*

 



HEAD OF A DOLL

 

Whose demon are you,
Whose god? I asked
Of the painted mouth
Half buried in the sand. 

A brooding gull
Made a brief assessment,
And tiptoed away
Nodding to himself 

At dusk a firefly or two
Dowsed its eye pits.
And later, toward midnight,
I even heard mice.

Charles Simic

Ðầu búp bế

Mi thuộc về quỷ nào ?
Mi thuộc về chúa nào ?
Tôi hỏi cái miệng tô sơn
Đang vùi một nửa trên cát 

Một con hải âu đang tìm chỗ ấp trứng
Đến nhìn thẩm định chút xíu
Rồi bỏ đi, vừa đi vừa gật gù cái đầu 

Buổi chiều tối, một hai con đom đóm
Lập lòe hai hố mắt
Và đêm khuya, tôi còn nghe thấy
Tiếng chuột kêu

Kể từ khi Charles Simic tới Mẽo từ Belgrade vào năm 1954, ở cái tuổi 16, ông đã ồ ạt chuyển những hình ảnh của mảnh đất không người  thương đau của tuổi thơ của ông vào trong những cuốn sách thơ và tản văn

Ever since Charles Simic came to America from Belgrade in 1954, at the age of sixteen, he has been transmitting, in a rush of books of poetry and prose, images deriving from the traumatic no man’s land of his youth:
The Germans bombed Belgrade in April of 1941, when I was three years old. The building across the street was hit and destroyed. I don’t remember anything about that bomb, although I was told later that I was thrown out of my bed and across the room when it hit. The next day we left the city on foot….
How many of us were there? I remember my mother but not my father. There were people I didn’t know, too. I see their hunched backs, see them running with their bundles, but no faces…. My film keeps breaking.
Though by the usual systems of counting, Simic is now sixty-one, in his poems he is without chronological age. He has written that in its essence, “a lyric poem is about time stopped. Language moves in time, but the lyric impulse is vertical.” The poems are like self-developing Polaroids, in which a scene, gradually assembling itself out of unexplained images, suddenly clicks into a recognizable whole. Here, for instance, is a poem from Simic’s newest book, Jackstraws: 

Head of a Doll 

Whose demon are you,
Whose god? I asked
Of the painted mouth
Half buried in the sand. 

A brooding gull
Made a brief assessment,
And tiptoed away
Nodding to himself. 

At dusk a firefly or two
Dowsed its eye pits.
And later, toward midnight,
I even heard mice. 

One could call this a miniaturist’s rewriting of Shelley’s “Ozymandias,” with its colossal head half-buried in the sand: 

I met a traveler from an antique land,
Who said—”Two vast and trunk-less legs of stone
Stand in the desert…. Near them, on the sand,
Half sunk a shattered visage lies….
Nothing beside remains. Round the decay
Of that colossal Wreck, boundless and bare
The lone and level sands stretch far away.

Ozymandias’ severed head remains unmolested, and is merely observed by the traveler; but Simic’s severed doll’s head, “assessed” by the daytime gull flying over the sand, has its vacant eye sockets investigated by the firefly at dusk; and surely, at midnight, the mice approach to use their teeth. A painted simulacrum—a “doll”—is what any statue, human or divine, appears to be to an observer who is not a member of the cult that has erected it. The toppled Ozymandias and Simic’s half-buried doll have lost their personal and cultural significance; the blinded doll, half-buried already, is about to be consumed by the nibbling creatures. While Shelley’s speaker invests himself in the ruins of the sublime, Simic questions a broken “demon” or “god” of the most ordinary sort—a child’s doll—bringing his poem into the surreal of the everyday, Simic’s defining atmosphere.

‘The Voice at 3 AM’

June 10, 1999

Helen Vendler



*

Take Care of Your Little Notebook

Charles Simic

Hãy nâng niu cuốn sổ nhỏ của bạn




The House

Do you still remember what the house was like?
The house-a pocket in a snowstorm's overcoat,
houses, low and bulging like Egyptian vowels.
Sheltered by green tongues of trees-
the most faithful was the linden, it shed
dry tears each fall.
Outmoded dresses dangled in the attic
like hanged men. Old letters flamed.
The old piano dozing in the parlor,
a hippo with black and yellow teeth.
On the wall a cross from a failed uprising
hung crookedly, and a photo
of a sad girl-a failed life.
The air smelled like vermouth,
bitter and sweet at once.
Houses, houses, where are you,
under what ocean, in what memory,
beneath the roof of what existence?
While the wind was opening windows, a deep blue
past sneaked into the rooms
and stifled the muslin curtains' breathing.
The fire was death's intended
and brought her bouquets of pale sparks.

Adam Zagajewski

Nhà

Bạn vưỡn nhớ nhà như thế nào chứ?
Nhà - một cái túi trong cái áo choàng là trận bão tuyết,
Những nhà, thấp, lồi ra, như những nguyên âm trong tiếng Ai Cập
Ðược che chở bởi những tàng lá xanh - trung thủy nhất là linden,
Mỗi thu thả xuống những giọt lệ khô.
Những chiếc áo dài cổ lỗ đong đưa trong căn gác xép
Như những tên treo cổ.
Những lá thư cũ cháy bừng bừng thành ngọn lửa.
Cây dương cầm ngủ gà gật nơi phòng khách,
Con hà mã với những chiếc răng trắng và vàng.
Trên trường vặn vẹo một cây thập tự, từ cuộc nổi dậy thất bại,
Một bức hình của 1 cô gái buồn - một cuộc đời thất bại.
Không khí có mùi vermouth,
Vừa đắng lại vừa ngọt.

