*

 






MY MASTERS

My masters are not infallible.
They're neither Goethe,
who had a sleepless night
only when distant volcanoes moaned, nor Horace,
who wrote in the language of gods
and altar boys. My masters
seek my advice. In fleecy
overcoats hurriedly slipped on
over their dreams, at dawn, when
the cool wind interrogates the birds,
my masters talk in whispers.
I can hear their broken speech. 

SAD, TIRED

Sad, tired, lonely, and not pretty,
You stand by the window, next to the canvas
Called the street, the world, or the city,
Madame Arnolfini cut off from her husband.
Bergson's insect sways, sways
Trapped in the spiderweb. Between us,
Oceans flow. Between us, cyclones
Sleep. Between us, wars slumber.
The alienation of others wears on. Between us,
Generals count arrows in a quiver.
Between us, yearning blazes. Sad,
Tired, not pretty, and lonely, please forbear,
Open wide the white fan of the window.

Adam Zagajewski: Without End

BUTTERFLIES

It's a December night, the century's end, dark and calm,  
   draws near.
I slowly read friends' poems, look at photographs,
   the spines of books.
Where has C. gone? What's become of bumptious K. and smiling T. ?
   What ever happened to B. and N. ?
Some have been dead a millennium, while others, debutants, died
   just the other month.
Are they together? In a desert with a crimson dawn?
   We don't know where they live.
By a mountain stream where butterflies play?
   In a town scented with mignonette?

Die Toten reiten schnell, S. repeated eagerly (he too
   is gone).
They ride little horses in the steppe's quiet, beneath a round yellow
   cloud.
Maybe they steal coal at a little railroad stop in Asia and melt
   snow in sooty pots
like those transported in freight cars.
   (Do they have camps and barbed wire?)
Do they play checkers? Listen to music? Do they see Christ?
   They dictate poems to the living.
They paint bison on cave walls, begin building
   the cathedral in Beauvais.
Have they grasped the sense of evil, which eludes us,
   and forgiven those who persecuted them?
They wade through an arctic glacier, soft from the August heat.
   Do they weep? Regret?
Talk on telephones for hours? Hold their tongues? Are they here among us?
   Nowhere?
I read poems, listen to the mighty whisper
   of night and blood.

Adam Zagajewski: Eternal Enemies

Bướm

Đêm tháng Chạp, tận cùng thế kỷ, tối, và êm,
tới gần.
Tôi đọc chầm chậm thơ của bạn bè, nhìn hình bạn,
nhìn gáy sách.
C. giờ ở đâu nhỉ? K. phách lối bây giờ ra sao? T. hay cười?
Chuyện gì đã từng xẩy tới cho B. hay N?
Một số đã chết cả một thiên niên kỷ,
trong khi những đứa khác, những tên tập sự, chết
đâu đó tháng rồi, tháng trước, hay tháng trước nữa.
Liệu họ ở chung với nhau cùng một chỗ?
Một sa mạc với rạng đông đỏ rực?
Chúng ta đâu biết họ sống ở đâu?
Kế bên 1 con suối nơi núi rừng,
bướm bay lèn đá?
Ở 1 thành phố có mùi hoa mignonette?
Die Toten reiten schnell,
[Fate and the muse: Niềm tin và nữ thần thi ca]
S. háo hức lập lại ( anh thì cũng đã đi xa rồi)
Họ cưỡi những con ngựa nhỏ,
nơi thảo nguyên im ắng,
bên dưới một đám mây tròn màu vàng.
Có thể họ ăn trộm than, ở một trạm xe lửa nhỏ ở Á Châu
và đốt nóng tuyết trong những cái chậu bồ hóng,
giống những cái được chuyên chở trên những toa chở hàng.
(Những trại tù, những hàng rào dây kẽm gai chắc là họ có đủ cả?)
Họ chơi trò cờ “dame”? Nghe nhạc? Họ có nhìn thấy Đấng Ky Tô?
Họ đọc thơ cho người sống.
Họ sơn mấy con bò rừng trên tường,
bắt đầu xây nhà thờ ở Beauvais
Họ tóm ý nghĩa của quỉ, nó trốn tránh chúng ta,
và tha thứ cho những kẻ bách hại họ?
Họ lội qua biển băng, mềm đi dưới cái nóng của Tháng Tám.
Họ có khóc không nhỉ? Có ân hận?
Nói chuyện điện thoại, giữ mồm miệng?
Họ ở giữa chúng ta?
Không ở đâu cả?
Tôi đọc thơ, nghe ra có tiếng thì thầm
của đêm và của máu. 

