*

 




A BIRD SINGS IN THE EVENING

TO LILLIE ROBERTSON

Above the vast city, plunged in darkness,
breathing slowly, as if its earth were scorched,
you, who sang once for Homer
and for Cromwell, maybe even
over Joan of Arc's gray ashes,
you raise your sweet lament again,
your bright keening; no one hears you,
only in the lilac's black leaves, where
unseen artists hide,
a nightingale stirred, a little envious.
No one hears you, the city is in mourning
for its splendid days, days of greatness, when it too could grieve
in an almost human voice. 

Một con chím hót vào buổi chiều

Bên trên thành phố rộng
Chìm vào bóng tối
Thở chầm chậm, như thể trái đất của nó bị huỷ diệt
Mi, đã từng hát một lần cho Homer
Và cho Cromwell, và còn có thể khóc
Trên mớ tro xám của Joan of Arc
Mi lại cất lên giọng than thở ngọt ngào của mi
Tiếng kèn đám ma sáng ngời của mi; chẳng ai nghe
Chỉ trong những chiếc lá lilac đen,
Nơi những nghệ sĩ chẳng ai nhìn thấy, ẩn nấp
Một con sơn ca khích động, hơi thèm thuồng
Chẳng ai nghe mi, thành phố đang tưởng niệm
Những ngày tuyệt vời, chói lọi của nó,
Những ngày vinh quang 30 năm mới có của nó.
Khi nó, cũng có thể đau thương,
Trong một giọng hầu như giọng người

POETRY SEARCHES FOR RADIANCE 

Poetry searches for radiance,
poetry is the kingly road
that leads us farthest.
We seek radiance in a gray hour,
at noon or in the chimneys of the dawn,
even on a bus, in November,
while an old priest nods beside us.

The waiter in a Chinese restaurant bursts into tears
and no one can think why.
Who knows, this may also be a quest,
like that moment at the seashore,
when a predatory ship appeared on the horizon
and stopped short, held still for a long while.
And also moments of deep joy

and countless moments of anxiety.
Let me see, I ask.
Let me persist, I say.
A cold rain falls at night.
In the streets and avenues of my city
quiet darkness is hard at work.
Poetry searches for radiance.

Adam Zagajewski 

Thơ tìm sự tỏa sáng

Thơ tìm sự tỏa sáng
Thơ là con đường vương giả
Dẫn chúng ta xa tít mù.
Chúng ta tìm sự toả sáng trong cái giờ xám xịt
Vào lúc trưa, hay ở những ống khói vào lúc sớm tinh mơ
Ngay cả ở trên xe buýt, vào Tháng Chạp này
Khi một đấng tu sĩ già ngồi kế bên gật gà gật gù cái đầu

Tay bồi bàn trong tiệm ăn Tầu bật khóc
Và chẳng ai có thể nghĩ tại sao.
Ai mà biết được, đây có thể là 1 cuộc tìm kiếm,
Như khoảnh khắc ở bờ biển
Khi con tầu ăn mồi sống xuất hiện nơi chân trời
Con tầu bỗng ngưng, và cứ ngưng như thế trong một lúc lâu.
Hay những khoảnh khắc cực vui, cực sướng

Và những khoảnh khắc không làm sao đếm được
Của âu lo, sao xuyến, nóng nảy.
Ðể tôi coi, tôi hỏi
Ðể tôi khăng khăng năn nỉ, tôi nói.
Một cơn mưa lạnh sẽ tới vào đêm.
Trong những con phố, những đại lộ của thành phố của tôi
Bóng tối lặng lẽ trân mình làm việc.
Thơ tìm sự tỏa sáng.


VIETNAM

 "Woman, what's your name?" "I don't know."
"How old are you? Where are you from?" "I don't know."
"Why did you dig that burrow?" "I don't know."
"How long have you been hiding?" "I don't know."
"Why did you bite my finger?" "I don't know."
"Don't you know that we won't hurt you?" "I don't know."
"Whose side are you on?" "I don't know."
"This is war, you've got to choose." "I don't know."
"Does your village still exist?" "I don't know."
"Are those your children?" "Yes."

