đêm đen của thế giới, hố thẳm phải được
kinh
nghiệm, và chịu đựng. Và để làm được điều này, thì phải có người xuống
hố thẳm,
reach into the abyss. Tôi tiếp tục tin là, thơ nói nhiều hơn về cuộc
sống tâm
linh của 1 thời đại hơn là bất cứ 1 nghệ thuật khác. Thơ là cái chỗ, ở
đó những
câu hỏi cơ bản khác được đưa ra, về phận người.
WITHOUT END
Also in
death we are going to live,
only in a
different way, delicately, softly,
dissolved in music;
one by one
called out to the corridor,
lonely and yet in a group,
like
schoolmates from the same class
which extends beyond the Ural Mountains
and
reaches the Quaternary. Released
from unending conversation on politics,
open
and candid, at ease, even though
shutters are being closed with a bang
and hail
will rattle on the windowsill
its Turkish
march, dashing,
as usual.
The world of appearances won't fade away
at once, for a long time it will
continue
to grumble
and curl like a wet
page thrown
into the fire. The quest for perfection
will find fulfillment casually, it will
bypass
all
obstacles just as the Germans
learned how
to bypass the Maginot Line. Paltry
things, forgotten, kites made of the
thinnest
paper, brittle leaves from past autumns,
will recover
their immortal dignity and the systems,
big and victorious, will wither like a
giant's sex.
No longing anymore. It will overtake
itself,
amazed that it chased for so long
its arctic
shadow. And we will be no more,
not having learned yet
how to live
at such an altitude.
Adam Zagajewski: Without End
TRY TO
PRAISE THE MUTILATED WORLD
Try to
praise the mutilated world.
Remember June's long days,
and wild
strawberries, drops of rose wine.
The nettles
that methodically overgrow
the
abandoned homesteads of exiles.
You must
praise the mutilated world.
You watched
the stylish yachts and ships;
one of them
had a long trip ahead of it,
while salty
oblivion awaited others.
You've seen
the refugees going nowhere,
you've heard
the executioners sing joyfully.
You should
praise the mutilated world.
Remember the moments when we were together
in a
white room and the curtain fluttered.
Return in
thought to the concert where music flared.
You gathered acorns in the park in
autumn
and leaves
eddied over the earth's scars.
Praise the
mutilated world
and the gray
feather a thrush lost,
and the
gentle light that strays and vanishes and returns.
Adam
Zagajewski: Without End
Hãy cố mà ca ngợi thế
giới bị tùng xẻo
Hãy cố mà ca ngợi thế
giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ những ngày dài Tháng Sáu
và những trái dâu dại, những giọt rượu vang hồng
Những cây tầm ma mọc um tùm một cách có hệ thống
những trại ấp bỏ hoang của những người lưu vong.
Bạn phải ca ngợi thế giới bị tùng xẻo.
Bạn ngắm những chiếc du thuyền kiểu cách và những chiếc tầu
một trong chúng thì có một chuyến đi dài phía trước mặt,
trong khi sự lãng quên đẫm vị mặn của muối chờ đợi những chiếc còn lại.
Bạn đã nhìn thấy những người tị nạn chẳng có 1 nơi chốn nào để mà tới
Bạn đã nghe đám đao phủ hát một cách thật là sảng khoái.
Bạn nên ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ khoảnh khắc mà chúng ra cùng bên nhau
Trong căn phòng trắng và tấm màn xốn xang.
Hãy để cái đầu của mình trở về buổi hòa tấu khi âm nhạc bừng lên.
Chúng ta nhặt trái sồi ở công viên vào mùa thu
và những chiếc lá xoay xoay ở bên trên những vết sẹo trên mặt đất.
Hãy ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Và chiếc lông xám của con chim hét đã mất
Và ánh sáng dịu dàng lang thang, biến mất, rồi trở lại.
Bài thơ “Hãy ca ngợi một thế
giới bị tùng xẻo”, lần thứ nhất được
đăng trên số báo “đen” hậu-11/9, của tờ Người Nữu Ước.
When I read it I was struck,
first, by an awareness that, far from
lecturing his reader, the speaker was speaking to himself; his use of
"You" (a Zagajewski trademark) a welcome change from the
self-important I-deology of so many contemporary poets. It struck me,
then,
that he had brilliantly obeyed his own imperatives - "Remember ....
Remember .... Return .... Praise" - and had made me do the same. More
generally, I was arrested by the authority of the voice, the courage
and wisdom
of a call to praise in a time (like any other) of mutilation: praise, a
word
with Christian associations, repeated with increasing urgency in the
refrain,
acquiring the force of a liturgical response, a prayer. Behind the
distinctive
new voice, one can hear a voice heard in Auden's "Musée des Beaux
Arts" ("About suffering they were never wrong / The Old
Masters"), juxtaposing "miraculous birth" with "dreadful
martyrdom" in which "the torturer" plays a part.
Khi đọc bài thơ “Hãy cố ngợi ca
thế giới bị tùng xẻo”, tôi bị chấn
động, thứ nhất, từ nỗi quan hoài, thay vì đọc lên giọng ‘mấy lời’ với
độc giả
thì nhà thơ lại nói với chính mình; cách sử dụng đại từ “You”, "Bạn",
một thương hiệu của Zagajewski quả là một sự chuyển đổi thật tuyệt,
tách ra
khỏi cái thói tự quan trọng mình của rất nhiều nhà thơ đương thời. Rồi
tôi còn
bị chấn động bởi sự kiện, nhà thơ thật thông minh, thật duyên dáng tuân
theo những
mệnh lệnh của chính mình - Hãy nhớ... Hãy nhớ... Hãy trở lại.... Hãy
ngợi ca –
và tôi cũng làm như vậy.
Nói chung là, tôi còn bị chấn động hơn thế nữa, bởi giọng quyền uy, sự
can đảm
và tính minh triết của một lời kêu gọi, hãy ngợi ca vào 1 thời [như bất
cứ mọi
thời] của sự tùng xẻo: ca ngợi, praise, một từ với những gia nghĩa mang
tính Ky
tô giáo, được lập đi lập lại với cường độ của sự khẩn thiết cứ thế tăng
dần, ở
điệp khúc, đòi hỏi một sức mạnh của 1 đáp ứng mang tính tế lễ, một lời
cầu
nguyện, khẩn cầu, cầu xin, a prayer.
Đằng sau giọng thơ mới mẻ một cách thật rành rẽ, phân biệt này, chúng
ta nghe
ra một giọng thơ cũ, của một bậc thầy, của Auden, trong "Viện Bảo Tàng
Nghệ Thuật:: "Về đau khổ họ chẳng hề bao giờ lầm/Những Vị Thầy Cũ",
và, chồng lên, sự “ra đời thần kỳ, giống như là 1 phép lạ”, là, sự
"tuẫn
nạn đáng sợ, chết chóc” trong đó, “tên đao phủ, kẻ tra tấn, tên hành
hạ”, cũng
có phần đóng góp của nó, vai trò của nó....