Nhà, nhà, lũ mi ở đâu?
Dưới biển trời nào, trong hồi ức nào?
Dưới mái đời nào?

Trong khi gió mở toang những cửa sổ,
Một màu xanh sẫm tràn qua, chui vô những căn phòng
Bóp nghẹt hơi thở của những bức màn mỏng.
Lửa là hậu ý của thần chết
Với bó hoa lửa của nó.



Bài này đã được lên Gió O mà tôi không biết. Xin khoe. Và nói thật tôi rất hãnh diện vì trang web này nổi tiếng khó tính.

Blog HH


*

Mây Khói Quê Nhà

Chúc Mừng. NQT



VIỄN KHÁCH

hay là Bài Thơ Làm Trong Tửu Quán 

Đề Tặng 

Có những bài thơ như ánh sao
Sầu lên le lói mấy trùng cao
Tình khơi lai láng trên trang giấy
Cuồn cuộn tương tư tựa sóng trào.

Có những bài thơ như gió mưa
Chẳng cho trần thế đọc bao giờ
Lời nghe xô xát như dông bão
Ai lỡ ngày xanh muôn ước mơ!

Có những thơ yêu đọc dưới đèn

Một người viết để một người xem,
Tay run run mở... lòng tê tái
Chữ nhỏ đôi dòng nước mắt hoen.
Song những bài thơ đau đớn nhất

Là thơ làm chẳng gửi cho ai
Năm năm, rồi đến mười năm nữa
Vẫn gối trên tay những mộng dài.
Là những thơ đây chẳng thắm tình

Lời không tha thiết, ý không minh
Vì chưng mỗi áng hương lòng ấy
Riêng tặng người không biết đến mình 

Lê Huyền Linh
1917-1992


Trang thơ Tomas Transtromer

Nobel 2011

What’s Wrong With the Nobel Prize in Literature

Tim Parks

So the Swedish poet Tomas Tranströmer wins the Nobel prize for literature. Aside from a couple of long poems available on the net, I haven’t read Tranströmer, yet I feel sure this is a healthy decision in every way. Above all for the Nobel jury. Let me explain.

Nobel văn chương có gì cà chớn, hình như thế. Có thể có tụi Mafia Do Thái thật! Đúng là tụi nó chứ ai vào đây nữa.
Vậy là nhà thơ Thụy Điển thắng giải Nobel văn chương. Tớ chưa đọc ông ta, kiếm trên net thì lơ thơ tơ liễu vài cụm thơ của ông, tuy nhiên tôi cảm thấy đây là 1 quyết định khoẻ khoắn như mọi năm. Nhất là cho Ban Giám Khảo. Để tới giải thích…

Staring Through the Stitches
October 8, 1998

Helen Vendler

Poems New and Collected, 1957-1997

by Wislawa Szymborska, translated by Stanislaw Baranczak, by Clare Cavanagh

Harcourt Brace, 273 pp., $27.00                                                  

New Collected Poems

by Tomas Tranströmer, translated by Robin Fulton

Bloodaxe Books Ltd./Dufour Editions, 219 pp., $21.95 (paper)

Helen Vendler, NYRB, đọc hai nhà thơ Nobel

Two admirable postwar poets, Wislawa Szymborska (born in 1923 in Poland) and Tomas Tranströmer (born in 1931 in Sweden), troubled by what they saw as the moral insufficiencies of both formal religion and Marxist optimism, have sought spiritual understanding outside organized institutions. Of course, few reflective persons who lived through the same period were exempt from such thoughts. But lyric poets, who may be as aware as any novelist of what is happening in society, must condense social questions into personal ones and must transform written language by giving it rhythmic breath and musical cadence. Both Szymborska and Tranströmer are poets of striking brevity: Szymborska questions the conventional movements of thought in our mental and social life, while Tranströmer meditates on the powerful unseen, unconscious forces that underlie our moments of waking awareness. Szymborska was awarded the Nobel Prize in 1996; Tranströmer is frequently, and justly, mentioned as a poet deserving the same prize.
                     