Wistawa Szymborska

Việt Nam

Bà kia ơi, tên bà là gì vậy? Tôi không biết
Bà bao nhiêu tuổi? Tôi không biết
Tại sao bà đào cái hang đó? Tôi không biết
Bà trốn bao lâu rồi? Tôi không biết
Tại sao bà cắn ngón tay tôi? Tôi không biết
Bà không biết là tôi không làm đau bà ư? Tôi không biết
Bà ở bên nào? Tôi không biết
Ðây là chiến tranh, bà phải chọn bên. Tôi không biết
Làng bà còn không? Tôi không biết
Những người đó là con của bà? Ðúng rồi.

Note: Bài thơ “Bà Mẹ Gio Linh” này, của nhà thơ Nobel người Ba Lan, Wistawa Szymborska, giá mà được PD phổ nhạc nữa, nhỉ?
Bài thơ hình như đã được vài người dịch rồi. GCC dịch thêm 1 lần nữa, để mừng sinh nhật người nhạc sĩ vĩ đại, đời đời đau “vết thương di tản”! 

SONG OF AN EMIGRÉ

We come into being in alien cities.
We call them native but not for long.
We are allowed to admire their walls and spires.
From east to west we go, and in front of us
rolls the huge circle of a flaming
sun through which, nimbly, as in a circus,
a tamed lion jumps. In alien cities
we look at the work of Old Masters
and we recognize our faces in the old
paintings without surprise. We lived
before and we even knew suffering,
we lacked only words. At the Orthodox
church in Paris, the last White
gray-haired Russians pray to God, who
is centuries younger than they and equally
helpless. In alien cities we'll
remain, like trees, like stones.

Adam Zagajewski

Bài ca của tên di tản

Chúng ta tới sống trong những thành phố xa lạ,
ngoại lai, ngoài hành tinh
Chúng ta gọi họ là thổ dân nhưng cũng không lâu.
Chúng ta được phép trầm trồ trước
những bức tường và những tháp hình chóp của họ.
Chúng ta đi từ Ðông qua Tây, và trước chúng ta
là những dãy vòng tròn lớn ,
của một mặt trời lửa qua đó, nhanh như cắt,
giống như trong rạp xiếc, một con sư tử
được thuần hoá, nhảy qua vòng tròn.
Trong những thành phố xa lạ, chúng ta nhìn
tác phẩm của những Sư Phụ Cổ,
và chúng ta nhận ra bộ mặt của chúng ta,
trong những bức họa cũ, không ngạc nhiên.
Chúng ta đã sống trước đó, và chúng ta biết, ngay cả, đau khổ.
Chúng ta chỉ mù tịt tiếng của họ.
Tại nhà thờ Chính Thống ở Paris,
những người Bạch Nga sau cùng, tóc muối tiêu
cầu nguyện Thượng Ðế,
trẻ hơn họ hàng thế kỷ, và tất nhiên,
cũng vô dụng, chẳng giúp mẹ gì được ai.
Trong những thành phố xa lạ
Chúng ta lui cui đứng
như cây,
Hay thu tròn 1 cục
như đá.

DIANE WAKOSKI

Charles Simic's Somewhere Among Us a Stone Is Taking Notes

I have not yet decided whether Charles Simic is America's greatest living surrealist poet, a children's writer, a religious writer, or simple-minded. My decision in this matter is irrelevant actually because, whatever he is, his poetry is cryptic and fascinating. He has published two books with Kayak Press, one of the most beautiful and interesting of the little-magazine presses. One of my favorite poems in this book is called "Poem" and it contains all the elements which I admire in Simic's work. He begins the poem with his father writing and when he says he "writes in his coffin" the poem has been transferred into a metaphor perhaps for the poet himself.

I look at times over his shoulders
At all that whiteness. The snow is falling.
As you'd expect. A drop of ink
Gets buried easily, like a footprint,

he says in the second stanza, and you have a metaphor for man in the natural world. Then Simic adds, "I, too, would get lost but there's his shadow / On the wall," and I start thinking the poet is writing about God, perhaps death. And he ends the poem:

When the bottle empties
His great dark hand
Bigger than the earth
Feels for the moon's spigot.

This kind of poem you can turn inside out, make symbolic, make metaphoric, make religious, make aesthetic, and still have a beautiful cryptic little piece, written as if it were a folk poem or perhaps a child's verse perhaps a child's verse that wasn't intended to be complex at all. I like those qualities in poetry. They always restore my faith in the poem; make me feel that we should all stop talking about poetry and sit down and memorize some of the poems we love.

