|
MUSIC HEAR WITH YOU
MUSIC I HEARD WITH YOU WAS MORE
THAN MUSIC ... - CONRAD AIKE
Music
heard with you
will stay with us always.
Grave
Brahms and elegiac Schubert,
a few songs, Chopin's fourth ballad,
a
few quartets with heart-
breaking chords (Beethoven, adagia),
the
sadness of Shostakovich, who
didn't want to die.
The
great choruses of Bach's Passions,
as if someone had summoned us,
demanding
joy,
pure and impartial,
joy
in which faith
is self-evident.
Some
scraps of Lutoslawski
as fleeting as our thoughts.
A
black woman singing blues
ran through us like shining steel,
though
it reached us on the street
of an ugly, dirty town.
Mahler's
endless marches,
the trumpet's voice that opens the Fifth Symphony
and
the first part of the Ninth
(you sometimes call him "malheur!").
Mozart's
despair in the Requiem,
his buoyant piano concertos-
you
hummed them better than I did,
but we both know that.
Music
heard with you
will grow still with us.
Adam
Zagajewski
Nhạc mà nghe với Em thì hết xẩy con
cào cào
Nhạc
mà nghe với em thì
Cứ ở với chúng ta mãi mãi
Brahms trầm trọng và Schubert
bi ai
Một vài bài hát, ballad thứ tư của Chopin
Vài tứ khúc với tiếng dây đàn
làm bể trái tim (Beethoven, adagio)
Nỗi buồn của Shostakovich,
Người đếch muốn chết
Những
bản đồng ca lớn của
Những Ðam Mê của Bach
Như thể có ai vời chúng ta
Đòi
vui
Trong trắng, và vô tư
Niềm
vui trong đó niềm tin
Hiển nhiên như chính nó.
Một
vài mảnh của Lutoslawski
Lang thang, như tư tưởng của
chúng ta lẩn trốn
Một bà đen hát blues
Ôi blues đen chạy qua chúng ta như thép sáng chói
Cho
dù nó tóm được chúng ta ở trên phố
Của cái thành phố xấu xa, dơ dáy ngày nào
Những
bản quân hành không cùng của Mahler
Giọng trumpet mở ra Giao Hưởng số 5
Và
phần đầu của the Ninth
(Em đôi khi gọi là “bất hạnh”)
Sự
chán ngán của Mozart trong Kinh Cầu
Những hoà tấu khúc sôi nổi dành cho dương cầm của ông.
Em
ậm ừ theo chúng bảnh hơn anh nhiều
Nhưng cả hai chúng ta đều biết
Nhạc
mà nghe với Em
Cứ nở mãi ra
Ở mãi mãi
Với chúng ta
(Bạn đọc nào
có thêm tư liệu, thông tin gì về Nh. Tay Ngàn xin vui lòng liên lạc với
tôi.)
Chân
Phương
Liên lạc với
ông, để làm cái gì?
NQT
Bài viết về
1 nhà thơ đã mất, sống 1 đời khổ hạnh để chỉ mê thơ, nhưng, trưng cái
hình của
chính ông CP lên để thờ, rồi còn "vui lòng liên lạc với tôi" nữa chứ!
Ðể ông CP viết
thêm 1 bài nữa về NTN, và trưng thêm 1 cái hình nữa, của…. CP?
Có thấy chuế
không?
Cũng 1 thứ
“bad taste”, theo nghĩa câu của nhà thơ Brodsky, Mĩ mới
là Mẹ của
Đạo Hạnh.
Người thiếu Mĩ thì không bỏ qua bất cứ dịp nào mà không khoe
cái tôi
“đáng Mĩ” của mình ra.
Không có lấy
1 tí “thành thực và khiêm tốn” nào cả.
Chán thật!
NQT
Ông này,
nghe nói “cũng” thi sĩ. Giá mà ông trưng hình của ông, với 1 bài thơ,
dù con
cóc, cũng của ông, thì còn hiểu được.
Viết về 1
thi sĩ đã mất, lấy 1 bài thơ thần sầu của người đó ra đăng, và khoe,
cái lần
tình cờ đọc bài thơ, mê quá, chép ngay vào ruột, để sau này trưng ra,
cùng với
hình của chính mình, 1 nhà thơ tồi [thơ tồi, Gấu không nói bức chân
dung
nhà thơ, tồi, vì sợ họa sĩ NTK buồn], thì thật quá sức “hiểu được” của
GCC.
Ðăng rồi, ngồi
rung đùi, thấy chưa đã, bèn đi thêm 1 đường, nhớ liên lạc với tôi nhé!