Hát Trong Lò Cải Tạo

Bên Da Màu, trong bài “lại nói chuyện về thơ” của cây viết Phan Xuân Sinh có đoạn: 

... Phạm Duy có gặp một số anh em văn nghệ tại Boston, trong cuộc gặp gỡ nầy có người hỏi Phạm Duy là: “Anh phổ nhạc thơ của nhiều thi sĩ, có hai thi sĩ lớn như Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên. Sao anh không phổ thơ của họ?” Phạm Duy trả lời: “Hai ông nầy thơ hay thật, thế nhưng thơ của hai ông lý trí quá khó phổ thành nhạc được.” Nói thế để chúng ta biết rằng thơ hay chưa chắc làm rung cảm được người đọc...
Source

PD phán như thế, theo tôi, là đúng, thực, theo suy nghĩ của ông, chứ không nhằm che đậy gì hết. Nhạc PD thiên về tình cảm, thứ tình cảm tục lụy, hệ lụy, [hệ lụy, thí dụ, giai thoại ăn chè Nhà Bè, nhờ đó mà dân Mít được thưởng thức bản nhạc phổ thơ MDHT], không phải thứ tình cảm thanh cao như trong thơ TTT, hay TTY. Ðây là do cái tạng của ông, và có thể cũng là do yêu cầu của đa số quần chúng thưởng thức nhạc. Những bài thơ phổ nhạc của TTT, TTY không có nhiều thính giả, những nhạc sĩ phổ thơ của TTT, là bạn thân ngoài đời của ông, họ hiểu ông, thơ của ông, cho nên phổ nhạc thơ của ông.
PD đâu có thuộc cái giới đó.
Ðẩy đến cực điểm, thơ phổ nhạc của TTT hay của TTY muốn nhắm tới cái gọi là không còn chủ âm trong nhạc, hay tới thứ âm nhạc không cần lời.
Vấn đề này lớn quá, chỉ nêu ra đây, như là 1 đề xuất, đặt viên gạch, rồi tính sau.
Nhạc PD, ngay cả phổ thơ, “đừng nhìn em nữa anh ơi, bướm em rách nát rồi”, thì làm sao so với Chiều qua phá Tam Giang, nhớ em đang ngồi thư viện Gia Long, hay lang thang Passage Eden?
Uống ly chanh đường thì phải chơi thêm cái môi em ngọt nữa cơ, mới đủ 1 cặp! 

Cái giai thoại nghe nhạc phổ thơ TTT ở Trại Tù VC mà chẳng tuyệt thấu trời sao?
PD làm sao mà có được những giây phút thần kỳ như thế? 

bài nhớ thi sĩ

Nhớ Già Ung *  Gửi MT 

Sáng nay thức giấc trong nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ

Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
                                        u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi (1) tình đầu

Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối

Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới

Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường

Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
                                              đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào đêm
                                           hành hạ anh đớn đau 

Từ bao giờ anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song tù ngục

Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
                                      chốn bình minh lẩn lút

(Bình minh bình minh anh kêu khẽ
                                       cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
                                               tình thơ hôm nay)

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
                                 sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi
                                             bóng tối sâu thẳm

Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn 

Em, soi bóng em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm. 

Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79 

Thanh Tâm Tuyền Thơ Ở Đâu Xa 

Ghi chú của tác giả:

Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ Ý. 

Ghi chú của người sao lục [NQT]: 

bài nhớ thi sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Độc giả [Thính giả?] đầu tiên của bài thơ, là trại viên Nguyễn Chí Kham, như tác giả Nắng Hồng Phương Nam cho biết. 

Milosz viết:

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.

Khoảnh khắc thần tiên còn hoài hoài, là cái cảnh cả lán tù nghe Bài nhớ thi sĩ được tù  nhân & nhạc sĩ HDT phổ nhạc.