Translating Tomas Tranströmer

Dịch TT

TT là nhà thơ phức tạp, để mà dịch. Cái sự nén ép thanh tú, và hình ảnh sống động như xinê, tức thì gây quyến rũ, bén bắt, nhưng do thưa thớt, kiệm từ khiến thơ TT như không màu, như mỉa mai, dè bỉu.
Nhịp thơ trong nguyên tác thì mềm mại, dễ uốn, thành thử thật khó lập lại trong bản dịch, và cũng thế, tính nhạc bùng nổ của ngôn ngữ Thụy Ðiển, thí dụ từ “domkyrkoklocklang”, sẽ mất tính cộng hưởng rổn rảng như rót vào tai, một khi trở thành một cụm từ, một “chùm chuông nhà thờ"
Cái phong cảnh thơ ông, trống rỗng, nơi cư ngụ của thần tiên hay ma quỉ thì thật thoải mái thân quen với những nhà thơ phía Bắc, nhưng khi chi ly, phân tích siêu hình phong cảnh này rồi nhét nó vô phong cảnh của chỉ một Thụy Ðiển, thì quả là 1 thách đố.
Trong lời giới thiệu “Imitations” [Bắt chuớc], một tập thơ dịch, thơ Âu Châu, Robert Lowell viết, trích Pasternak, “Người dịch đáng tin cậy thường có được cái nghĩa đen nhưng mất mẹ cái giọng… và trong thơ, giọng, lẽ tất nhiên, thì là tất cả.” Trong mấy bài thơ dịch thơ TT của tôi, tôi cố làm sao để mình ở giữa hai thái cực trên đây, cố giữ vóc dáng của bài thơ, mở toang nghĩa của nó, và cố - như Lowell thật đúng khi phán, phải cố - giữ cho được cái giọng của nó


Cái vấn nạn “dịch thơ thì nó sẽ thành cái quái gì”, TLS mới đi 1 bài thật thú vị. Link ở đây. Lèm bèm sau.

Transtromer squabbles


ADAM  ZAGAJEWSKI

1945-

What follows is probably the shortest poem on the twentieth-century mania of visiting places all over the earth, as tourists.

 

AUTO MIRROR

In the rear-view mirror suddenly
I saw the bulk of the Beauvais Cathedral;
great things dwell in small ones
for a moment.

Translated from the Polish by Czeslaw Milosz and Robert Hass Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things

Bài thơ sau đây có lẽ là bài thơ ngắn nhất về căn bịnh của thế kỷ 20: mê thăm thú những nơi này chốn nọ trên toàn thế giới, như du khách.

Kính Ô Tô

Trong cái kính chiếu hậu của cái ô tô
Bất thình lình tôi nhìn trọn ngôi nhà thờ Beauvais Cathedral;
Những sự vật lớn nằm trong những sự vật nhỏ
Trong một thoáng chốc.

GRAYHEADED SCHOOLCHILDREN

Old men have bad dreams,
So they sleep little.
They walk on bare feet
Without turning on the light,
Or they stand leaning
On gloomy furniture
Listening to their hearts beat.

The one window across the room
Is black like a blackboard.
Every old man is alone
In this classroom, squinting
At that fine chalk line
That divides being-here
From being-here-no-more.

No matter. It was a glass of water
They were going to get,
But not just yet.
They listen for mice in the walls,
A car passing on the street,
Their dead fathers shuffling past them
On their way to the kitchen.

Charles Simic

Học Trò Ðầu Xám

Người già mộng dữ
Cho nên ít ngủ
Họ đi chân đất
Không bật đèn
Hay tỳ người lên lũ bàn ghế lù mù
Lắng nghe tim đập

Cửa sổ dọc theo căn phòng
Thì tối thui như cái bảng đen.
Mọi người già thì đều cô độc
Trong lớp, đưa mắt nhìn đường phấn
Phân chia
Thuộc về đây,
Hay không còn thuộc về đây nữa.

Ðâu cần. Không sao.
Một ly nước
Họ sẽ uống
Nhưng chưa đâu, có thể lát nữa.
Họ lắng nghe lũ chuột
Giữa những bức tường
Một chiếc xe chạy ngang qua con phố
Mấy ông bố đã chết lê chân qua họ
Trên đường tới bếp.

The Double

Kẻ Kép

Ðược đề xuất, huých huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp song sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí là một GNV khác”, của Pythagore, và tư tưởng Hãy Biết Mình của trường phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi”. Trong tiếng Scotland thì có từ fetch, cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái chết đến cho bạn. Từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu” [ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác của mình trôi qua], quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"], kể câu chuyện hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí dụ, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là phần chiếu tướng đích thị của một con người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con người mà thần thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ một vài ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của Gấu, hay như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính...  đi, là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng, thì đi thế đéo nào được?] Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách giải thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm hoài Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong “William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong truyện. Anh ta thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ Thần Chết. Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ bổ túc, hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở thành.

Plutarch viết, người Hy Lạp gọi, cái ngã khác, bằng cái tên, viên đại sứ của hoàng đế.
J.L. Borges

Samuel Beckett

Man of words

Letters to the editor and others

Samuel Beckett, một thoáng nhớ...

Tưởng niệm Mai Thảo, và hai ông Tây, bạn ông, là J. Walker và Martell.
Sơ Dạ Hương

Mr. Beckett đã chết. Vậy thì Paris, cũng thế. Tôi nghe người ta nói ông chết tối thứ Sáu tuần rồi. Vậy thì là, tất cả những người hùng của tôi đã chết, kể từ tối thứ Sáu tuần rồi.
Tếu thật, cuộc đời bám dính lấy ông, tới 83 và 3/4 năm lận. Khi ông nói với tôi, ông rụng răng, tôi lớ ngớ buông sảng một câu: "Vậy là mệt lắm đấy".
Ông quạt lại liền: "Có cái gì tệ mà không biến thành hại? Đâu có giới hạn những điều xấu xa trở thành tồi tệ hơn". Thế là cả hai đứa chúng tôi cười đến vãi đái ra.
Mr. Beckett biết chọc quê. Lần đầu tiên gặp Gill, bà xã tôi, ông kêu một ly đúp. "Phải ly đúp mới được. Lóng rày, không làm sao kiếm một ly cho ra hồn".