From "Songs and Notes" by Diane Wakoski, Poetry 118 (September 1971).

Ðâu đó giữa chúng ta, một cục đá đang ghi chú

Tôi chưa quyết định được, liệu Charles Simic có phải là 1 nhà thơ Mẽo, siêu thực, hiện đang còn sống, vĩ đại nhất, một nhà văn của con nít, một nhà văn tôn giáo, hay là 1 con người có cái đầu đơn giản, hồn nhiên.
Quyết định của tôi về vụ này thì hơi bị khó, có thể nói, không thích đáng, chẳng đi tới đâu, bởi vì bất kể ông là gì, thì thơ của ông ta vẫn cứ kỳ bí và hớp hồn người đọc. Ông ta cho xb hai cuốn với Kayak Press, một trong những nhà xb đẹp nhất, lý thú nhất của những tiểu tạp chí. Một trong những bài thơ mà tôi thích trong cuốn sách này có cái tên “Poem”, và nó chứa trong nó tất cả những thành phần mà tôi mê nhất trong tác phẩm của Simic.
Ông bắt đầu bài thơ với chuyện viết lách của ông via, và khi ông viết, “ông via của tớ viết trong cái hòm" [quan tài, tiếng Bắc Kít], thì bài thơ bèn chuyển thành một ẩn dụ, có lẽ, cho chính nhà thơ:

Lâu lâu tớ nghiá qua vai ông via của tớ
Trên tất cả cái nền trắng hếu đó. Tuyết đang rơi
Như là bạn mong ước. Một giọt mực
Rớt xuống và bị nuốt chửng liền tức thì,
rất ư là dễ dàng, thật ngon lành.

Ông nói, trong khổ thơ thứ nhì, và bạn có một ẩn dụ về con người trong thế giới tự nhiên. Và rồi Simic thêm vô, “Tôi, tôi cũng mất, nhưng còn cái bóng của ông via tôi/Trên tường,” và tôi [tác giả bài viết] bắt đầu nghĩ về nhà thơ đang viết về Ông Giời, có lẽ, về cái chết.
Và ông chấm dứt bài thơ:

Khi lọ cạn
Bàn tay to kềnh tối thui của ông via tôi
To hơn cả trái đất
Cảm thông cho cái vòi của mặt trăng

Một bài thơ, một thứ thơ mà bạn có thể lật bên trong ra bên ngoài, biến nó thành biểu tượng, thành tôn giáo, thành mỹ học, nhưng vẫn có 1 mẩu kỳ bí đẹp tuyệt vời, viết như thể một bài thơ dân gian, hay 1 bài thơ cho nhi đồng, chẳng hề muốn rối rắm một tí nào. Tôi mê thứ thơ này. Chúng luôn khiến tôi tin tưởng vào thơ ca, tái đặt để niềm tin vào nó. Chúng làm tôi cảm thấy, thôi bỏ chuyện lèm bèm về thơ qua một bên, hãy ngồi xuống, lẩm nhẩm nhớ lại một vài bài thơ mà chúng ta đã yêu mến.


Tếu thật, trong khi GCC ra rả về cái chuyện VC chiêu hồi thi ca hải ngoại, thì server cho biết, bài của Gấu trên blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.

"Hà Nội không bỏ 1 chữ” [mượn chữ của NMG].

Tks, anyway! NQT

Ðọc bài viết cũ, Gấu nhớ ra là vào thời kỳ viết nó, mới từ Hà Nội trở về lại Canada, đầy ắp hình ảnh "Sách Huyền", cũng là thời gian mê đọc John Fowles, một tiểu thuyết gia người Anh, tác giả những cuốn như The Collector, Người Sưu Tập Bướm, đã quay thành phim, và đã từng chiếu ở Sài Gòn trước 1975, chuyện 1 anh chàng mê bướm, và bắt cóc một cô gái, và nhiều tác phẩm nổi tiếng khác nữa, đa số quay thành phim.
Còn là tác giả cuốn The Aristos: A Self-Portrait in Ideas, Poems... tuyệt bản, Gấu phải vô thư viện mượn đọc, và nhân đó viết bài về World Cup, vừa mắt Sến Cô Nương, nhờ vậy được đăng trên talawas. Sến còn chuyển bài về trong nước cho tay Thanh, chủ tờ Tia Sáng (?) nhưng không đăng, sau Gấu có gặp, ông cho biết, anh viết đểu quá, không đăng chứ không phải do ‘nhạy cảm’.
Bài này, đăng trên talawas, cũng "được" hiệu đính. Fowles, được đàn em Sến sửa thành Fowler, tên anh cớm Phòng Nhì Pháp, trong Người Mỹ Trầm Lặng. (1)