JON STALLWORTHY đọc Eternal
Enemies: Light in the grime [Ánh sáng trong bụi bẩn, cáu,
ghét]
TLS
Dec 4 2009
ONE-MAN
CIRCUS
Juggler of
hats and live hand grenades.
Tumbler, contortionist, impersonator,
Living
statue, wire walker, escape artist,
Amateur ventriloquist and mind reader,
Doing all
that without being detected
While leisurely strolling down the street,
Buying a
newspaper on some corner,
Bending down to pat a blind man's dog,
Or sitting
across from your wife at dinner,
While she prattles about the weather,
Concentrating instead on a trapeze in your head,
The tigers pacing angrily in
their cage.
-Charles
Simic
The New
Yorker, Dec 12, 2011
Note: Gánh
Xiệc 1 Người này sao giống GCC quá!
Hà, hà!
Gánh
Xiệc 1 Người
Kẻ tung nón,
lựu đạn thực
Gã nhào lộn,
tay thể dục mềm dẻo,
Tên nhạo nhại, chuyên đóng vai Bác Hồ.
Tượng sống,
Người đi trên dây
Nghệ sĩ chui vô hòm rồi thoát ra, khoá còn trinh.
Gã lảm nhảm
bằng bụng.
Tên đọc ý nghĩ trong đầu khán thính giả.
Làm tất cả
những chuyện đó mà chẳng bị phát hiện
Trong lúc dạo phố
Mua tờ báo tại một góc đường.
Chôm cho trang TV.
Cúi bắt tay con chó của 1 người mù
Cùng Gấu
Cái dùng bữa tối
Mỗi đứa 1 đầu
bàn chiếu tướng lẫn nhau
Trong lúc Bả
lèm bèm về thời tiết
Cái đầu Gấu
lo cú bay trên chiếc đu
Những con hổ giận dữ nhào tới nhào lui trong chuồng
Simic has a
beautiful two-line poem called "The Wind":
Touching me,
you touch
The country
that has exiled you.
This is his
vision: a man lives in apparent intimacy with the world surrounding
him-touching and being touched by it and yet all the while knowing
himself to
be an exile, a stranger who can at best only pretend to be at home
here. Either
the poet or the wind could be the speaker, and still the point would be
the
same.
Robert Shaw
Gió
Mi sờ vô ta
Là mi sờ vô cái xứ sở đã biếm mi, đày mi,
Làm ngọn gió lưu vong
Charles Simic
Nước mưa ở Mẽo chua như
cứt mèo, như 1 anh Mít trong 1 truyện ngắn của
NBT than thở.
Nó cũng là 1 tên Mít lưu vong
Đây là viễn ảnh của anh
ta: một người đàn ông sống
trong 1 căn phòng, trong cái thân mật bề ngoài, với thế giới bao quanh
anh ta -
sờ và bị sờ bởi nó, tuy nhiên, anh ta biết, anh ta là 1 tên lưu vong,
một kẻ tốt
hơn hết thì phải làm ra vẻ đây là nhà của mình. Thi sĩ hay gió thì đều
có thể là
kẻ nói lên ở đây, và là gió hay là thi sĩ, thì cũng rứa.
Torture
Nothing has
changed.
The body is painful,
it must eat,
breathe air, and sleep,
it has thin
skin, with blood right beneath,
it has a goodly supply of teeth and nails,
its
bones are brittle, its joints extensible.
In torture, all this is taken into
account.
Nothing has
changed.
The body
trembles, as it trembled
before and after the founding of Rome,
in the
twentieth century before and after Christ.
Torture is,
the way it's always been, only the earth has shrunk,
and whatever happens,
feels like it's happening next door.
Nothing has
changed.
Only there
are more people,
and next to
old transgressions, new ones have appeared,
real, alleged, momentary, none,
but the
scream, the body's answer for them-
was, is, and
always will be the scream of innocence,
in accord with the age-old scale and
register.
Nothing has
changed.
Except maybe
manners, ceremonies, dances.
Yet the gesture of arms shielding the head has
remained the same.
The body
writhes, struggles, and tries to break free.
Bowled over, it falls, draws in
its knees,
bruises,
swells, drools, and bleeds.
Nothing has
changed.
Except for
the courses of rivers,
the contours
of forests, seashores, deserts, and icebergs.
Among these landscapes the poor
soul winds,
vanishes, returns, approaches, recedes.
A stranger
to itself, evasive,
at one
moment sure, the next unsure of its existence,
while the body is and is and is
and has no
place to go.
Wislawa
Szymborska: Miracle Fair
Tra tấn
Vũ như cẩn
Thân xác đau
đớn
Nó phải ăn,
thở, và ngủ,
Nó có làn da
mỏng, máu ở ngay bên dưới
Nó có nguồn
cung cấp đáng kể là răng và móng
Xương của nó
thì giòn, khớp xương có thể co ruỗi
Trong tra tấn,
tất cả đều được tính đến.
Vũ như cẩn
Thân xác run
rẩy, như nó đã từng run rẩy
Trước và sau
sự thành lập của La Mã
Vào thế kỷ
20 trước và sau Đấng Ky Tô
Tra tấn, đường
hướng ra sao thì vưỡn cứ thế mà tra tấn, chỉ
có trái đất thì co lại,
Và bất cứ
chuyện gì xẩy ra thì cũng y như xẩy ra ở ngay nhà kế bên.
Vũ như cẩn
Chỉ có người
lòi thêm mãi ra
Và kế bên những
vi phạm cũ, những cái mới xuất hiện
Thực, bị cho
là thực, nhất thời, chẳng hề có,
Nhưng tiếng
la thét, câu trả lời của thân xác bị vi phạm thì đã, đang, sẽ, luôn
luôn
Là tiếng
la thét thất thanh của sự ngây thơ vô tội
Y chang
thang biểu, sổ đăng ký ngày xưa.
Vũ như cẩn
Nếu có tí khác,
thì là cung cách, lễ hội, khiêu vũ
[ngày xưa gọi là múa]
Tuy nhiên bộ
dạng những cánh tay ôm lấy đầu, nhằm né tránh vi phạm,
Thì y chang thời Hồng Bàng,
thời Vua Hùng dựng nước.
Thân xác quằn
quại, chiến đấu, và cố thoát ra khỏi.