Vào khoảng đầu thập niên 1970, tôi ở Paris với một người bạn là Jean-Paul Delamorte, một tiểu thuyết gia hụt, a romancier manqué. Lindon (bên tạp chí Nửa Đêm, Minuit) vừa mới cho ra lò những bài viết mới nhất của Beckett, bằng tiếng Pháp, nhan đề là Foirade, Foirade, Foirade I, Foirade II. Vì có hẹn khuya này uống một "tăng" với ông, tôi hỏi Jean-Paul, foirade thực sự nghĩa là gì.
Jean-Paul hèm lên hèm xuống, chẳng giống một con giáp nào hết. "Foirade thực ra là...  ơ hơ... đúng rồi, disgusting" [1].

Khi tôi lập lại với Beckett, ông đỏ mặt tía tai: "Disgusting?! Đúng là lố bịch!".

Nơi chốn: Chúng tôi đang ngồi tại La Closerie des Lilas, một tiệm ăn vốn là nơi tụ tập đàn đúm của đám viết lách vào thập niên 1930. Mấy ngày trước khi giải phẫu cườm mắt, Beckett đeo cặp kính dầy như hai đít chai Coke. Tướng tá nhà văn lớn Samuel Beckett chẳng cách nào giấu nổi. Vừa ló đầu vô, bị thiên hạ chiếu tướng liền. Cứ mỗi lần mở miệng, bằng ấy cái tay ngừng đớp hít, bằng ấy cái tai nhỏng lên. Beckett, như mù dở với hai cái đít chai Cô ca Cô la, chẳng hề hấn gì với ba trò hóng chuyện đó.

Ông giải thích, về phản ứng của ông, với từ "disgusting" của Jean-Paul, bằng cách chứng tỏ, ông đã chọn từ foirade một cách hết sức là "nghiêm túc", và ông đang "động não" cố tìm ra một từ tiếng Anh hoàn toàn xứng hợp với nó.

"Foirade: disgusting? Thật là hoàn toàn vô nghĩa!. Une Foirade là một sự thất bại thảm thương... Một điều gì người ta toan tính, nhưng toan tính này thật ra chỉ là một sự thất bại, tuy nhiên vẫn phải toan tính, bởi vì thật xứng đáng, không thể chối cãi được... vậy đó, một  'thất bại mếu' (a lamentable failure)."

Tới đây, hình như mọi thực khách trong tiệm ăn đều dướn người về phía chúng tôi, như muốn nuốt lấy từng lời vọt ra khỏi miệng Beckett.
Và nhà văn của chúng ta bèn nói tiếp, kèm nụ cười rất ư là "bỏ đi":
"Lẽ dĩ nhiên, foirade còn có nghĩa là phát rắm ướt!" [2]

(Mấy tháng sau đó, trong một tiệm sách ở New York, tôi nhìn thấy ấn bản tiếng Anh của Foirades. Tên tiếng Anh: Fizzles).

*

Giữa đông, giữa năm 1973, lạnh cứng người, cô đơn, túi thủng, tôi đành phải làm cái trò đọc thơ, vào lúc tám giờ tối, tại Trung Tâm Văn Hóa Mỹ ở con phố Dragon.... với cái giá năm chục đô. Tôi có cái uống với Beckett vào lúc bẩy giờ. Tôi đâu dám xì ra cái chuyện đọc thơ, bởi vì:
1.      Tôi nghĩ ông chẳng ưa cái chuyện đọc thơ trước công chúng, cho dù phải cạp đất.
2.      Ông gần như chẳng bao giờ làm chuyện đó.

Trong lúc cà kê, ông có vẻ đâu đâu. Dưng không, ông nói: "Bạn đọc thơ, phải không?" Tôi chới với, làm sao ông biết? Rồi ông thêm: "Chắc mong bạn bè tới đông, hẻ?". Hiển nhiên, tôi làm ông đau, khi không mời. Vậy là tôi đã làm ông đau, bực thiệt! Ông nói, như cho tôi đỡ đau: "Không, cám ơn bạn, tôi không bao giờ tới với những chuyện đó".
Rồi thì ông yêu cầu tôi đọc một bài thơ, của tôi, cho ông nghe. Nhột quá, tôi bảo ông, cái giá năm mươi đô là ổn, đối với tôi. Ông bật cười, tuy nhiên vẫn bắt tôi đọc thơ cho bằng được. Thơ đọc thầm lén mà! Thế là tôi ư ử, bài "Trên Đại Lộ Raspail":

How easily our only smile smiles.
We will never agree or disagree.
The pretty girl is perfected in her passing.
Our love lives within the space of a quietly closing door [3].

Ông chăm chú nghe, mắt nhắm tít. "Được! Được!", ông nói.
"Ồ, c...! " Tôi bật lên. Ông mở choàng mắt, và tôi tự giải thích:
"Tớ ăn cắp của bạn!"
"Không, không. Tôi chưa hề nghe nó trong đời..."
"Không, không, của bạn!  Bài 'Dieppe'..., bạn chấm dứt với 'the space of a door that opens and shuts'
"Ô! Đúng thế  thực." Nhưng rồi, bỗng nhiên, ông thêm vô: "Ô, c...!"
"Chuyện gì nữa, hả?", tôi hỏi.
"Tôi chôm của Dante, chính tôi! (me-self)."