(1)

John Fowler, trong cuốn The Aristos: A Self-Portrait in Ideas, Poems... nhân mùa World Cup 1966, đã đưa ra nhận xét: “Bóng đá gồm 22 cây gậy [của tên ăn mày, như các cụ thường nói], đuổi theo một cái âm hộ; cái chày của môn chơi golf là một dương vật cán bằng thép; vua và hoàng hậu trong môn cờ là Laius và Jocasta, mọi chiến thắng đều là một dạng, hoặc bài tiết hoặc xuất tinh.”

Tuyệt. Chỉ 1 câu đó, đủ khiến Gấu lục khắp thư viện Toronto, kiếm cho được cuốn của ông!

Nhưng Fowles hơn thế nhiều. Ông chẳng hề giấu, Thầy của ông là Alain-Fournier (1886-1914), tác giả Le Grand Meaulnes.

Le Grand Meaulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như trên, là “bản gốc”, cho nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn nổi tiếng Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby? “Bạn nào biết, làm ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn làm phiền tôi lắm lắm…”.

Nhưng đâu chỉ Anh Môn, mà tác giả, Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho nhiều tác giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn Hồng Mao có cả một câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông. Với ông này, Anh Môn có tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine, như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một câu trong một lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier: 
"Tôi mê điều huyền diệu chỉ khi nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra nổi, chứ không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi cha nó”.
 [I like the marvelous only when it is strictly enveloped in reality, not when it usepts or exceeds it].
Fowler viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm hiểu nó.

Hà Nội_của Anh Môn
*

Trong bài viết về MT, Gấu cũng chôm 1 ý của Fowles:

Go on, run away, but you'd be far safer if you stayed at home.
(John Fowles trích dẫn Martial, nguyên văn: I, fugi, sed poteras tutior esse domi.)

Trong Tựa đề cho những bài thơ, Foreword to the Poems, John Fowles cho rằng cơn khủng hoảng của tiểu thuyết hiện đại, là do bản chất của nó, vốn bà con với sự dối trá. Đây là một trò chơi, một thủ thuật; nhà văn chơi trò hú tim với người đọc. Chấp nhận bịa đặt, chấp nhận những con người chẳng hề hiện hữu, những sự kiện chẳng hề xẩy ra, những tiểu thuyết gia muốn, hoặc (một chuyện) có vẻ thực, hoặc (sau cùng) sáng tỏ. Thi ca, là con đường ngược lại, hình thức bề ngoài của nó có thể chỉ là trò thủ thuật, rất ư không thực, nhưng nội dung lại cho chúng ta biết nhiều, về người viết, hơn là đối với nghệ thuật giả tưởng (tiểu thuyết). Một bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang cảm nhận điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể là những ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế này: thật khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra khỏi một bài thơ. Go on, run away... Cho dù chạy đi đâu, dù cựa quậy cỡ nào, ở nhà vẫn an toàn hơn.
Khi trở về với thơ, vào cuối đời, Mai Thảo đã ở nhà. Cái lạnh, trong thơ ông, là cái ấm, của quê hương. Của Nhị.

*

DIANNE VIPOND: What role do the female characters play in your fiction?

JOHN FOWLES: I consider myself a sort of chameleon genderwise. I am a novelist because I am partly a woman, a little lost in midair between the genders, neither one nor t' other. I certainly think that most novelists are a result of not being clearly typed sexually. I'm just reading Margaret Drabble's excellent new life of the English novelist Angus Wilson. He was very much such a typical masculine-feminine writer.

Những nhân vật nữ đóng vai trò gì trong tiểu thuyết của ông?
Tôi thuộc giống cắc kè. Tôi là tiểu thuyết gia là do trong tôi có cái phần đàn bà, tôi bị thất lạc tí ti giữa đực và cái, đếch phải đực mà cũng chẳng phải cái. Tôi thực sự tin là đa số nếu không muốn nói, hầu hết tiểu thuyết gia là hậu quả của cái việc đếch biết mình đực hay cái.