Thảo nào
Steiner phán, hãy thí cho nó 1 bài thơ, để nó làm nhà bình thơ, sau khi
“cũng
đành” làm thi sĩ!
Thường thì
ba cái kiểu nhắn tin như trên cũng nhiều, nhưng người viết “cũng” lịch
sự hơn
rất nhiều, thí dụ, tôi rất mê thơ của thi sĩ A, muốn đọc thêm về ông,
ai có làm ơn “share”,
chứ đâu có hỗn như ông này.
Và rõ ràng, ông cần chỉ để đánh bóng ông ta, qua bài
viết cho thấy, toàn chôm chỗ này chỗ kia, trên net, trên báo Văn, Quê
Mẹ…
GCC đâu có
quen ông này. Và cũng chẳng có chút thù hằn, nhưng viết như thế, biết
đâu ông tỉnh ra, bớt tưởng mình là bố chó xồm.
Sao không
hát cho những bà mẹ già....
Câu chuyện
Chế Linh dường như còn ẩn chứa những vấn đề “ khó nói” trên văn bản.
Khó nói đến
nỗi văn bản chính thức của Sở văn hóa – thông tin Thành phố chỉ ghi:
“Chưa phù
hợp với điều kiện của thành phố”.
Đỗ Thi Sĩ
Đúng như thế!
Chưa phù hợp.
Chẳng bao giờ phù hợp.
V/v anh ca sĩ Lính Chê
này, chết là chết ở cái băng rôn,
30 năm tái ngộ.
Nó làm dân Mít nhớ liền tới cái cú 30 năm mới có ngày hôm nay,
vui sao nước mắt lại trào.
Hà Nội cho phép thì được, vì dù sao mày cũng 1 thứ hàng
thần ngơ ngáo, [giống như NMG ra trình diện Hà Nội với cuốn tiểu
thuyết,
và được Hà Nội gật đầu, không bỏ một chữ, hà hà!] từ Canada về, quỳ
trước
chúng
ông, thì chúng ông cũng tha cho mày, sau khi mày chi đủ, thì cho mày
hát.
Nhưng Sài Gòn,
No!
Cho nó
tái
ngộ, thì đúng là nhổ nước miếng, hoặc nói như DTH, ị vào cái ngày 30
Tháng Tư ư?
Có thể
anh Lính
Chê này ngửi ra vấn đề nên mới té xuống mà bò vô nhà thương!
GCC về,
là cũng
phải đi theo cái kiểu của anh. Ghé Hà Nội trước, rồi mới dám ghé Sài
Gòn.
Mong
chóng hồi
phục, rồi về lại Canada.
Mục đích chuyến đi là coi như đạt được rồi.
Take
Care.
NQT
Có thể nói,
khi trở về Hà Nội, phủ phục trước Bắc Bộ Phủ, thì không phải chỉ một
tên nô lệ,
là thằng em Bắc Bộ, mà còn một tên nô lệ tuyệt giống, một tên Da Ðỏ,
một trong những tên Chăm cuối
cùng.
Nhưng 30 năm trở về Sài Gòn, của CL, thì lại
không chỉ một, mà là hai lần hội ngộ.
Cái bài trên RFI, khi phỏng vấn 3 ông nổi
tiếng về tiếng hát CL, mỗi ông nhìn ra 1 được 1 đặc tính tuyệt vời của
dòng nhạc
Sến.
Giọng
ca Chế
Linh với những người hâm mộ Việt Nam
Sao
không hát cho những bà mẹ già….
Câu
chuyện
Chế Linh dường như còn ẩn chứa những vấn đề “ khó nói” trên văn bản.
Khó nói đến
nỗi văn bản chính thức của Sở văn hóa – thông tin Thành phố chỉ ghi:
“Chưa phù
hợp với điều kiện của thành phố”.
Đỗ Thi Sĩ
Đúng như thế!
Chưa phù hợp.
Chẳng bao giờ phù hợp.
V/v ca sĩ Lính Chê
này, chết là chết ở cái băng rôn,
30 năm tái ngộ.
Nó làm dân Mít nhớ liền tới cái cú 30 năm mới có ngày hôm nay,
vui sao nước mắt lại trào.
Hà Nội cho phép thì được, vì dù sao mày cũng 1 thứ hàng
thần ngơ ngáo, [giống như NMG ra trình diện Hà Nội với cuốn tiểu
thuyết,
và được Hà Nội gật đầu, không bỏ một chữ, hà hà!] từ Canada về, quỳ
trước
chúng
ông, thì chúng ông tha, sau khi chi đủ, thì cho mày
hát.