(Theo bài viết của Israel Horovitz, trong Tạp chí The Paris Review, Mùa Xuân 1997).

[1] Ghê tởm.
[2] wet fart.
[3] Tạm dịch:

Nụ cười độc nhất của chúng ta, sao dễ dàng quá vậy
(Thôi đừng tè he ra mà làm gì).
Người đẹp đẹp thật khi thoáng qua.
Tình mình đọng lại giữa lần cửa khép. (1)

Bạn đọc có thể liên tưởng, từ foirade, tới wet fart, tới bài thơ vịnh "bạch mã", trong chuyện tiếu lâm Việt Nam.

Note: Bài này, đã đăng trên tạp chí Văn, và trên VHNT của PCL. Một độc giả VHNT mail, chỉnh, ‘agree’, đồng ý, và ‘disagree’, không đồng ý, làm sao lại dịch là ‘tè he’?
Sự thực, Gấu dịch ‘tếu’, vì nghĩ đến cái cảnh ‘tình mình đọng lại giữa hai lần cửa khép’.
Có thể, bài thơ còn nói ‘chuyện đó’ chăng?  NQT

Soure

Our love lives within the space of a quietly closing door

Bài thơ vịnh Bạch Mã, trong kho chuyện tiếu lâm xứ Mít như sau.

Một anh nhà quê, đói quá, thấy phú ông mới tậu ngựa Bạch Mã, có nick là Truy Phong, [Ðuổi Gió], bèn mò đến, khen um lên, tính kiếm chút cháo. Phú ông phán, mi thử làm 1 bài thơ “thổi” tài đuổi gió của nó nghe chơi, thay vì đọc vài bài ca dao!

Anh nhà quê bí quá, nhưng may làm sao, bà phú ông đứng kế đó, bất thình lình "tủm" 1 tiếng, thế là anh nhà quê bèn ra ngay 1 bài thơ, đại khái, cái lỗ đít bà chủ mở ra, "tủm" 1 tiếng, chưa kịp đóng lại, vậy mà truy phong bay tới đích và trở lại chỗ cũ rồi!

Liệu có thể coi đây “cũng” là 1 trong những cái đầu tiên, của câu thơ của Beckett:

and live the space of a door opens and shuts?

Nếu đúng, thì đúng là của Mít, không phải ăn cắp, bắt chước của mũi lõ.


MUSEUM

Here are plates but no appetite.
And wedding rings, but the requited love
has been gone now for some three hundred years.

Here's a fan-where is the maiden's blush?
Here are swords-where is the ire?
Nor will the lute sound at the twilight hour.

Since eternity was out of stock,
ten thousand aging things have been amassed instead.
The moss-grown guard in golden slumber
props his mustache on Exhibit Number ..

Eight. Metals, clay and feathers celebrate
their silent triumphs over dates.
Only some Egyptian flapper's silly hairpin giggles.

The crown has outlasted the head.
The hand has lost out to the glove.
The right shoe has defeated the foot.

As for me, I am still alive, you see.
The battle with my dress still rages on.
It struggles, foolish thing, so stubbornly!
Determined to keep living when I'm gone!

Wislawa Szymborska

Sau đây là bản dịch tiếng Việt, trên Blog Gỗ Mun, hay Gỗ Mùn, tuỳ bạn thích từ dịch nào, của từ Goldmund.

Bảo tàng

 
Những chiếc đĩa nhưng chẳng ai thèm khát
Những chiếc nhẫn, nhưng chẳng có tình yêu lứa đôi
Ít nhất cũng ba trăm năm rồi

Một chiếc quạt – nhưng ở đâu nét mặt đỏ gay
Những thanh kiếm – nhưng ở đâu cơn giận dữ
Và chiếc đàn ngái ngủ
Không một lần rung lên 

Vì không có sự vĩnh hằng
người ta đã sưu tập vào đây
mười nghìn đồ cổ
Anh bồi giấy mốc meo nhắm mắt ngủ ngon lành
râu vương trên tủ kính. 

...Kim loại, thạch cao, lông chim
qua thời gian lặng yên ăn mừng chiến thắng
Chỉ có chiếc trâm cài của người đàn bà Ai cập khúc khích cười
Chiếc vương miện đã phí công đợi một đầu người
Bàn tay đã thua chiếc găng tay
Chiếc giày chân phải đã thắng bàn chân phải

Còn tôi
Xin hãy tin là tôi đang sống
Cuộc chạy đua của tôi với chiếc áo dài
Vẫn còn đang sôi động
Ôi, nó mới bướng bỉnh làm sao?
Tựa như muốn mình bách niên tồn tại!

Wislawa Szymborska 

Tạ Minh Châu dịch 

Sau đây là bình loạn của GNV:

Một lần, Gấu nhờ một vị, coi như sư phụ của G về tiếng Anh, sửa giùm 1 bài thơ của W.S do Gấu dịch.
Bà không sửa mà còn đi 1 đường mo ran:
Thơ dịch đã khó ngửi, lại dịch qua 1 ngôn ngữ khác, thì làm sao mà còn được cái gì nữa.