(1) "Buổi tình đầu", không phải "mối tình đầu": Theo bản trên talawas.
Theo NCK, thời gian HDT phổ nhạc thơ TTT, không khí Trại Tù cởi mở hơn trước đó rất nhiều.
Riêng anh, khi được TTT cho đọc bài thơ, rất căng.
Có thể nói, anh là độc giả đầu tiên của “thơ trong tù” của TTT.
Khoảnh khắc thần tiên còn hoài hoài, là cái cảnh cả lán tù nghe Bài nhớ thi sĩ được tù nhân & nhạc sĩ HDT phổ nhạc.
Ðây là 1 bài thơ tù tuyệt vời nhất của TTT, vì trong đó, chứa rất nhiều tình cảm riêng tư dành cho gia đình, hoặc khi thủ thỉ cùng người thân. Mai, Mai Hoa, Hoa Mai…là tên chị Mai Hoa, phu nhân của TTT. Và những lời thơ sau đây, chẳng là lời thủ thỉ của 1 anh Bắc Kít với bà vợ Nam Kít, ư:

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm…

Bài viết về PD, khúc này, GCC mượn “thủ pháp” viết phê bình của Thầy Cuốc. Thầy khen, thí dụ VP, um lên, thấu tới Trời, sau đó, Thầy đi 1 đường bỏ nhỏ, người ta nói VP chẻ sợi tóc làm tư, nhưng “Tún" [Tuấn] tui thấy, lâu lâu VP quên chẻ!
Áp dụng ở đây: Tù VC nghe thơ phổ nhạc TTT, như tù Gulag nghe đọc thơ Mandelstam.

Nhưng không làm sao so với Gấu, đi tù VC nghe nhạc PD và được cứu rỗi!

Quả đúng như thế. Mỗi lần nghe nhạc PD là 1 lần Gấu được cứu rỗi. Tuyệt vời thật.

Lần nghe “Chuyện Tình Buồn” thì được sống lại cả 1 cuộc tình với Cô Bạn, và Sài Gòn những ngày Mậu Thân.
Nghe “Ngày mai đi nhận xác chồng”, sống lại lần về Sóc Trăng đưa xác thằng em trai tử trận về Sài Gòn.
Nghe “Thuyền Viễn Xứ”, nhớ con sông Ðà và xứ Ðoài mây trắng lắm...

Khủng nhất là, mỗi lần được nghe như thế, đều cảm thấy ông Trời già thật mất công, chi ly không thiếu 1 thứ, vì nếu thiếu chỉ 1 thứ, là hỏng cả.

Có thể có bạn đọc TV thắc mắc, Gấu đi tù VC thì cũng như mọi người Miền Nam đi tù VC, cũng có cùng một quá khứ trước 1975 như nhau, và có cùng những giây phút sống lại tương tự như vậy.
Không phải.
Trường hợp của Gấu đặc biệt hơn nhiều. Nếu không đi tù VC, là Gấu mất hẳn 1 phần đời trước 1975 của mình, thế mới ghê, mới khủng chứ.
Thế mới muôn vàn cám ơn VC chứ!

ANNA SWIR

1909-1981

Fire consumed the city of Warsaw. First, the part where the Germans had made the ghetto, and then the rest of the city. A lonely woman running through streets that are on fire is enough as a metaphor of a "limit situation."

Lửa nuốt Warsaw. Thoạt đầu, khu ghetto, sau, trọn thành phố. Một người đàn bà mình ên chạy qua những phố xá rực lửa đủ để trở thành 1 ẩn dụ về một “hoàn cảnh giới hạn”.

 

I'M AFRAID OF FIRE

Why am I so afraid
running along this street
that's on fire.

After all there's no one here
only the fire roaring up to the sky
and that rumble wasn't a bomb
but just three floors collapsing.

Set free, the naked flames dance,
wave their arms
through the gaps of the windows,
it's a sin to peep at
naked flames
a sin to eavesdrop on
free fire's speech.

I am fleeing from that speech,
which resounded here on earth
before the speech of man.

Translated from the Polish by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire

Tôi sợ lửa

Ðó là lý do tôi quá sợ
Khi chạy dọc theo con phố
Ðang cháy 

Chẳng còn một ai
Lửa cuồn cuộn thấu trời
Không phải tiếng bom nổ
Một tòa nhà ba từng sụp đổ

Lửa xổng chuồng,
Lửa khoả thân nhảy múa
Giơ những cánh tay
Qua những khoang cửa sổ

Ðúng là 1 tội lỗi
Lé mắt nhìn
Lửa trần truồng
Một tội lỗi
Nghe lén lời của lửa
Trong cơn xổng chuồng

Tôi bỏ chạy lời của lửa
Ðang vang dội ở đây, trên mặt đất,
Trước lời của con người.