Nhưng Sài Gòn,
No!
Cho nó "tái
ngộ", thì đúng là nhổ nước miếng, hoặc nói như DTH, ị vào cái ngày 30
Tháng Tư ư?
Có thể
anh Lính
Chê này ngửi ra vấn đề nên mới té xuống mà bò vô nhà thương!
GCC về,
là cũng
phải đi theo cái kiểu của anh. Ghé Hà Nội trước, rồi mới dám ghé Sài
Gòn.
Mong
chóng hồi
phục, rồi về lại Xứ Lạnh.
Mục đích chuyến đi là coi như đạt được rồi.
Take
Care.
NQT
Không biết,
trong những bản nhạc dân Hà Nội yêu cầu, và tất nhiên anh Lính Chê phải
lắc đầu,
có Rừng Lá Thấp?
IN THE
ENCYCLOPEDIAS,
NO ROOM FOR
OSIP MANDELSTAM
In the
encyclopedias once again no room for
Osip Mandelstam again he is
homeless still
it's so difficult to find a flat
How to
register in Moscow it's nearly impossible
The Caucasus still calls him Asia's
lowland forest
roars these days haven't arrived yet
Someone else
picks up pebbles on the Black Sea beaches
This shifting investigation goes on
though the uniform
is of a new cut and its wooden-headed tailor
almost fell
over bowing
You close a
book it sounds like a gunshot
White dust
from the paper tickles your nose a Latin
evening is here it snows nobody will
come tonight
it's bedtime but if he knocks at your thin door
let him in
Adam
Zagajewski
Trong Bách
Khoa Từ Ðiển, đếch có Osip Mandelstam
Trong những
cuốn bách khoa toàn thư lại không có chỗ cho Osip Mandelstam
Chàng vưỡn
không nhà, thật khó mà kiếm được 1 căn phòng ở Moscow
Làm sao mà đăng
ký, chuyện khó bằng trời
Dân Caucasus vẫn gọi ông là vùng rừng thấp Á Châu
Gầm rống những
ngày này chưa tới
Một người nào
khác nhặt những viên sỏi ở bờ biển Hắc Hải
Cuộc điều
tra dâu bể vẫn tiếp tục
mặc dù bộ đồng phục thì mới tinh,
và viên
thợ may đầu giống như khúc gỗ, cúi đầu, tí nữa thì té.
Bạn đóng cuốn
sách lại
Và cú đóng của
bạn chẳng khác gì một tiếng súng.
Bụi trắng từ
trong cuốn sách bay ra và làm buồn buồn hai lỗ mũi của bạn
Một buổi chiều
Latinh thì ở đây,
Trời đổ tuyết
Tối nay chẳng
ai tới
Tới giờ lên
giường rồi
Nhưng nếu ông
ta gõ cánh cửa mỏng dính của bạn
Hãy cho ông
ta vô
Phương Xa
Nhổ neo rồi,
thuyền ơi xin mặc sóng
Xô về Đông
hay giạt tới phương Đoài
Xa mặt đất
giữa vô cùng cao rộng
Lòng cô đơn
cay đắng họa dần vơi
Lũ chúng ta
lạc loài dăm bẩy đứa
Bị quê hương
ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá
gì phương hướng nữa
Thuyền ơi
thuyền theo gió hãy lênh đênh
Lũ chúng ta
đầu thai lầm thế kỷ
Một đời người
u uất nỗi chơ vơ
Đời kiêu bạc
không dung hồn giản dị
Thuyền ơi
thuyền xin ghé bên hoang sơ
Men đã ngấm
bọn ta chờ nắng tắt
Treo buồm
cao cùng cao tiếng hò khoan
Gió đã nổi
nhịp trăng chiều hiu hắt
Thuyền ơi
thuyền theo gió hãy cho ngoan
Vũ Hoàng
Chương: Thơ Say
Trang
Thơ VHC
Note: Bài
này mà đi với bài thơ Thuyền Viễn Xứ của 1 em Bắc Kít di cư bán vải Chợ
Bến
Thành thì đúng là Ðỉnh Cao Tuyệt Hảo!
Sóng Ðà
Giang thuyền qua xứ Người,
Chiều nay gửi
tới Quê Xưa
Biết là bao
thương nhớ cho vừa
Trời cao chìm
rơi xuống Ðời
Biết là bao
sầu trên xứ Người….
Quê Bắc của
GCC đấy!
POETRY
READING
To be a
boxer, or not to be there
at all. O
Muse, where are our teeming crowds?
Twelve
people in the room, eight seats to spare-
it's time to
start this cultural affair.