Nhưng số phận của con người, nhất là của giống Mít, vào thời điểm này, rất cần dịch. Bởi vì nếu không dịch, là sẽ suốt đời chỉ có thể đọc chơi vài bài ca dao, vài câu tiền chiến, và nhiều câu xúi Mít đi giết người, thơ có thép, thơ xung phong.
Thảm hơn nữa, là thứ thơ vãi linh hồn, thơ tình khóc lóc, van xin tình yêu, ở cả hai phía, đực và cái.

Bài thơ dịch trên, theo Gấu, hỏng, vì người dịch cố kiệm lời, bỏ nhiều từ trong nguyên tác, vì thế mà bản dịch lệch pha đi nhiều quá.

Câu đầu:

Here are plates but no appetite.
Những chiếc đĩa nhưng chẳng ai thèm khát.

Nhà thơ SW cảnh báo về 1 tai họa của nhân loại, mấy cái dĩa ăn thì còn đây, mà cái thú ham ăn thèm ăn thì mất mẹ nó rồi.

Thành ra phải dịch thật đầy đủ, thí dụ, là:

Này là ly, này là dĩa, nhưng đâu rồi nỗi thèm “uống ly chanh đường, nhắm môi em ngọt”? (1)

And wedding rings, but the requited love
has been gone now for some three hundred years.
Những chiếc nhẫn, nhưng chẳng có tình yêu lứa đôi
Ít nhất cũng ba trăm năm rồi.

Câu này bỏ đi từ "requited", hoặc có dịch, thì không đúng từ tương đương trong tiếng Việt, thành thử ý nghĩa càng bị lệch dữ, lệch xệch hẳn đi như cặp mắt của GNV.

Bởi vì làm gì có chuyện “tình yêu lứa đôi” mất mẹ nó những 300 năm rồi?
Không lẽ loài người không còn tình yêu lứa đôi?

Theo Gấu, bà nữ thi sĩ SW muốn nói tới thứ tình yêu đền đáp, xứng hợp, như ân oán, như oan nghiệt, như nửa mảnh gương thề đi tìm hoài hoài nửa kia, kiếp trước ta có nợ chi mi đâu, mà sao kiếp này mi đòi kiếp khác?

Hà, hà.

NQT

(1)

DTL, nhà thơ bạn Gấu, có câu thơ đúng ý bà nhà thơ Ba Lan S.W:

Ta hôn người hôn môi rất tham.

Nên nhớ môi, [môi dưới nhe, không phải môi trên, cái "gì gì" mà nhà văn THT gọi là bờ hạ, khe hạ...] trong tiếng Mít, còn gọi là dĩa, bởi vậy mà ra từ "đội dĩa", đi cặp với từ "nâng bi".

Ui chao, dĩa còn đây, mà nụ hôn tham lam thì không còn.
Hay là đi hôn dĩa khác rồi?

Post bản dịch mới, từ Blog Gỗ Mun 

Viện bảo tàng

(Wisława Szymborska)

Đĩa ở đây, nhưng ngon miệng có đâu.
Nhẫn nơi này, mà không tình giai ngẫu
đã qua rồi thấm thoắt ba trăm năm. 

Quạt nơi đây – đâu má ửng nét hồng lan?
Đây kiếm gươm – đâu rồi cơn uất hận?
Đàn lia dưới ánh tà phím chẳng một lần ngân. 

Vì sự vĩnh hằng vắng bóng chốn trần gian,
người ta gom về đây mười nghìn đồ cổ.
Bác thầy ký mốc meo mơ màng trong giấc ngủ
Râu rủ trên tủ kính trưng bày. 

Gốm sứ, lông chim, kim loại nơi đây
Vượt thời gian âm thầm chiến thắng.
Riêng chiếc trâm cài từ miền Ai Cập
đang khẽ khúc khích cười. 

Chiếc vương miện hoài công chờ đợi một đầu người
Bàn tay thua găng tay, và chiếc giày bên phải
đã chiến thắng bàn chân. 

Còn tôi, tôi đang sống, xin bạn hãy vững tâm.
Cuộc chạy đua của tôi với chiếc váy dài vẫn đang tiếp diễn.
Ôi chiếc váy thật là bướng bỉnh!
Nó như muốn trường tồn bất chấp kỷ niên!
(Thái Linh dịch)

 
Nhân đang nói chuyện tình oan nghiệt, nửa kia, nửa khác, tình cờ đọc bài sau đây, của Borges, thật tuyệt: The Double, trong "Cuốn sách của những sinh vật tưởng tượng", The Book of Imaginary Beings.

*

The Double

Suggested or stimulated by reflections in mirrors and in water and by twins, the idea of the Double is common to many countries. It is likely that sentences such as A friend is another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were inspired by it. In Germany this Double is called Doppelganger, which means "double walker." In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man to bring him to his death; there is also the Scottish word wraith for an apparition thought to be seen by a person in his exact image just before death. To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad "Ticonderoga" by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this theme. There is also the strange picture by Rossetti ("How They Met Themselves") in which two lovers come upon themselves in the dusky gloom of a woods. We may also cite examples from Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
    The ancient Egyptians believed that the Double, the ka, was a man's exact counterpart, having his same walk and his same dress. Not only men, but gods and beasts, stones and trees, chairs and knives had their ka, which was invisible except to certain priests who could see the Doubles of the gods and were granted by them a knowledge of things past and things to come.
To the Jews the appearance of one's Double was not an omen of imminent death. On the contrary, it was proof of having attained prophetic powers. This is how it is explained by Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells the story of a man who, in search of God, met himself.
    In the story "William Wilson" by Poe, the Double is the hero's conscience. He kills it and dies. In a similar way, Dorian Gray in Wilde's novel stabs his portrait and meets his death. In Yeats’s poems the Double is our other side, our opposite, the one who complements us, the one we are not nor will ever become.
    Plutarch writes that the Greeks gave the name other self to a king's ambassador.