Cúi rạp xuống,
né, té, lết hai đầu gối,
Thâm tím, xưng
vù, mũi rãi lòng thòng, máu me nhễ nhại
Vũ như cẩn
Ngoại trừ những
con sông vằn vèo, những mép rừng quăn queo,
Bến sông bờ biển rập rình, sa mạc trùng
trùng, băng sơn nhấp nhô.
Giữa những
phong cảnh đó, linh hồn đáng thương
Phiêu du, biến mất, tiến lại gần, lùi ra
xa,
Một kẻ lạ với
chính nó, lẩn trốn
Vào một khoảnh
khắc, thấy thực, chắc chắn là nó,
Khoảnh khắc liền tiếp theo, không phải, nhảm,
bố láo.
Làm gì có cái
gọi là linh hồn.
Trong khi đó
thân xác thì, thì, thì là
Và đếch có 1
chỗ để mà đi.
Poetry Reading
Oh muse, not
to be a boxer is not to be at all.
You shorted us a roaring crowd.
Only twelve
have trickled in
and yet it's
time that we begin.
Half are
here because it's raining;
the rest are
relatives. Oh muse.
The ladies
would swoon and faint but here's the catch:
they'd do it, but only at a boxing
match,
the place
where such Dantesque scenes are allowed,
not to mention the ascent to heaven.
Oh muse.
Not to be a
boxer, but a poet,
to be
sentenced to the ranks of the heavyBlakes,
for lack of muscles, to display before
the world
what might
become assigned reading-if fate should be so
generous-
Oh muse. Oh
Pegasus,
equine angel.
In the front
rowan old man just entered la-la-land,
and dreams his wife has come back from
the grave and
is baking him a cake with plums.
With a bit
of fire but not too much or else the cake might burn
we start the reading. Oh
muse.
Wislawa
Szymborska
[Translated by Joanna Trzeciak, trong tập Miracle Fair]
Note: Bài thơ
này, đã post trên TV, nhưng có 1 cụm từ “hard shelleying” GCC
chịu thua, cầu cứu sư phụ, cũng thua luôn.
Nay kiếm ra 1 ấn bản khác, trong 1 tuyển tập khác, người dịch khác,
khác ấn bản trước.
POETRY
READING
To be a
boxer, or not to be there
at all. O
Muse, where are our teeming crowds?
Twelve
people in the room, eight seats to spare-
it's time to
start this cultural affair.
Half came
inside because it started raining,
the rest are relatives. O Muse.
The women
here would love to rant and rave,
but that's for boxing. Here they must behave.
Dante's Inferno is ringside nowadays.
Likewise his
Paradise. O Muse.
Oh, not to
be a boxer but a poet,
one
sentenced to hard shelleying for life,
for lack of
muscles forced to show the world
the sonnet
that may make the high-school reading lists
with luck. O Muse,
O bobtailed
angel, Pegasus.
In the first
row, a sweet old man's soft snore:
he dreams his wife's alive again. What's
more,
she's making him that tart she used to bake.
Aflame, but carefully-don't
burn his cake! -
we start to read. O Muse.
Wistawa
Szymborska
[Translated by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh]
Some like
Poetry
Some-
not all,
that is.
Not even the
majority of all, but the minority.
Not counting school, where one must,
or the poets
themselves,
there'd be
maybe two such people in a thousand.
Like-
but one also
likes chicken-noodle soup,
one likes compliments and the color blue,
one likes
an old scarf,
one likes to
prove one's point,
one likes to pet a dog.
Poetry-
but what
sort of thing is poetry?
Many a shaky answer
has been
given to this question.
But I do not
know and do not know and hold on to it,
as to a saving bannister (1)
(1) banister: Cái lan can.
Chắc là in sai. NQT
Một vài người
yêu thơ
Một vài người-
Không phải tất
cả, vậy đó.
Cũng không
phải đa số trong tất cả, nhưng mà là thiểu số
Không tính lớp
học, ở đó, một ai đó phải,
Hay những
thi sĩ chính họ,
Như vậy, có thể có hai như thế, trong một ngàn.
Yêu-
Nhưng một ai
đó cũng yêu mì gói gà
Một ai đó yêu được xoa đầu, nựng chim, và màu xanh
Một ai đó yêu
chiếc khăn choàng cổ cũ,
Một ai đó yêu
chứng tỏ quan điểm của mình
Một ai đó yêu
nựng chim của chó.
Thơ-
Nhưng thơ là
cái con mẹ gì thế?
Nhiều người
e lệ đưa ra 1 câu trả lời run run
Nhưng tớ không
biết, và không biết và quyết tâm bám vào cái đếch biết này
Như bám vào
1 cái phao
Torture
Nothing has
changed.
The body is painful,
it must eat,
breathe air, and sleep,
it has thin
skin, with blood right beneath,
it has a goodly supply of teeth and nails,
its
bones are brittle, its joints extensible.
In torture, all this is taken into
account.
Nothing has
changed.
The body
trembles, as it trembled
before and after the founding of Rome,
in the
twentieth century before and after Christ.
Torture is,
the way it's always been, only the earth has shrunk,
and whatever happens,
feels like it's happening next door.
Nothing has
changed.
Only there
are more people,
and next to
old transgressions, new ones have appeared,
real, alleged, momentary, none,
but the
scream, the body's answer for them-
was, is, and
always will be the scream of innocence,
in accord with the age-old scale and
register.
Nothing has
changed.
Except maybe
manners, ceremonies, dances.
Yet the gesture of arms shielding the head has
remained the same.
The body
writhes, struggles, and tries to break free.
Bowled over, it falls, draws in
its knees,
bruises,
swells, drools, and bleeds.
Nothing has
changed.
Except for
the courses of rivers,
the contours
of forests, seashores, deserts, and icebergs.
Among these landscapes the poor
soul winds,
vanishes, returns, approaches, recedes.
A stranger
to itself, evasive,
at one
moment sure, the next unsure of its existence,
while the body is and is and is
and has no
place to go.
Wislawa
Szymborska: Miracle Fair
Tra tấn
Chẳng có gì
thay đổi
Thân xác thì
đau đớn
Nó phải ăn,
thở, và ngủ,
Nó có làn da
mỏng, máu ở ngay bên dưới
Nó có nguồn cung cấp đáng kể là răng và móng
Xương của nó thì giòn, khớp xương có thể co ruỗi
Trong tra tấn, tất cả đều được tính đến.
Chẳng có gì thay đổi
Thân xác run rẩy, như nó đã từng run rẩy
Trước và sau sự thành lập của La Mã
Vào thế kỷ 20 trước và sau Đấng Ky Tô
Tra tấn, đường hướng ra sao thì vưỡn cứ thế mà tra tấn, vũ như cẩn, chỉ
có trái đất là co lại,
Và bất cứ chuyện gì xẩy ra thì cũng y như xẩy ra ở ngay nhà
kế bên.