Half came
inside because it started raining,
the rest are relatives. O Muse.
The women
here would love to rant and rave,
but that's for boxing. Here they must behave.
Dante's Inferno is ringside nowadays.
Likewise his
Paradise. O Muse.
Oh, not to
be a boxer but a poet,
one
sentenced to hard shelleying for life,
for lack of
muscles forced to show the world
the sonnet
that may make the high-school reading lists
with luck. O Muse,
O bobtailed
angel, Pegasus.
In the first
row, a sweet old man's soft snore:
he dreams his wife's alive again. What's
more,
she's making him that tart she used to bake.
Aflame, but carefully-don't
burn his cake! -
we start to read. O Muse.
Wistawa
Szymborska
Ðọc
Thơ
Là võ sĩ quyền Anh
Hay đếch thèm có mặt đó
Ôi Nàng Thơ, đám đông chật như nêm,
thính giả mê thơ của chúng ta đâu
rồi?
Mười hai mống trong phòng chia nhau tám chỗ ngồi
Ðã đến giờ khởi sự cái áp phe văn hoá này rồi đấy.
Một nửa chui vô phòng, vì trời bắt đầu mưa
Còn thì là bà con. Ôi Nàng Thơ ơi.
Mấy mụ đàn bà ưa huyênh hoang,
bốc phét
Nhưng đó là ở chỗ đấu quyền Anh.
Ở đây, họ phải bịt cái miệng lại.
Ðịa ngục Dante, đấu trường bây giờ
Thì cũng “cẩm” Thiên Ðàng của ông. Ôi Nàng Thơ.
Ôi, không phải võ sĩ, mà là thi
sĩ
Kẻ bị kết án suốt đời phải “hard
shelleying”
[GCC thua, không biết nghĩa là gì!]
Vì thiếu cơ bắp để trình ra cho thế giới
Bản sonnet có thể lọt vô danh sách dành cho học sinh trung học
Nếu may mắn lọt vô. Ôi Nàng Thơ,
Ôi thiên thần cụt đuôi, Pegasus.
Ở hàng đầu, một ông già dễ
thương nhẹ nhàng ngáy đều đều
Ông đang mơ bà vợ của mình sống lại.
Và hơn thế nữa
Bả sống lại và đang ở trong bếp, lui cui nướng bánh
Ðúng thứ bánh bông lan mà ông già thích ăn
Lửa bếp cháy hừng hực, ôi, coi chừng,
đừng làm cháy bánh bông lan
của ta!
Chúng ta khởi sự đọc thơ. Ôi nàng thơ.
RAINBOW
I returned
to Long Street with its dark
halo of
ancient grime-and to Karmelicka Street,
where
drunks with blue faces await
the
world's
end in delirium tremens
like the
anchorites of Antioch, and where
electric
trams tremble from excess time,
to my
youth, which didn't want
to wait
and
passed on, perished from long
fasting
and strict vigils, I returned to
black
side streets and used bookshops,
to
conspiracies concealing
affection
and treachery, to laziness,
to books,
to
boredom, to oblivion, to tea,
to death,
which took so many
and gave
no
one back,
to
Kazimierz, vacant district,
empty
even of lamentation,
to a city
of
rain, rats, and garbage,
to
childhood, which evaporated
like a
puddle gleaming with a rainbow of gasoline,
to the
university, still trying
clumsily
to seduce
yet another naive generation,
to a city
now selling
even its
own
walls, since it sold
its
fidelity
and honor long ago, to a city
I love mistrustfully and can offer nothing
except what I've forgotten and remember
except a poem, except life.
Adam
Zagajewski
Cầu vồng
Tôi trở về
Con Phố Dài,
Với cái quầng tối của lớp bụi đất lưu cữu của nó –
Với con phố Karmelicka,
nơi bợm nhậu với những bộ mặt xanh lè
Ðợi ngày tận thế trong cơn vã rượu, như
những ẩn sĩ Antioch,
Nơi những chiếc tàu điện run rẩy vì tàn tạ, quá
đát.