Kẻ Kép

Ðược đề xuất, huých huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp song sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí là một GNV khác”, của Pythagore, và tư tưởng Hãy Biết Mình của trường phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi”. Trong tiếng Scotland thì có từ fetch, cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái chết đến cho bạn. Từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!

Thành ra cái chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu” [ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác của mình trôi qua], quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"], kể câu chuyện hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí dụ, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).

Những người Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là phần chiếu tướng đích thị của một con người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con người mà thần thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ một vài ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.

Với người Do Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của Gấu, hay như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính...  đi, là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng, thì đi thế đéo nào được?] Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách giải thích của Gershom Scholem.

Một giai thoại được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm hoài Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!

Trong “William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong truyện. Anh ta thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ Thần Chết. Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ bổ túc, hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở thành.

Plutarch viết, người Hy Lạp gọi cái ngã khác bằng cái tên, viên đại sứ của hoàng đế.


MILAN DJORDJEVIC

[1954-]

Born in Belgrade, Djordjevic is a short-story writer and essayist and a translator as well as a poet. His first book of poems, On Both Sides of the Skin, came out in 1979. Since then, there have been seven more, the latest of which has just been published. He has received most of the prestigious literary awards in Serbia for his collections of poetry and his stories and essays and has had his work translated into German, Polish, Romanian, Hungarian, Slovak, Portuguese, Macedonian, and now English.
 

Love Poem

My dear Nothing,
with love and words I keep trying
to breathe life into you.
With so much flirting
I'm becoming a part of you. 

My dreamy Nothing,
daughter of human nothingness,
I want you dead and gone,
but you are indestructible,
truly untouchable
like everything imagined. 

Will I be free of you,
one day perhaps?
Or will I hide you deep within me
while all around me you give birth
to monsters and specters?

You'll whisper the same stories,
pour over me
the same black ashes
and desert rains
without erasing the bloodstains
of my childhood. 

My sweet and formless,
bloodless and colorless,
best-loved Nothing,
with what eyes shall I look at you
to see you truly
and remember your face forever?

 

Nàng Tình Rỗng (1)

Nàng Tình Rỗng thân yêu của tôi ơi
Bằng tình yêu và những từ, tôi cố thổi đời sống vô em
Với quá nhiều mánh mung tán tỉnh
Tôi trở thành một phần của em 

Nàng Tình Rỗng Mơ Mộng của tôi ơi
Em là đứa con gái của Hư Vô của con người
Tôi muốn em chết, và cút cha em đi
Nhưng em thì vô phương huỷ diệt
Thực sự mà nói, không làm sao mà sờ vô em được,
Như mọi thứ tưởng tượng.

Liệu anh có thoát khỏi tay em?
Một ngày nào đó,
Có lẽ?
Hay là anh sẽ giấu em thật sâu trong anh
Trong khi chung quanh anh
Em đẻ ra đủ thứ ma quỉ?

Em sẽ thì thầm cũng vẫn những chuyện đó
Ðổ lên anh
Cũng vẫn thứ tro than đen đủi
Và mưa sa mạc
Chẳng kỳ cọ, rửa ráy những vết máu
Của tuổi thơ của anh 

Nàng Tình Rỗng Ngọt Ngào, Không Hình Dáng,
Không Máu Me, Không Màu Sắc
Yêu Chết Ði Ðược
Với mắt lé nào tôi nhìn em
Ðể thực sự nhận ra em
Và nhớ hoài hoài khuôn mặt...  BHD?

(1)

Cung Tích Biền, Hòa Bình: Nàng Tình Rỗng, tiểu thuyết của CTB, xb trước 1975.
NQT

Graham Greene, kết thúc Tẩu Vi Thượng Sách, Ways of Escape, bằng 1 bài thần sầu về Kẻ Kép mà ông gọi là Kẻ Kia, The Other. Bởi là vì ông nổi tiếng, cho nên rất nhiều người nhận là Kẻ Kép, Kẻ Kia, Một Nửa, Chính Tớ Ðó…
Nhân đây, đi thêm 1 đường về The Other, cũng là 1 cách truy tìm Kiếp Khác.
NQT

Mở ra bài viết khép lại cuốn sách của mình, [open and shut], Greene “viết giùm” GCC:

Cuốn sách này không phải là một chân dung tự họa, self-portrait. Tôi nhường cái đó cho bạn quí và kẻ thù.
Tuyệt.

Cứ như GGC đang vượt dòng sông Mekong, nhìn lại, và thấy cái xác của mình đang lềnh bềnh trôi ra biển!