Four
Our cultural
consciousness is shaped early on in life: We learn from grownups that
the Sun
does not, in fact, revolve around the Earth, that the Earth is but a
speck
within an unfathomable whirl of galaxies, that scientists seek to
discover the
origin of life on earth, that Homo sapiens resulted from a long
evolutionary
process, and that our closest relative is the monkey. The foundation of
Szymborska's worldview seems to be biology lessons learned at
school-many of
her poems find their origins in evolutionary theory itself. Yet she
never makes
the reductionist turn. On the contrary, to her, man is astonishing,
precisely
because even though his
genealogy is so modest and he is bound up in a fragile body, he
nonetheless
stands up to nature and creates his own world of art, values,
discoveries, and
adventures. Man is astonishing because he has "a hand miraculously
feathered by a fountain pen" (in "Thomas Mann"), because he
summons up the courage to write-the "Revenge of a mortal hand" (in
"The Joy of Writing"). The cult of the giant achievements of the
human spirit, of the masterpieces of the past preserved in museums or
passed on
in writing, is counted among the basic ingredients of twentieth century
consciousness. Szymborska cultivates this, mindful that whatever
remains is all
the more precious for having been torn away from an ever watchful
death.
Particular to our century is a coming to grips with the fragility of
our bodily
existence, as treated in one of Szymborska's most moving poems,
"Torture":
Nothing has
changed.
The body is painful,
because the
soul is:
a stranger
to itself, evasive,
at one
moment sure, the next unsure of its existence,
while the body is and is and is
and has no
place to go.
Czeslaw
Milosz: Foreword
LATE-NIGHT
CHAT
Of memory,
the unhappy man's home.
How to guess
time of night by listening to one's own heartbeat
Why we can't
see the end of our nose.
On the
obscurity of words and clarity of things.
Why
songbirds shit while they sing.
The truth
about sneezing in church.
A few tips
on how to make bad wine taste good.
What tunes
to whistle while walking past a graveyard at night.
What to say
to a mirror at four in the morning.
Plus a few
thoughts regarding the little dolls she made that all looked like me.
How she
stuck them with pins and hung them in a tree.
Charles
Simic
Chát Khuya
Về hồi nhớ,
cái nhà của 1 thằng đàn ông bất hạnh.
Làm sao biết
mấy giờ đêm, khi nghe tiếng đập của tim mình.
Tại làm sao
chúng ta không thể nhìn thấy cái chỏm mũi của mình.
Về sự tối tăm
của từ ngữ và sự sáng sủa của sự vật.
Tại làm sao
mấy con chim lại hót khi ị.
Sự thực về
những cú hắt hơi trong nhà thờ.
Vài cái mánh
về làm thế nào cho rượu vang dở thành thứ xịn.
Những điệu
nhạc nào bạn huýt sáo khi đi ngang nghĩa địa vào ban đêm.
Bạn nói với
cái gương điều gì khi ngó cái bộ mặt của bạn ở trong đó, vào lúc 4 giờ
sáng.
Thêm vài ý
nghĩ nho nhỏ về những con búp bế mà em làm ra, tất cả đều giống tớ.
Bằng cách nào
em đính chúng, và treo lên 1 cái cây.
GCC
vừa phán ẩu, thi sĩ Mít tuyệt giống, thì hân hạnh đọc cuộc thảo luận
của các
nhà thơ Việt trên trang litviet của PNH, mở ra bằng câu của Simic, trên.
“Poetry
is an orphan of silence. The words never quite equal the experience
behind
them.”
Vì
không hiểu Simic phán như trên trong trường hợp nào, và thế nào là đứa
trẻ mồ
côi của im lặng, và nó liên quan gì tới thơ, và nhất là, tới thơ
Mít [Nhà thơ Việt còn rắc rối hơn, y bị đặt trước nhiều
vấn nạn…], GCC tò mò lần net, ra bài tiểu luận sau đây, qua đó cho
thấy, đứa trẻ
mồ côi của im lặng liên quan tới “maternal silence”…
Poetry
is understood by the poet to be a child that has lost its mother. A
connection between the experience of the "maternal silence" and
language cannot, it seems, be established. The relation of experience
and
language is tragic like the relation of an orphan to his mother.
Orphan
of
Silence : An
Introduction
Đọc
loáng thoáng bài tiểu luận, thì có vẻ như
đây là kinh nghiệm của riêng Simic, ít ra là như vậy. Ông là nhà thơ
mất mẹ nó
tiếng mẹ đẻ, và phải dùng tiếng Anh để làm thơ.
GCC
vs Mít Poets
Trên
Gió O, GCC mới đọc bài của NY, viết về thơ, và những
người bình thơ. Thấy cũng nhột nhột, đành đi 1 đường.
Nói rõ ra
thì là như thế này, GCC chưa từng
đọc thơ của mấy đấng như NY, TQ, PNH... không phải thơ của họ không
hay, mà vì
không hợp tạng. Thơ NXT thì chỉ đọc được tập thơ tù. Sau thấy lạt quá,
không đọc
nữa.
GCC nhắc tới mấy đấng này, là về vấn đề họ sử dụng tiếng Việt tệ quá
chứ không
phải làm thơ tệ quá.
Cẩn bạch. NQT
Có vẻ
như sau sự xuất hiện của
"Ðồng Nai Tam Kiệt" [Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền], Miền Nam
tuyệt giống, “cái gọi là” thi sĩ?
Brodsky
khi chưa tới 24 tuổi
đầu, bị lịch sử lọc ra [chữ của David Remnick], dù rất tởm đóng vai nhà
văn nhà thơ, nhưng không có cách nào khác để mà trốn, đành đóng trọn
vai của mình, thật bảnh, đỉnh cao tuyệt hảo, the perfect pitch, cũng
vẫn chữ của Remnick.
Còn ông thi sĩ Mít, VC, HC, khi được lịch sử gọi ra, bèn nắn nót viết
tự kiểm, để Đảng cho về làm thơ tán gái tiếp. Vậy mà có đấng, không,
hai đấng thi sĩ, từ hải ngoại về, để châm đóm cho ông HC hút thuốc lào.
Một trong hai ông này từng đóng vai thi sĩ, sĩ quan VNCH.
Và là bạn thân của GCC.
Thơ tán gái bảnh hơn HC. HC không có thơ phổ nhạc, HC không có những
câu thần sầu, thí dụ, “nhớ ai buồn ngất trên vai áo/mưa ở đâu về ? -
như vết thương."
Tuyệt
giống thi sĩ, là vậy.