Với tuổi trẻ
của tôi, không chịu đợi, cứ thế dài ngoẵng ra,
Rồi chết đi trong trác táng, thức
khuya, thiếu ngủ,
Tôi trở về với
những con phố sau tối đen, và những tiệm sách cũ,
Với những âm mưu che giấu tình
cảm và bội bạc,
Với sự lười biếng,
Với những cuốn sách, sự buồn phiền, lãng quên,
trà, chết,
Chúng lấy thật nhiều và chẳng trả lại ai,
Với Kazimierz,
quận lỵ trống trơn,
Trống trơn
luôn cả lời than van nức nở
Với thành phố
của mưa, chuột, và rác rến
Với tuổi thơ,
bốc hơi như vũng nước
Lóng lánh chiếc cầu vồng dầu gasoline
Với đại học,
vẫn cố gắng 1 cách vụng về dụ khị một thế hệ khác
Với thành phố
bây giờ bán luôn cả những bức tường,
Kể từ khi nó bán sự trung thực, danh dự của
nó từ thuở nào rồi,
Với thành phố
mà tôi yêu một cách hồ nghi
Và chẳng có gì để mà cho nó, ngoại trừ điều tôi đã
quên,
Và nhớ,
Ngoại trừ một bài thơ, ngoại trừ một cuộc đời.
Sebald
… Weiss to
attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been
motivated before
the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has
its equivalent somewhere and
can be truly compensated for, even if it be through
the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche
thought was the basis of our sense of justice and which, he said,
"rests
on a contractual relationship between creditor and debtor as old as the
concept
of law itself”…
W.G.
Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory
and Cruelty in the Work of Peter Weiss
Weiss
tham dự tòa án xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có thể là do ông vẫn còn hy
vọng, một
niềm hy vọng chẳng hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương thì có cái phần tương đương của nó, ở đâu đó, và có
thể thực sự được đền bù, bù trừ, bồi hoàn, ngay cả, sự bồi hoàn này
thông qua nỗi
đau của bất cứ kẻ nào gây ra sự tổn thương”. Tư tưởng này Nietzsche
nghĩ, nó là
cơ sở của cảm quan của chúng ta về công lý, và nó, như ông nói, “nằm
trong liên
hệ có tính khế ước, giữa chủ nợ và con nợ, và nó cũng cổ xưa, lâu đời
như là
quan niệm về luật pháp, chính nó”
W.G.
Sebald: Sự hối hận của con tim.
…
even if it be through the pain
of whoever
inflicted the injury.
Moi, je traine le fardeau de
la faute collective, dis-je,
pas eux.
Jean Améry
viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà
le crime et le châtiment.
Gấu cũng có
thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải lũ
Bắc
Kít?
Thơ
JHV
Người ghi
chú cô đơn: The Solitary Notetaker.
Jasper Johns
Trang giấy viết này ngửi như
mùi gỗ bào trong quan tài
Ui chao, đọc
1 phát, là nhớ bạn ta, tên thợ mộc Joseph Huỳnh Văn!
You Are My
Silent Brethren
You are my
silent brethren,
the dead.
I won't
forget you.
In old
letters I find traces of your writing,
creeping to the page's top
like a snail
on the wall of a psychiatric ward.
Your
addresses and phone numbers pitch camp
in my notebooks, waiting, dozing.
I was in
Paris yesterday, I saw hundreds of tourists,
tired and cold. I thought, they
look
like you,
they can't get settled, they circle restlessly.
You'd think
it would be easy, living.
All you need
is a fistful of earth, a boat, a nest, a jail,
a little breath, some drops of
blood, and longing.
You are my
masters,
the dead.
Don't forget
me.
Đồng bào
Các bạn là đồng bào im lặng
của tớ
Những người chết
Tớ không quên các bạn
Trong những lá thư cũ tớ kiếm
thấy những nét chữ của các bạn,
Tườn vào đầu trang giấy
Như con ốc sên ở trên tường nhà thương điên
Địa chỉ và số phôn của các bạn
thì cắm trại
Trong cuốn sổ tay của tớ,
Chờ đợi, ngủ gà ngủ gật.
Bữa hôm qua, tớ ở Paris, và
tớ thấy hàng trăm du khách, mệt mỏi, rét run.
Tớ nghĩ, họ giống như các bạn, họ
không thể có 1 nơi chốn để ở, cứ lòng vòng không ngừng.
Các bạn nghĩ, sống thì cũng
dễ dàng thôi
Tất cả những gì các bạn cần,
thì là một dúm đất,
Một cái thuyền, một cái lưới, một nhà tù,
Một tí hơi thở, vài giọt máu,
và mong mỏi.
Các bạn là sư phụ của tớ,
Những người chết
Đừng quên tớ.
Iron Train
The train
stopped at a little station
and for a
moment stood absolutely still.
The doors
slammed, gravel crunched underfoot,
someone said goodbye forever,
a glove
dropped, the sun dimmed,
the doors
slammed again, even louder,
and the iron train set off slowly
and vanished
in the fog like the nineteenth century.
Tầu
sắt
Con tầu ngừng lại ở một ga nhỏ
Và trong một chốc lát, nó đứng cực im.