"Hoàn cảnh giới hạn", là thuật ngữ của triết hiện sinh, để diễn tả cái hữu hạn của đời người, sinh tử lão bịnh. Cái vụ một em bé TQ 2 tuổi bị xe cán hai lần đang chấn động cả thế giới thì cũng đâu thua gì cái vụ một ông Mít, may, giữ được cái túi tiền từ 1 tên cướp giựt, nhưng không may, cái túi bị rách, tiền tung toé ra, và dân Mít qua đường tranh nhau lượm bỏ túi.
Một khi cả 1 miền đất thản nhiên bỏ đói 1 đứa con địa chủ, những năm đấu tố, thì mọi cái ác đều được phép, và đều từ…  Mùa Thu mà ra.

Bài thơ sau đây cũng nói về cái cái ác không bao giờ đụng đáy, hoặc đụng trần.

ALEKSANDER WAT

1900-1967

The scene is a river somewhere in Soviet Asia. The helmsman is obviously a Muslim. The narrator is a poet deported by the Soviet authorities to Asia. All this setup is perhaps useful in seeing how such basic data are transformed into a parable on history as a dangerous and ominous force. 

FROM PERSIAN PARABLES

By great, swift waters on a stony bank
a human skull lay shouting:

Allah la rlah.

And in that shout such horror
and such supplication
so great was its despair
that I asked the helmsman:

What is there left to cry for? Why is it still afraid?
What divine judgment could strike it again?

Suddenly a rising wave
took hold of the skull
and tossing it about smashed it against the bank.

Nothing is ever over
-the helmsman's voice was hollow –
and there is no bottom to evil.

Translated from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard Narhan


bay sáng

Lên cao ngàn thước biếng nhác chăn mây
Thả vào ban mai một bầy muốt trắng
cơn ngái ngủ mắc màn giăng kín mặt
chiêm bao đêm qua dường như chưa tắt
(bạn ới nhậu chơi, người bạn vừa mới qua đời
gặp chỗ nao, mình còn chưa kịp hỏi)

miền mơ sáng nay không người
ta bị rơm rạ trói
trên hai tay mật cỏ chảy miên man
giữa sương lan có con giun hót lời phai tàn
bóng ảo chớm xanh chiêm bao đã cạn
Tỉnh giấc ngó đáy trời vắng ngắt
gió đã đánh cắp mây giấu ở ngách ngày
Chân chạm đất bỗng hay mình vừa mất 

Sổ tay đi đường (1)

Mùi mồ hôi mùi thuốc lá mùi phân trâu giữa những kẽ chân đen trũi
Bỗng lặng đi bởi một giọt cốt trầu
Khách ngoái nhìn quê nhà ở mãi đâu ?
*

Kính xe nứt thành mười ba mảnh
Cắt mười ba trời mười ba nắng
Mảnh chợ thưa người mảnh rừng cháy trụi
Mảnh hoa lựu đỏ mảnh râu bắp rơi
Trôi trôi qua tôi bao mảnh mảnh người
*

Ngang qua nhà của một người thương
mảnh sân nhỏ nhẫm dấu chân trẻ nhỏ
một mái nhà trùng trình trong dòng gió
Người say rượu lảo đảo nơi đầu ngõ
Nhớ tôi không mà người chẳng ngoái nhìn
Tôi qua người sao người đứng lặng thinh
Đông cứng giữa tiếng còi xe lênh láng

Blog Sầu Riêng

Khách ngoái nhìn quê nhà ở mãi đâu ?
Trôi trôi qua tôi bao mảnh mảnh người

Tuyệt.

Có 1 từ, không hiểu: nhẫm, trong câu thơ "mảnh sân nhỏ nhẫm dấu chân trẻ nhỏ".