(1)
(1)
Sau khi tôi
ra tù, không ít bạn trách tôi vì sao lại nhận tội như thế? Có phải là
hèn quá
chăng? Nhưng thực tế hoàn cảnh tôi trong tù rất khốn đốn, sau ba tháng
là sức
khoẻ suy sụp, nếu kéo dài thêm hai tháng nữa thì có thể chết trong tù.
Vì vậy,
trước sức ép ngày đêm của những người công an thụ lý và những hứa hẹn
của họ,
tôi suy nghĩ: phải giữ cái mạng của mình cái đã, phải tồn tại, phải
sống, còn
tác phẩm của mình chẳng đi đâu mà mất, nó còn hay không là do nó, nó có
giá trị
thì nó sẽ tồn tại. Cho nên tôi quyết định nhận tội. Khi tôi viết xong
bản kiểm
điểm (dài 6 trang giấy thếp thì phải), anh công an thụ lý tên N. đọc
ngay, và bảo
"Tốt quá rồi!". Hôm sau, anh đem đến một cái cassette mới toanh, bảo
tôi tự đọc bản kiểm điểm vào máy. Anh cẩn thận dặn tôi phải đọc hết sức
tự
nhiên, không phải như người bị ép buộc hoặc như đọc dictee [3] . Là một
diễn
viên kịch, tôi thừa sức để "diễn" theo đúng ý anh. Tôi muốn tỏ ra hết
sức ngoan ngoãn, cốt để được về. Tôi vừa đọc xong, anh ta chồm dậy, bắt
tay tôi
rối rít và cảm ơn cảm ơn hai lần liền, sau đó cho người đi mua phở cho
tôi ăn.
Anh còn tuyên bố: "Chúng tôi sẽ đề nghị để Tết này anh được về". Tôi
mừng quá, viết thư về cho bà Yến [4] báo tin vui. Thế là suốt những
ngày gần Tết
năm ấy tôi cứ khấp khởi đợi chờ. Sau này tôi biết bà Yến nhà tôi cũng
trong tâm
trạng ấy. Sáng 30 Tết bà bắt anh con rể mang xe đến chờ ở cổng Hoả Lò
suốt từ
sáng tới tối. Nhưng thực tế là tôi không được thả như lời hứa của công
an mà
ngay mồng 4 Tết thì bị chuyển tới "xà lim bộ" [5] và tiếp tục bị
giam, tổng cộng là 18 tháng.
Trích
talawas
Phan
Nhiên Hạo: Nhà thơ Mỹ nổi tiếng Charles Simic đã viết: “Thơ ca là một
trẻ mồ
côi của im lặng. Từ ngữ chẳng bao giờ bình đẳng được với những kinh
nghiệm đằng
sau chúng.” Đằng
sau mỗi bài thơ là đời sống của người làm thơ, đằng sau mỗi câu chữ là
lao tác
nghệ thuật và quan niệm thi pháp. Nhà thơ là một kẻ lạ kỳ: vừa kiêu
hãnh vừa
cảm thấy vô tích sự, vừa làm một thứ nghệ thuật khó tính lại vừa mong
thiên hạ
hiểu mình, vừa muốn sống trọn vẹn cái đời sống riêng tư vừa mang vác
thứ lương
tri công dân tuy gầy gò nhưng khá khỏe mạnh. Nhà thơ Việt còn rắc rối
hơn, y bị
đặt trước nhiều vấn nạn…
Source
GCC
vừa phán ẩu, thi sĩ Mít tuyệt giống, thì hân hạnh đọc cuộc thảo luận
của các
nhà thơ Việt trên trang litviet của PNH, mở ra bằng câu của Simic, trên.
“Poetry
is an orphan of silence. The words never quite equal the experience
behind
them.”
Vì
không hiểu Simic phán như trên trong trường hợp nào, và thế nào là đứa
trẻ mồ
côi của im lặng, và nó liên quan gì tới thơ, và nhất là, tới thơ
Mít [Nhà thơ Việt còn rắc rối hơn, y bị đặt trước nhiều
vấn nạn…], GCC tò mò lần net, ra bài tiểu luận sau đây, qua đó cho
thấy, đứa trẻ
mồ côi của im lặng liên quan tới “maternal silence”…
Poetry
is understood by the poet to be a child that has lost its mother. A
connection between the experience of the "maternal silence" and
language cannot, it seems, be established. The relation of experience
and
language is tragic like the relation of an orphan to his mother.
Orphan
of
Silence : An
Introduction
Đọc
loáng thoáng bài tiểu luận, thì có vẻ như
đây là kinh nghiệm của riêng Simic, ít ra là như vậy. Ông là nhà thơ
mất mẹ nó
tiếng mẹ đẻ, và phải dùng tiếng Anh để làm thơ.
Không liên quan tới
Mít, hoặc nếu
có, là những đời sau này, hoặc nếu liên quan thì ở mức cực cao, mức
ngôn ngữ,
như nhà của hữu thể, của Heidegger.
Đây là 1 vấn đề rất căng, thư thả
bàn sau, nhưng rõ ràng là câu phán không ăn ý với cuộc thảo
luận của mấy nhà thơ, và nhất là, với những dòng của PNH liền theo sau
đó.
Nhưng
bài thơ
này của Simic, thì quả đúng là viết về Sài Gòn:
Vĩnh Cửu
Ðộc giả kín đáo của những cuộc
đời kín đáo
Những chiếc ghế chưa từng có ai đặt đít lên
Những hạt bụi, những ngày khiêu vũ của tụi mi qua rồi.
Những trường học cá vàng
Trên tờ giấy dán tường bong ra
Vẫn để mắt nhìn bạn
Quá trễ cho ngày hôm nay, quá trễ.
Một chiếc thập tự nhỏ nằm trên giường
Ðăm đăm nhìn cái đồng hồ chết.
*
Phòng may vá, ánh sáng ban ngày
lẫn những sợi vải
Qua một cửa sổ nhỏ
Bạn sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy đôi giầy của tôi, Vĩnh Cửu.
Tôi tới, trễ hẹn.
Cây kéo của tôi cắt miếng vải đen
Tôi đính những đinh bạc lên hình nộm của người thợ may
Lầm bầm một cái tên người
Trong khi nhắm ngay tim của nó.
*
Raleigh chơi bài với đám đao phủ
Tôi ngồi lên một con chuột chết ở trong bếp
Ðêm nóng, những đống lửa ủ ở sân sau, nướng.
Không khí sặc mùi hoa sữa
Bà bạn hàng xóm thân thương của tôi chắc chắn khoả thân khi ngủ
Hay đang đốt quẹt để coi mấy giờ rồi.
*
Những cành cây ray rứt trong gió
Liệu biển có nghe lời thú tội của chúng?
Những cụm mây trắng hẳn là nghĩ thế.
Chúng đổ xô tới để nghe.