Cửa đóng sầm, sỏi lạo xạo dưới chân
Một người nào đó nói lời giã từ, thiên thu vĩnh biệt
Một cái bao tay rớt, mặt trời
xìu đi
Cửa lại đóng sầm, thật lớn
Và con tầu sắt từ từ rời ga nhỏ
Và biến mất trong sương mù như thế kỷ 19
Adam
Zagajewski
W.G.
Sebald's poems
Placing words
Across the
Land and the Water: Selected Poems 1964-2001. By W.G. Sebald,
translated by
lain Galbraith. Hamish Hamilton; 240 pages; £14.99. To be published in
America
in April by Random House; $25
SINCE W.G.
Sebald's sudden death in 2001, the cult of the Britain-based German
writer has
spread fast. Known for his exquisite prose works that, in their
combination of
the real with the fictional, push at the limits of what novels can be,
he is considered
one of the foremost German writers of his generation. He was also a
poet.
"Across
the Land and the Water" brings together a selection of the poems he
never
published in book form, if at all. Translated by lain Galbraith, the
volume
sketches out a life on the move. Stretching over 37 years, the volume
includes
poems that Mr Galbraith found jotted down in Sebald's archives on
scraps of
paper, others written on menus, theatre programmes or headed paper from
hotels.
They emerge on trains or at the "unmanned/station in Wolfennbuttel",
Sebald covertly observing fellow commuters as he evokes the differing
landscapes
shuttling past.
Unlike his
epic, vertiginous prose, these poems are often condensed and sparse.
And yet
they contain many of the themes that would obsess Sebald throughout his
writing
life. The poet spent his later years in Britain, working at the
Universities of
Manchester and East Anglia. Preoccupied with memory, desire and the
ghostliness
of objects, Sebald can evoke in one poem the faded glamour of "a
forgotten
era/of fountains and chandeliers" or a "turn-of-the-century/frock-coat
and taffeta bow" while in another he will speak of an "ugly/ tower
block" or "moribund supermarkets". This shift between differing
eras could seem forced or artificial. And yet Sebald manages such
movement with
a lightness of touch. Indeed, the driving force behind his work is a
search for
the past, for the forgotten or overlooked: "I wish to inquire/Into the
whereabouts of the dead."
As in
"Austerlitz", his 2001 work of prose fiction, this search for the
dead circles around the occurrence that haunts Sebald's writing, and
which
often prompts him to write in the first place-the Holocaust. In one
short poem,
"Somewhere", for example, the opening line "behind Turkenfeld"
becomes, with the help of Mr Galbraith's introduction, a far more
specific and
terrifying location than Sebald's title suggests. Along with being a
town the
then eight-year-old Sebald would frequently pass on his way to Munich
in 1952,
Turkennfeld was one of the 94 sub-camps of Dachau, and a train station
on the notorious
"Blutbahn" (blood track). Even in a seemingly simple six-line poem,
the sudden weight of historical events can be felt.
This broad
collection also shows Sebald's writing in a less melancholy light. He
may speak
of "the pain my happy/ memories bring" but can also, in one of the
two poems originally written in English, write playfully of a young
woman in
New York describing how much she loves the air-conditioning in her
office as
opposed to the summer heat: "There,/she said, I am/ happy like
an/opened
up oyster/on a bed of ice." His poetry can refer to such heavyweights
as
Goethe or Freud, but it also takes inspiration from the Brothers Grimm
or the
films of Alain Resnais.
Mr Galbraith
does a good job translating these shifting tones and influences.
However, it is
a shame that this volume does not include Sebald's original poems in
the
German. Concerned with the transitory or the ghostly, it is easy to
suspect
that no one translation could pin Sebald down. Sebald himself seemed
aware of
this: "If you knew every cranny/of my heart/you would yet be
ignorant." And yet as these poems show, his talent lay in making the
experience of such ignorance delightful. +
The
Economist, Nov 19-25 2011
Ðặt chữ
Qua Ðất Ðai
Qua Sông Nước
Tuyển tập Thơ
1964-2001
Tác giả W.G.
Sebald
Kể từ khi
mất
bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái W.G. Sebald
ngày một tăng.
Ông gốc
Ðức nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những tác
phẩm văn xuôi tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức
giới hạn,
điều tiểu thuyết có thể làm được, ông được coi như là một trong
những nhà văn
lỗi lạc nhất của thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.
Chấm Dứt và Bắt Ðầu
Lần đầu đọc
bài thơ này, Gấu liên tưởng tới những ngày liền sau ngày 30 Tháng Tư
1975, và
con đường Thống Nhất, nơi có Tòa Ðại Sứ Mẽo, ngổn ngang những chiếc
Falcon, mấy
anh Mẽo bỏ lại, leo máy bay trực thăng, rông một mách.