NQT

Những gì thuộc về con người...
From:
Sent: April 5, 2010 12:59:48 AM
To: 

…. Cô Tư lên tiếng cho đồng quê Nam Bộ đang bị công nghiệp hoá bức tử, chứ cổ là con nhà cách mạng thứ thiệt, thì Scarlett với Melanie cái nỗi gì?
Câu được gạch dưới của cổ là chỉ lặp lại lời một người khác trong một blog, và cũng là câu mà "bác" Marx và cách mạng hay trích dẫn, học sinh sau 75 biết ráo, khổ cho Gấu phải truy lục.
Tôi thấy Gấu quá đau đáu với Miền Nam xưa mà thành ra lẩm ca lẩm cẩm như vậy.
Tôi cũng thích văn của cổ bất luận cổ là ai, thuộc nhóm nào.
Với tôi, văn chương có những vô thức sáng tạo, có con người thuần tuý bên ngoài chính trị. Đó là lý do tôi thích GNV, ông cứ lèm bèm những v/đ chính trị, nhưng bên trong ông lại có một con người thuần túy của văn chương, rất nhân hậu và cảm động.
Kính,
Một độc giả. 

Phúc đáp:
Rất nhân hậu và cảm động!
Đa tạ, muôn vàn đa tạ.
Kính

GNV
Source

HW R U?
NQT

-How can I survive without your mail?
-Xạo!

I Remember

W.G. Sebald

 

The day in
the year after
the fall of the
Soviet Empire

I shared a cabin
on the ferry
to the Hoek
of Holland with

a lorry driver
from Wolverhampton.
He& twenty
others were

taking super-
annuated trucks
to Russia but
other than that 

he had no idea where
they were heading. The gaffer
was in control &

anyway it was
an adventure
good money & all
the driver said 

smoking a Golden
Holborn in the upper
bunk before
going to sleep. 

I can still hear
him softly snoring
through the night,
see him at dawn 

climb down the
ladder: big gut
black underpants,
put on his sweat-

shirt, baseball
hat, get into
jeans & trainers,
zip up his

plastic holdall,
rub his stubbled
face with both his
hands ready 

for the journey.
I'll have a
wash in Russia
he said. I

wished him the
best of British. He
replied been good
to meet you Max.

THE ORTHODOX LITURGY

 Deep voices beg insistently for mercy
and have no self-defense
beyond their own glorious singing-though no one
is here, just a disc spinning
swiftly and invisibly. 

One soloist recalls the voice
of Joseph Brodsky reciting his poems
before Americans, unconvinced
by any sort of resurrection,
but glad that somebody believed.

It's enough-or so we think-
that someone believes for us.

Low voices still sing.
Have mercy on us.

Have mercy on me too,
unseen Lord. 

Adam Zagajewski

Nghi Lễ Chính Thống

Những giọng sâu trầm kiên nhẫn nài nỉ lòng khoan dung
Và không tự vệ vượt quá cả tiếng hát vinh quang của riêng chúng -
Mặc dù chẳng có ai ở đây,
Chỉ là một cái dĩa quay vòng vòng thật nhanh và vô hình

Một giọng hát đơn làm nhớ giọng Joseph Brodsky
Ðọc thơ của ông trước tụi Mẽo,
Chẳng đứa nào tin tưởng ở bất cứ 1 thứ tái sinh nào,
Nhưng rất là dzui vì có một thằng cha nào đó tin tưởng chuyện này.

Thế là đủ rồi – như chúng ta nghĩ –
Rằng có một người nào tin tưởng giùm cho chúng ta.

Giọng trầm vẫn hát.
Hãy khoan dung cho chúng ta..

Hãy khoan dung cho tớ nữa nhé.
Chúa đếch ai nhìn thấy kia ơi!


Kể từ khi Charles Simic tới Mẽo từ Belgrade vào năm 1954, ở cái tuổi 16, ông đã ồ ạt chuyển những hình ảnh của mảnh đất không người  thương đau của tuổi thơ của ông vào trong những cuốn thơ và tản văn:

Ðức dội bom Belgrade tháng Tư 1941, khi đó tôi ba tuổi. Tòa nhà bên kia đường trúng bom và bị tiêu huỷ. Tôi chằng nhớ gì về trái bom, mặc dù tôi được nghe kể là, tôi bị văng ra khỏi giường. Ngày hôm sau chúng tôi rời thành phố, di tản, đi bộ….