Ui chao, đọc ông này phán, thì GCC hiểu ra lý do tại sao không có lấy 1 cuốn tiểu thuyết lận lưng.
Gấu “đực rựa” “một trăm em ơi, chiều nay một trăm phần trăm”, làm sao viết tiểu thuyết được?

All writing, of course, is to some extent autobiographical-"true lies""whether it is fiction or nonfiction. The writer's obsessions and passions permeate his work, and readers who are familiar with Fowles's novels will find in these essays frequent resonances and reflections of themes that they may already have met in the fiction: the lost domaine, the woman as princesse lointaine; evolution and natural history; freedom and responsibility, randomness and hazard; literature, literariness, and the role of the writer. They also reflect his lifelong commitment to left-wing politics, conservation, and "green" issues. And the gift for narrative, for which Fowles's novels are so justly celebrated, is evident in many of these essays. In "Shipwreck," for instance, the opening lines have all the qualities of a compelling story: the feeling of "once upon a time," the powerful sense of place, and the way the first-person narrator draws the reader into the here and now of the tale he is telling.

….take on an elegiac tone, mourning for what is already lost a pleading for the conservation and survival of what is left. Reading these pieces is like listening to the "loud lament of the disconsolate chimera," as Eliot puts it in his "Four Quartets"; as if the voice that speaks had a strong sense of crying in the wilderness, of being "the Word in the desert." One of the bees in Fowles's bonnet is the "lethal perversion" of the collector-another of the themes that inflect and inform his fiction. Clegg, the repellent hero of The Collector, is the archetype of all those natural-history collectors who "in the end collect the same thing: the death of the living"-a statement central to Fowles's relationship to nature and the natural world.

Jan Relf: Introduction

Vùng đất đã mất, nàng công chúa xa vời…

Ðây là đề tài của Anh Môn, được Fowles lập lại, và khuếch đại thêm lên.
Trong bài viết về Joseph Huỳnh Văn, GCC, khi được biết nhà thơ làm thơ về Hà Nội, mà chẳng bao giờ hoàn tất, đã tưởng tượng ra 1 lost domaine, nàng công chúa xa vời của bạn mình, là Hà Nội, như của GCC, là BHD.
Cả cuộc đời Bùi Giáng, thì cũng chỉ cố lập lại những ngày tháng chăn dê của nhà thơ, như trong 1 bài viết của Phạm Xuân Ðài về ông.



Tếu thật, trong khi GCC ra rả về cái chuyện VC chiêu hồi thi ca hải ngoại, thì server cho biết, bài của Gấu trên blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.

"Hà Nội không bỏ 1 chữ” [mượn chữ của NMG].

Tks, anyway! NQT

No Childhood

And what was your childhood like? a weary
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers

Adam Zagajewski

Tuổi thơ ư, No!

Và tuổi thơ của Ngài thì như là cái quái gì?
Một anh phóng viên báo chợ Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ GNV, mà chỉ có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ Bạch Mai, theo con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt lạnh như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về nó.
Đêm, những chiếc lá cây cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy em ca sỡi mặt ám khói.

Source


To My Older Brother

How calmly we walk
through the days and months,
how softly we sing
our black lullaby,
how easily wolves seize our brothers,
how gently
death breathes,
how swiftly
ships swim
in our arteries. 

Gửi ông anh của Gấu

Lặng lẽ làm sao chúng ta tản bộ
Qua những ngày, những tháng
Nhẹ nhàng làm sao
Chúng ta hát bài du em đen,
Dễ dàng làm sao lũ sói VC
Tóm lấy mấy ông anh của chúng ta!
Lịch sự làm sao
Thần Chết thở
Mau lẹ làm sao
Những con tầu bơi
Trong động mạch của chúng ta.

Tierra del Fuego

You who see our homes at night
and the frail walls of our conscience,
you who hear our conversations
droning on like sewing machines
-save me, tear me from sleep,
from amnesia. 

Why is childhood-oh, tinfoil treasures,
oh, the rustling of lead, lovely and foreboding -
our only origin, our only longing?
Why is manhood, which takes the place of ripeness,
an endless highway,
Sahara yellow? 

After all, you know there are days
when even thirst runs dry
and prayer's lips harden. 