Quái làm sao, sau đó, mất
sạch.
Và sau đó nữa, không hề xuất hiện, ở bất cứ đâu, trên xứ Mít?
Có vẻ như cái
chấm dứt và cái bắt đầu cuộc chiến Mít, không đúng như bà nhà thơ Ba
Lan, Nobel
văn chương này, miêu tả:
After each
war
somebody has
to clear up,
put things
in order,
by itself it
won't happen.
Sau mỗi cuộc
chiến,
Một người nào
đó phải lo dọn dẹp
Sắp xếp sự vật
thành trật tự
Bởi vì tự thân
chúng,
Ðâu làm được
chuyện này.
Quả có dọn dẹp
cho mọi chuyện trở thành trật tự,
Nhưng còn có 1 chuyện gì khác nữa, đang xẩy ra.
Nếu coi đó là bắt đầu, thì cũng không phải bắt đầu giống những bắt đầu
khác!
Có vẻ như, liền sau 30
Tháng Tư 1975, anh VC Miền Bắc đã lo chở củi Mẽo
về rừng
Tẫu rồi!
Thành thực mà nói bản thân
Gấu rất cám ơn mấy anh Tẫu. Không có mấy anh
Tẫu
là đám sĩ quan VNCH chết hết rồi.
Không phải chỉ họ mà luôn cả vợ chồng con cái.
Nhờ Tẫu đánh
Miền Bắc, kế hoạch tạo ra 1 Sibérie ở Việt Bắc đã không xẩy ra.
Bắc Bộ Phủ
đã tính đầy hết cả lũ Ngụy lên đó, nghĩa là cả Miền Nam, trừ đám
nằm vùng.
THE LITTLE
PINS OF MEMORY
There was a
child's Sunday suit
Pinned to a tailor's dummy
In a dusty
store window
The store
looked closed for years.
I lost my
way there once
In a Sunday
kind of quiet,
Sunday kind of afternoon light
On a street
of red-brick tenements.
How do you
like that?
I said to no one.
How do you
like that?
I said it
again today upon waking.
That street
went on forever
And all
along I could feel the pins
In my back, prickling
The dark and
heavy cloth.
Những cây ghim nho nhỏ của hồi ức
Có 1 bộ đồ con nít mặc bữa Chủ
Nhật
Ðính ở hình nộm của người thợ may
Ở một cửa kính bụi bặm
Tiệm coi bộ đóng cửa từ đời nảo đời nào rồi
Tôi có lần lạc ở đó
Vào một Chủ Nhật êm ả, đại khái là thế
Một chiều Chủ Nhật nhẹ nhàng, đại khái là thế
Trên 1 con phố có những căn nhà gạch đỏ
Bạn thấy thế nào?
Tôi nói với chẳng ai
Bạn thấy thế nào?
Tôi lại nói bữa hôm nay, khi thức dậy
Con phố chạy dài mãi mãi tới
thiên thu, bất tận
Và lúc nào tôi cũng cảm thấy
Lớp vải đen, nặng nề ở trên lưng,
Gai gai với những cây ghim
AT THE
COOKOUT
The wives
of
my friends
Have the air
Of having
shared a secret.
Their eyes are lowered
But when we ask them
What for
They only
glance at each other
And smile,
Which only
increases our desire
To know ...
Something
they did
Long ago,
Heedless of
the consequences,
That left
Such a
lingering sweetness?
Is that the
explanation
For the way
They rest
their chins
In the palms
of their hands,
Their eyes closed
In the
summer heat?
Come tell
us,
Or give us a
hint.
Trace a word
or just a single letter
In the wine
Spilled on
the table.
No reply. Both of them
Lovey-dovey
With the waning sunlight
And the evening breeze
On their faces.
The husbands drinking
And saying nothing,
Dazed and mystified as they are
By their wives' power
To give
And take away happiness,
As if their heads
Were crawling with snakes.
Charles Simic
Ở cái giờ ăn
thịt nướng ở ngoài vườn
Mấy bà vợ của
mấy ông bạn của tôi
Có một cái vẻ
như cùng nhau chia sẻ một bí mật cà chớn gì đó.
Mắt của họ xụ
xuống
Nhưng khi chúng
tôi hỏi
Chuyện gì đó
Thì họ chỉ đưa
mắt nhìn nhau
Rồi mỉm cười
nhè nhẹ
Và như thế
thì lại càng làm tăng thêm nỗi hao hức, tò mò
Muốn biết
chuyện chó gì đây
Của lũ đàn ông
chúng tôi.