Con tầu trên đường tới thiên đàng
Như tắc ngẫng ở nơi chân trời
Bị ghim bởi một cây kim vàng óng ánh ánh mặt trời
Chỉ có những tảng đá lớn hành động, như thể chẳng có gì liên can.
*
Ðó là 1 thành phố quá nhiều
giấu giếm, che đậy
Những tội ác, những kẻ giầu có, những mỹ nhân, những cẳng dài.
Bạn và tôi bị lạc nhiều giờ
Chúng ta đi hỏi 1 tay đồ tể chỉ dẫn đường đi
Hắn ta ngồi chơi phong cầm.
Những con cừu có những cặp mắt hạnh phúc
Nhưng những con dao,
Những kẻ ra tay cứu giúp những con cừu
Thì lại không tỏ ra khoan khoái 1 tí nào.
Mời dzô, mời dzô, mấy chả, hắn ta nói.
*
Lương tâm, thứ quyền lực dễ sợ
Với mạng cớm lớn rộng của nó
Bắt nguội ban đêm,
Nhà tù Phan Ðăng Lưu,
Lao động cải tạo,
Phục hồi nhân phẩm ban ngày
Ðánh, ép tội dởm,
Ðóng đinh thập tự quá nửa đêm, hoặc vừa chớm sáng
Một con chim nhỏ, chết, nằm trong lòng bàn tay tôi
Là tất cả chứng cớ lũ cớm VC có.
*
Cánh đồng cỏ nằm ườn ra bên bờ
1 con suối
Mấy em trần truồng cưỡi ngựa.
Nhớ chứ, làm sao quên.
Mặt trời chói chang trên tường nhà ngoài
Cái cây còn bé tí ở ngoài vườn sợ bóng tối,
Giọng khổ hạnh của con chim hét.
*
Tư tưởng sợ ánh sáng,
Ánh sáng cũng sợ nó,
Thằng nọ sợ thằng kia.
Cả hai cùng lắng nghe tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ
Như đàn cừu bị dẫn tới… Lò Thiêu
Những phút giây mới quí báu làm sao
Xúm xít bên nhau, bấu víu lấy nhau, đừng nhìn ngoái lại
Tất cả đều âu lo, sợ hãi, trong khi đi,
Và không hiểu
Tên quản giáo nghĩ gì.
*
Tiếng xào xạc của gió nơi cửa
sổ mở
Làm những chiếc lá thở dài thật là dài.
“Ta tới với mi như 1 kẻ chết vì tình,”
Chúa nói với Christine Ebner
Vào cái đêm cù lần, oi bức đó
“Ta tới với mi với ước ao của chú rể đối với cô dâu”
*
Hộp nghe nhạc của linh hồn
Chơi những điệu nhạc sến
Trên bầu trời rắc vãi sao
Khi tôi hỏi Chúa
Bỏ đồng xu nào vô cái máy
Chúa đếch thèm trả lời.
Source
The Invisible
Trong vương quốc của những
người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu...
2
Don't the shadows know
something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.
Just today I was admiring the
one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.
Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?
Charles Simic
Liệu những bóng đen biết gì về
nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta
Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ
chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà
Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?
W.G.
Sebald's poems
Placing words
Ðặt chữ
Qua Ðất Ðai
Qua Sông Nước
Tuyển tập Thơ
1964-2001
Tác giả W.G.
Sebald
Kể từ khi
mất
bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái W.G. Sebald
ngày một tăng.
Ông gốc
Ðức nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những tác
phẩm văn xuôi tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức
giới hạn,
điều tiểu thuyết có thể làm được, ông được coi như là một trong
những nhà văn
lỗi lạc nhất của thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.
Như trong
Austerlitz, giả tưởng văn xuôi, 2001, cuộc tìm kiếm người chết, xoay
quanh sự cố,
ám ảnh cái viết của Sebald, và thường khiến ông viết, ở [in] nơi chốn
thứ nhất
– Lò Thiêu. Trong một bài thơ ngắn, Ðâu đó, “Somewhere”, thí dụ, dòng
thơ mở đầu "behind, đằng sau, Turkenfeld",
trở thành,
với sự giúp đỡ của Mr Galbraith, trong lời
giới thiệu, đặc dị hơn nhiều, về 1 nơi chốn khủng khiếp hơn rất nhiều,
quá xa cái
tít đơn giản mà nhà tgơ đề xuất, và, lẽ tất nhiên, vượt hẳn ra khỏi trí
tưởng tượng
của chúng ta: Ngoài cái việc nó đã từng là 1 thành phố, khi chú bé
Sebald, 8 tuổi,
trên đường đi tới Munich, vào năm 1952, Turkenfeld còn là 1 trong 94
tiểu Lò
Thiêu, của Ðại Lò Thiêu, Dachau, và còn là một ga xe lửa trên tuyến
đường nổi
tiếng "Blutbahn" (Vệt Máu). Giản dị, với 6 dòng thơ, vậy mà cái sức
nặng
lịch sử đè lên nó mới khủng khiếp làm sao! [Mấy nhà thơ Mít, có ông đã
từng đi
tù VC, nhớ đọc bài thơ, và bài điểm, trên tờ Người Kinh Tế,
nhá!]
IN
HERACLITUS'S RIVER
In
Heraclitus's river
a fish is busy fishing,
a fish guts
a fish with a sharp fish,
a fish
builds a fish, a fish lives in a fish,
a fish escapes from a fish under siege.
In
Heraclitus's river
a fish loves a fish,
your eyes,
it says, glow like the fishes in the sky,
I would swim
at your side to the sea we will share,
o fairest of the shoal.
In
Heraclitus's river
a fish has
imagined the fish of all fish,
a fish
kneels to the fish, a fish sings to the fish,
a fish begs the fish to ease its
fishy lot.
In
Heraclitus's river
I, the
solitary fish, a fish apart
(apart at
least from the tree fish and the stone fish),
write, at isolated moments, a
tiny fish or two
whose glittering scales, so fleeting,
may only be
the dark's embarrassed wink.
Wistawa
Szymborska
Trong dòng sông
của Heraclitus
Trong dòng sông của
Heraclitus
Szymborska
Trong dòng sông của
Heraclitus
Con cá bắt cá
con cá phanh thây con cá bằng một con cá sắc
con cá xây con cá, con cá ở trong con cá
con cá bỏ trốn khỏi con cá bị bao vây.
Trong dòng sông của Heraclitus
con cá yêu con cá
Đôi mắt em - nó nói - sáng như cá trên trời
Cùng em đến vùng biển chung tôi muốn được bơi
ôi, em xinh đẹp nhất trong đàn cá.