Sometimes the sun's coin dims
and life shrinks so small
that you could tuck it
in the blue gloves of the Gypsy who
predicts the future
for seven generations back

and then in some other little town
in the south a charlatan
decides to destroy you,
me, and himself. 

You who see the whites of our eyes,
you who hide like a bullfinch
in the rowans,
like a falcon
in the clouds' warm stockings
-open the boxes full of song,
open the blood that pulses in aortas
of animals and stones,
light lanterns in black gardens.

Nameless, unseen, silent,
save me from anesthesia,
take me to Tierra del Fuego,
take me where the rivers
flow straight up, horizontal rivers
flowing up and down.

Adam Zagajewski

Crucifixion

Crucified Jesus on a yellow cross
Washed down by cold rain
Spreads his arms wide
As if playing the accordion.

He bends his ear down to the instrument
Better to hear its sound
Unaware the passing tinker took it
When he went by cold and hungry. 

They all abandoned him, haughtily,
The revelers, the dancers
Only sparrows, crickets, and snowflakes
Still dance around him. 

The cross is at the crossroads
Where the village road meets the country road.
If you hear music, stop and listen!
It's true, you can hear the music!

Ljubomir Simovic

1935-

Simonic sinh tại Uzice, học văn và triết tại Ðại học Belgrade. Thành công cả về viết kịch và làm thơ. Kể từ khi cuốn sách đầu tay, Slavic Elegies, xb năm 1958, ông có thêm một số tuyển tập và 1 cuốn thơ tuyển.

Ðóng đinh Chúa

Chúa Giê Su bị đóng đinh trên cây thập tự vàng
Mưa lạnh dội xuống, rửa sạch Người
Nguời vươn rộng tay
Như chơi đàn accordion.

Người nghiêng tai xuống gần nhạc cụ
Như để nghe rõ thêm tiếng đàn
Không để ý đến anh hàn nồi đi qua,
Lạnh và đói,
Chôm mẹ cây đàn.

Chúng bỏ rơi Người, lũ người ngạo mạn
Lũ ham vui, đám nhảy nhót
Chỉ có chim sẻ, dế, và những bông tuyết
Vẫn khiêu vũ quanh Người.

Cây thập tự thì ở ngã tư,
Khi đường làng gặp đường tỉnh
Nếu bạn nghe âm nhạc
Hãy ngưng lại, và lắng nghe
Thực đấy, bạn có thể nghe âm nhạc!


Tưởng niệm Brodsky nhân ngày mất của ông

January 2001

Archangelsk, cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết 

Cái ớn lạnh Bắc Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.

Mặt trời rùng mình sau những ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ

Ở Viện Bảo Tàng Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ 

Siêu hình đấu với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian

Một Cuộc Chiến Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước

Và những con mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải

Sau đó, là một cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã được cải tạo

Suốt đêm tôi nghe có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố

Dưới cái vỏ thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,

Tôi thức giấc, bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm cứ thành phố.


 
DEATH'S BOOK OF JOKES

Eager to explain how the wristwatch works
As he shadows me on the street.
He could be the Grim Reaper because he wears black,
Is pale-faced and grimly officious. 

The clock on the old Unitarian church
Had stopped at five to eleven.
The one over the Savings Bank
Said it was exactly three o'clock

When he came after me with his watch,
Whose gothic numerals and absence of hands
He wanted me to inspect and admire
Before I burst out laughing at its price. 

Cuốn sách tiếu lâm của Thần Chết

Hăm hở giải thích cái đồng hồ đeo tay hoạt động như thế nào
Khi ông phủ bóng tôi trên đường phố
Ông có thể là Grim Reaper vì bận bộ đồ đen
Mặt nhợt nhạt và cực kỳ lăng xăng hết chịu nổi

Chiếc đồng hồ nhà thờ cổ Unitarian
Ngưng chạy lúc 5 giờ 17 phút
Cái ở Ngân Hàng Tiết Kiệm phán,
Bây giờ đúng 3 giờ

Khi ông ta đi theo tôi với chiếc đồng hồ của mình
Giờ, là những con số La Mã,
Không có kim
Ông ta muốn tôi kiểm tra và trầm trồ
Trước khi tôi phá lên cười vì cái giá của nó.

Charles Simic

Adam Zagajewski I