Một điều gì đó
Mà họ làm từ
nhiều năm trước
Có khi từ tuổi
còn là học trò tiểu học
Ở trường Ðốc
Binh Kiều
Thị xã Cai Lậy
Mỹ Tho
Cũng nên!
Không để ý đến
hậu quả
Và bây giờ là
tí dịu ngọt còn sót lại
Khi tình cờ
giở cái ngăn kéo cuối cùng,
Giấu kín, ở dưới đáy của dĩ vãng?
Thì chỉ có cách
đoán mò như thế
Ðể giải thích
cái cảnh, kìa, nhìn coi kìa
Họ ôm đôi má,
ôm cái cằm vào trong lòng hai bàn tay
Mắt thì lim
dim
Trong cái nóng
của Mùa Hè Miền Nam?
Nào hãy nói
cho đám đực rựa này nghe coi
Thằng nào hồi
đó đó
Ðã quen em
[làm thịt em?], rồi bỏ em đi lấy em khác
Giầu có hơn,
đẹp gái hơn, con nhà lành hơn?
Thì cứ bật mí
tí ti thôi!
Vẽ một chữ,
hay chỉ một con chữ
Bằng giọt rượu
vang vương vãi
Trên mặt bàn.
Không trả lời.
Cả hai người
Lovey-dovey
Với ánh nắng
nhợt nhạt
Và chút gió
nhẹ của buổi chiều
Trên mặt họ
Ông chồng uống
tiếp
Chẳng nói gì
hết.
Choáng váng
và bị thuốc,
Ngất ngư con tầu đi
Vì quyền lực của những bà vợ
Ban phát
hạnh phúc
Hoặc đem cho
thằng khác
Như thể
trong đầu của họ,
Thì đầy rắn
Bò lúc nhúc,
Tổ sư lũ rắn
này,
Có,
Từ thời còn ở
Thiên Ðàng.
SCHOOL FOR
VISIONARIES
The teacher
sits with eyes closed.
When you
play chess alone it's always your move.
I'm in the
last row with a firefly in the palm of my hand.
The girl with red braids, who
saw the girl with red braids?
*
Do you
believe in something truer than truth?
Do you prick
your ears even when you know damn well
no one is coming?
Does that
explain the lines on your forehead?
Your invisible friend, what happened to
her?
*
The rushing
wind slides to a stop to listen.
The prisoner
opens the thick dictionary lying on his knees.
The floor is cold and his feet
are bare.
A chew-toy
of the gods, is that him?
*
Do you stare
and stare at every black windowpane
As if it were a photo of your unsmiling
parents?
Are you homesick for the house of cards?
The sad
late-night cough, is it yours?
Charles Simic
Zagajewski về
Rilke
Có lẽ thú vị
hơn nhiều, nếu nhìn tác phẩm của Rilke không
trong trắng, tinh khiết, virginal, mà cũng
không lâng lâng, cao tít
tầng mây, ethereal, như nhiều độc giả hình như vẫn thường. Bởi vì, nói
cho cùng,
như đa số những nhà hiện đại văn học, ông là 1 tay chống-hiện đại; một
trong những
xung động chính trong tác phẩm của ông gồm việc tìm kiếm những thuốc
chủng chống
hiện đại tính. Những nhân vật trong những bài thơ của ông di chuyển
trong không
gian tinh thần, chứ không phải trên những đường phố New York hay Paris,
nhưng, bởi
vì cái sự hiện hữu rất ư là căng của họ, họ còn hành động chống lại cái
xấu xí,
giả như có hay thực sự có, của thế giới hiện đại. Ngay cái vẻ “xì nốp”,
đua đòi, quí tộc của Rilke, giả dụ hay không giả dụ, thì có thể coi như
phù
hợp nhiều
với tư tưởng hơn là sự yếu ớt của những nhân vật của ông: Những kẻ quí
tộc, đối
với nhà thơ, đại diện cho những kẻ sống sót của một Âu Châu tốt đẹp
hơn, một đại
lục của tinh thần hiệp sĩ, ngược hẳn lại với sự băng hoại, sa đọa gây
ra bởi hiện
đại tính, chỉ nhắm đô la, lợi nhuận, chỉ mê sản phẩm hàng loạt, dành
cho số đông,
mì ăn liền, thức ăn trường kỳ của Mít chúng ta, thí dụ, hay là đua xe
hơi, Xi Ghêm
Xi Ghiếc.
Ông không [còn]
“cô độc” khi đại diện cho vị thế này….
|
|