Bao nhiêu người trong gia đình lúc đó? Tôi nhớ có mẹ tôi, nhưng lại không nhớ có ông bố. Có những người không quen biết nữa. Tôi thấy những cái lưng gù của họ, thấy họ chạy với những khối gù đồ đạc như thế, nhưng không thấy mặt. Cuốn phim của tôi bị đứt.

Mặc dù có tính kể lể đong đếm, Simic bây giờ 61, trong thơ của ông, thì lại không thấy cái tuổi tác theo lối ký sự, biên niên. Ông viết, trong yếu tính của nó, “một bài thơ trữ tình thì là về thời gian bị ngưng lại. Ngôn ngữ chuyển động trong thời gian, nhưng xung động trữ tình thì thẳng đứng.” Những bài thơ thì giống như những cuộn phim Polaroids tự khui, tự mở, trong đó 1 xen, 1 cảnh từ từ tự nó thoát ra từ những hình ảnh không thể giải thích, bất thình lình clic 1 cú nhảy vô cái toàn thể, cái trọn gói đã được nhận ra. Ðây, thí dụ 1 bài thơ trong cuốn thơ mới nhất, Jackstraws:

HEAD OF A DOLL

 
Whose demon are you,
Whose god? I asked
Of the painted mouth
Half buried in the sand. 

A brooding gull
Made a brief assessment,
And tiptoed away
Nodding to himself 

At dusk a firefly or two
Dowsed its eye pits.
And later, toward midnight,
I even heard mice.

Charles Simic

Ðầu búp bế

Mi thuộc về quỷ nào ?
Mi thuộc về chúa nào ?
Tôi hỏi cái miệng tô sơn
Đang vùi một nửa trên cát 

Một con hải âu đang tìm chỗ ấp trứng
Đến nhìn thẩm định chút xíu
Rồi bỏ đi, vừa đi vừa gật gù cái đầu 

Buổi chiều tối, một hai con đom đóm
Lập lòe hai hố mắt
Và đêm khuya, tôi còn nghe thấy
Tiếng chuột kêu

K

Người ta có thể coi bài thơ trên, là bài thơ “Ozymandias,” của Shelley, được viết lại, thu nhỏ lại, với cái đầu khổng lồ của nó bị vùi trong cát:

Tôi gặp 1 tay du lịch từ 1 miền đất cổ xưa –
Người này nói – Hai cái chân đá, rộng, không có thân,
Ðứng trên cát… Gần đó,
Một cái mặt vỡ nát, một nửa chìm trong cát
Chẳng gì còn lại bên cạnh.
Chung quanh tượng Wreck khổng lồ tàn tạ,
Cát cô đơn, trùng lớp, chạy mãi đến vô cùng, không bờ bến, trần trụi

Cái đầu bị chặt chỉ còn lại cái đầu của Ozymandias thì nằm trơ đó, không ai sờ mó, mân mê, nhưng cái đầu con búp bế bị chặt của Simic, thì được ‘lượng giá, thẩm định” bởi 1 con hải âu ban ngày bay trên cát, cặp mắt chỉ còn hai cái lỗ trống hoác thì được “điều tra”  bởi những con đom đóm vào lúc chạng vạng tối; và chắc chắn rồi, vào lúc nửa đêm, đám chuột mò tới để sử dụng những cái răng của chúng.
Một thứ đồ chơi, đồ dởm, hàng mã, 1 hình ảnh sơn phết - một con “búp bế” – là bất cứ 1 thế giá, dù con người dù thần linh, xuất hiện trước 1 kẻ quan sát, không thuộc cái bộ lạc thờ phụng đã dựng lên nó. Ðấng Ozymandias bị chặt đầu, và con búp bế vùi một nửa trong cát của Simic thì đều mất ý nghĩa cá nhân và văn hóa của chúng; con búp bế mù, đã bị chôn vùi một nửa, chỉ còn chờ bị tiêu huỷ, tiêu hóa, bởi những con vật gậm nhấm, rỉa rói. Trong khi phát ngôn viên của Shelley tự mình điều tra về những điêu tàn của sự cao cả, Simic tra hỏi một con “quỉ” hay một vị “thần” đổ nát, gẫy gọng, của một thứ số phận bình thường, tầm thưng - một con búp bế của 1 đứa trẻ - thi sĩ đem bài thơ của mình vào trong cái siêu thực của mọi ngày, của mỗi ngày, đó là cái bầu khí được xác định của Simic.