Trong dòng sông của Heraclitus
con cá nghĩ ra một con cá siêu cá
con cá quỳ gối trước con cá, con cá hát cho con cá nghe
cầu xin con cá để được bơi thật nhẹ.
Trong dòng sông của Heraclitus
tôi con cá lẻ đơn, tôi con cá khác biệt
(dẫu chỉ khác với cá cây hay cá đá)
Đôi khi tôi viết về những con cá nhỏ
với lớp vẩy bạc ánh lên, nhanh đến nỗi người ta cứ ngỡ
đó chỉ là bóng đêm đang bối rối chớp mi.
(Thái Linh dịch)
Copy
từ Facebook của dịch giả Thái Linh
[Blog GM]
Trong dòng sông Heraclitus
Trong dòng sông Heraclitus
một con cá bận
câu cá
một con cá
moi ruột một con cá bằng một con cá sắc bén
một con cá trốn
thoát một con cá bị vây hãm
Trong dòng sông Heraclitus
một con cá yêu
một con cá
mắt em rực rỡ,
như cả 1 bày cá trên trời
anh sẽ bơi kế
bên em ra tới biển mà chúng ta sẽ cùng chia sẻ
ôi đẹp nhất
trong bầy cá
Trong dòng sông Heraclitus
một con cá tưởng
tượng ra “cá của mọi cá”
một con cá
quỳ trước “cá của mọi cá”, hát trước “cá của mọi cá”
một con cá năn
nỉ “cá của mọi cá” hãy dễ dãi với số phần cá của nó.
Trong dòng sông Heraclitus
Tôi, một con
cá cô đơn, một con cá riêng lẻ
(riêng lẻ, ít
ra là, tách ra khỏi cá cây, và cá đá)
viết, ở những
khoảnh khắc cách biệt, trơ trọi, về một con cá nhỏ nhoi, hay là hai con,
với những cái
vảy của nó lấp lánh, nhoáng một cái,
có thể chỉ là
cái nháy mắt bối rối của bóng đêm
The Double
Kẻ Kép
Ðược đề xuất,
huých huých [stimulated] bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt
nước, từ cặp song
sinh, ý
tưởng về Kẻ Kép thì phổ biến, thông thuộc ở nhiều xứ sở. Thí dụ câu này
“Bạn
Quí là một
GNV khác”, A friend is another
self, của Pythagore, và tư tưởng Hãy Biết Mình, Know Thyself của trường phái
Platonic, được
gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger, có
nghĩa,
“người đi bộ sóng đôi”. Trong tiếng Scotland thì có từ fetch, cũng có
nghĩa là
“bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái chết đến cho bạn. Từ wraith,
tiếng
Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn
thấy, là thở
hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái
chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu” [ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác
của
mình trôi qua], quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” [ballad] bi
thương
"Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài
này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How
They
Met Themselves"], kể câu chuyện hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng
âm
u vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí dụ, từ Hawthorne ("Howe's
Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly
Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn
(Some Chinese Ghosts).
Những người
Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the ka,
là phần chiếu tướng đích thị của
một con
người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con
người mà thần
thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ
một vài
ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần
ban cho
khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do
Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha
nội, lẹ
lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao
Bồi, bạn của
Gấu, hay như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính...
đi, là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau
đáu chờ đòi mạng, thì đi thế đéo nào được?] Ngược lại, họ tin đó là
bằng chứng
bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách
giải
thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại
được ghi lại trong Talmud, kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời
tìm
hoài
Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC! [a man who, in search of God,
met himself].
Trong
“William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong
truyện. Anh ta
thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian
Gray,
trong tiểu thuyết của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ
Thần Chết.
Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ
bổ túc,
hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở
thành.
Plutarch viết,
người Hy Lạp gọi, cái ngã khác, other
self, bằng cái tên, viên đại sứ của hoàng đế.
Jorge Luis
Borges: The Book of Imaginary Beings
Cuốn sách của
những sinh vật tưởng tượng.
Chán như con
gián!
Quái , khi đọc,
và nhìn hình, GCC nghĩ ngay đến con bọ của
Kafka!
Trong cuốn trên, cũng có 1 con vật lạ của Kafka, A Crossbreed, trích
từ Description of a struggle.
Có
tới hai, xin lỗi.
An Animal
Imagined by Kafka
It is the
animal with the big tail, a tail many yards long and like a fox's
brush. How I
should like to get my hands on this tail some time, but it is
impossible, the
animal is constantly moving about, the tail is constantly being flung
this way
and that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face,
which is
flat almost like a human face, and small and oval; only its teeth have
any
power of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I
have the
feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose could
it have
in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again waiting
calmly
until I am tempted again, and then leaping away once more?
FRANZ KAFKA:
Dearest Father (Translated from the German by Ernst Kaiser and
Eithne Wilkins)
Một con
vật Kafka
tưởng tượng ra
Ðó là 1 con
vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn. Ðòi phen tôi
thèm được sờ
1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh, 1 anh học sinh, xa nhà,
trọ học,
đêm đêm được chồn viếng thăm, trong Liêu
Trai, nhá!] nhưng vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái đuôi, thân
hình luôn
uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng cái mặt không giống, bèn
bẹt y
chang mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái gương bầu dục, chỉ có hàm
răng là
biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn này, lúc thì giấu biệt,
lúc thì
phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần hóa tôi, biến tôi thành
1 con vật
nuôi trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn là thế, nếu không tại sao em thu
cái
đuôi lại, khi tôi với tay tính sờ 1 phát, và sau đó lại nhu mì ngồi,
cho tới
khi tôi thèm quá, thò tay ra, và em lại nguẩy 1 phát, đau nhói
tim?
Szymborska có
hai bài thơ, cực ngắn, thần sầu. Một Gấu đọc ngay trên báo, khi vừa
xuất hiện. Cùng lúc với tay Prospero. Ðọc
1 phát, là sững sờ, 1 bài thơ chống lại cả một nhân loại tha hóa, lừng
lững đi
vào huỷ diệt, vậy mà vẫn tràn trề hy vọng về con người.
Bài kia, thì
nhiều người biết, và hình như được mấy anh VC dịch nữa, dù chửi bố
chúng, nhưng,
bài thơ là đề chửi bà mẹ Gio Linh của PD, đẻ ra đứa con nào là đem
nướng cho
chiến tranh hết đứa đó.
VERMEER
So long as that woman from the
Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn't earned
the world's end.
-Wislawa Szymborska
(Translated from the Polish
by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak)
Một khi mà người đàn bà ở trong
bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.
Source
Wislawa
Szymborska's "Vermeer"
A
poem against the apocalypse
Aug 27th 2010, 16:53 by More
Intelligent Life, A.R. | NEW YORK
I HAPPENED upon this poem on
the New York Review of Books's website, and was
startled by how beautifully Wislawa Szymborska captures the
dance between motion and stillness in Vermeer's "The
Milkmaid"—a moment frozen yet continually happening.
Vermeer
So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.
I love the shape of the poem—it thins like a stream of
milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between
the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated from the
Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak
VIETNAM
"Woman, what's your
name?" "I don't
know."
"How old are you? Where are you from?" "I don't know."
"Why did you dig that burrow?" "I don't know."
"How long have you been hiding?" "I don't know."
"Why did you bite my finger?" "I don't know."
"Don't you know that we won't hurt you?" "I don't know."
"Whose side are you on?" "I don't know."
"This is war, you've got to choose." "I don't know."
"Does your village still exist?" "I don't know."
"Are those your children?" "Yes."
Wistawa Szymborska
Việt Nam
Bà kia ơi, tên bà là gì vậy?
Tôi không biết
Bà bao nhiêu tuổi? Tôi không biết
Tại sao bà đào cái hang đó? Tôi không biết
Bà trốn bao lâu rồi? Tôi không biết
Tại sao bà cắn ngón tay tôi? Tôi không biết
Bà không biết là tôi không làm đau bà ư? Tôi không biết
Bà ở bên nào? Tôi không biết
Ðây là chiến tranh, bà phải chọn bên. Tôi không biết
Làng bà còn không? Tôi không biết
Những người đó là con của bà? Ðúng rồi.
Note: Bài thơ “Bà Mẹ Gio Linh”
này, của nhà thơ Nobel người Ba
Lan, Wistawa Szymborska, giá mà được PD phổ nhạc nữa, nhỉ?
Bài thơ hình như đã được vài người dịch rồi. GCC dịch thêm 1 lần nữa,
để mừng
sinh nhật người nhạc sĩ vĩ đại, đời đời đau “vết thương di tản”!
Hai bài thơ, cực ngắn, 1, chống
lại Apocalyse, 1, chửi bố Cái Ác Bắc Kít.
Thơ như thế, đâu phải thứ thơ tản mạn bên tách cà phê sau khi du ngoạn
Ðáy Ðịa Ngục, về!
Làm thơ như chẳng có gì xẩy ra?
TTT chẳng đã mơ thứ thơ này,
nhưng chịu thua:
Khi ra khỏi trại tù, trên đường
về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập
mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng
mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm
sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Lại
viết?
TTT trả lời LHK, trong Mảng Lưu Vong
Nguồn
Có vẻ như sau sự xuất hiện của
"Ðồng Nai Tam Kiệt" [Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền], Miền Nam
tuyệt giống, “cái gọi là” thi sĩ?
Brodsky khi chưa tới 24 tuổi
đầu, bị lịch sử lọc ra [chữ của David Remnick], dù rất tởm đóng vai nhà
văn nhà thơ, nhưng không có cách nào khác để mà trốn, đành đóng trọn
vai của mình, thật bảnh, đỉnh cao tuyệt hảo, the perfect pitch, cũng
vẫn chữ của Remnick.
Còn ông thi sĩ Mít, VC, HC, khi được lịch sử gọi ra, bèn nắn nót viết
tự kiểm, để Đảng cho về làm thơ tán gái tiếp. Vậy mà có đấng, không,
hai đấng thi sĩ, từ hải ngoại về, để châm đóm cho ông HC hút thuốc lào.
Một trong hai ông này từng đóng vai thi sĩ, sĩ quan VNCH.
Và là bạn thân của GCC.
Thơ tán gái bảnh hơn HC. HC không có thơ phổ nhạc, HC không có những
câu thần sầu, thí dụ, “nhớ ai buồn ngất trên vai áo/mưa ở đâu về ? -
như vết thương.
Tuyệt giống thi sĩ, là vậy
A Thank-You
Note
I owe a lot
to those I
do not love.
Relief in
accepting
others care
for them more.
Joy that I
am not
wolf to
their sheep.
Peace be
with them
for with
them I am free –
love neither
gives
nor knows
how to take these things.
I don't wait
for them
from window
to door.
Almost as
patient
as a sun
dial,
I understand
what love
never could.
I forgive
what love
never would.
Between
rendezvous and letter
no eternity
passes,
only a few
days or weeks.
Our trips
always turn out well:
concerts are
enjoyed,
cathedrals
toured,
landscapes
in focus.
And when
seven rivers and mountains
come between
us,
they are the
rivers and mountains
found on any
map.
The credit's
theirs
if I live in
three dimensions,
in a
non-lyrical and non-rhetorical space,
with a real,
ever-shifting horizon.
They don't
even know
how much
they carry in their empty hands.
"I owe
them nothing,"
love would
have said on
this open topic.
Wislawa
Szymborka
Một cái note
“Cám ơn bạn”
Tôi nợ nhiều
ở những người
tôi không yêu
Thở phào khi
nghĩ
Nhờ mình
không yêu họ
Cho nên những
người khác lại lo nhiều cho họ hơn!
Vui, vì mình
đâu có phải là
sói đối với
đàn cừu của họ
Bình an cho
họ
Bởi vì đối với
họ thì tôi hoàn toàn vô tư, tự do, tự tại
-tình yêu chẳng
cho,
mà cũng chẳng
biết làm sao mà nhận những chuyện đó
Tôi không đợi
chờ họ
từ cửa sổ
cho tới cửa lớn
thật kiên nhẫn
như mặt trời
từ từ, chậm chạp nhích nhích
tôi ngộ ra,
tình yêu
chẳng bao giờ
có thể.
Tôi tha thứ
cho tình yêu
chẳng bao giờ
sẽ.
Giữa cuộc hẹn
và tờ thư
chẳng vĩnh cửu
nào đi qua
chỉ vài
ngày, hay tuần lễ.
Chuyến đi của
chúng ta hóa ra là thật là tuyệt hảo
Hoà nhạc thưởng
thức
Nhà thờ tham
quan
Phong cảnh
chú mục
Và khi 7 con
sông lớn và núi bự
trờ tới, giữa
chúng ta,
chúng thì
cũng là sông là núi,
có ghê gớm
chi đâu
thứ núi thứ
sông mà chúng ta thấy đến nhàm cả mắt
ở trên bản đồ.
Chúng thế
nào thì chúng thế
một khi mà
chúng ta sống trong thế giới ba chiều
trong không
gian không-vãi linh hồn, không thùng rỗng kêu to
với một chân
trời thiên niên vũ như cẩn
Chúng làm
sao hiểu được
Chúng ôm
trong những bàn tay trống trơn của chúng,
là bao
nhiêu?
Tôi chẳng nợ
gì chúng
Tình yêu chắc
là sẽ nói như thế
Trong đề tài
mở này.
|
|