Wislawa Szymborska's "Vermeer"

A poem against the apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế

Aug 27th 2010, 16:53 by More Intelligent Life, A.R. | NEW YORK

I HAPPENED upon this poem on the New York Review of Books's website, and was startled by how beautifully Wislawa Szymborska captures the dance between motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a moment frozen yet continually happening.

Vermeer

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.

"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated from the Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak

Note: Bài thơ này, TV đã post, nay chỉ post thêm lời bình của tay Prospero.
Bản tiếng Việt, của TV, cũng phân biệt ra hai từ "W", và "w".
GNV cũng đọc nó trên tờ NYRB, như Prospero.
Thế mới thú chứ!

VERMEER 

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.

Source

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.

Ui chao, phán như thế mới là phán chứ, nhỉ?

Nhưng bạn đã nhận ra sức căng của thời tiết, vào lúc trời đất rơi vào thu phân?

… tóc em rối giữa hai đầu ngọn gió
hình như rừng rơi vào thu phân.
TMT

Tiện thể đi thêm 1 đường Prospero, về Thơ Ca và Chủ Nghĩa Vác Ngà Voi: Thơ có thể nói cái gì?

Books, arts and culture

Prospero

Poetry and humanitarianism

What can poetry say?

Sep 23rd 2011, 10:06 by E.H. | LONDON

 

THEODOR ADORNO famously declared in 1951 that to write poetry after Auschwitz was “barbaric”. Mindful of the limits of words, generations of poets still strive to use them to describe the impossible.  

“Poetry and the State”, an event that took place on September 20th, was haunted by this problem: how to put into words events that leave you speechless. Organized by the poetry initiative “Poet in the City”, the magazine Modern Poetry in Translation and Amnesty International, the evening aimed to show the relevance of poetry in making “a public statement with a universal reach”. The five poets who gave readings were connected, in some way or another, to humanitarian causes. They included Timothy Allen, a former aid worker, Zuzanna Olszewska, a fellow from Oxford who conducts anthropological studies with female Afghan refugees, and Carlos Reyez Manzo, Amnesty’s first poet in residence, who survived torture under Pinochet’s regime in Chile.

 This makes it a difficult event to criticize. But although there were moments of joy in the readings—for instance, the concluding lines in Mr. Allen’s translation of Ho Chi Minh’s “Prison Diary” from the Vietnamese, “my poems are made of steel / and each is an act of resistance”—on the whole, the evening did not hold together. It felt as if the poets had been chosen more for the problems they wrote about rather than how well they wrote. The question of translation only seemed pertinent when Amarjit Chandan read from his poems both in Punjabi and English, creating a delightful interplay between the two languages.

Swamped by the various causes they were connected to, and only speaking for an average of 12 minutes each, the poets were unable to stand out as individuals. They were gathered together under an umbrella of worthiness, but there was no examination of the relationship between poetry and humanitarianism. We were meant to take it for granted that poetry is a force for good against subjects as diverse as Pinochet, Britain’s cuts in arts funding (which David Constantine of Modern Poetry in Translation decried for making the country the “philistine place we’re in”), and the state of the environment.  

“Poetry and the State” seemed to hold a complacent view of poetry as an inherently ethical or comforting medium that brings people together. But in doing so, the evening undermined the power of any one poet to say much of anything.

*

Xuống rừng nẻo thuộc

Hình như là thu phân

                                     Trần Mộng Tú                                        

Ở trong rừng sáng nay có chiếc lá vừa ửng chín
một chút vàng loang trên mầu xanh
em cúi xuống nghe hơi rừng thở nhẹ
nghe tiếng chân nai bước rất ngập ngừng
nghe tiếng ai cười bên vai áo mỏng
hình như rừng rơi vào thu phân 

có gì trong gió nghe lạ lắm
như hạ chưa qua thu đã vội vã sang
gió mang một chút nồng như hơi rượu mạnh
làm những hàng cây nhìn nhau hoang mang

tiếng bước chân nai chạy cuồng trong cỏ ấm
tiếng chân em bước rất ngập ngừng
tóc em rối giữa hai đầu ngọn gió
hình như rừng rơi vào thu phân.

Khi ở Vienna, V.A.

9/2011

Bình loạn của GCC: Liệu có thể thay "hoang mang" bằng "bàng hoàng"?
Bài thơ ngay bên dưới, câu thơ," The sky now is doubtful like an awkward lie",
từ "awkward" mà chẳng "hoang mang, bàng hoàng" sao? NQT

Bài thơ của Cô Tú làm nhớ bài thơ dưới đây, đã post trên TV

AUTUMN

Autumn is always too early.
The peonies are still blooming, bees
are still working out ideal states,
and the cold bayonets of autumn
suddenly glint in the fields and the wind
rages. 

What is its origin? Why should it destroy
dreams, arbors, memories?
The alien enters the hushed woods,
anger advancing, insinuating plague;
woodsmoke, the raucous howls
of Tatars. 

Autumn rips away leaves, names,
fruit, it covers the borders and paths,
extinguishes lamps and tapers; young
autumn, lips purpled, embraces
mortal creatures, stealing
their existence.

Sap flows, sacrificed blood,
wine, oil, wild rivers,
yellow rivers swollen with corpses,
the curse flowing on: mud, lava, avalanche,
gush. 

Adam Zagajewsk: Without End

Mùa Thu

Mùa Thu luôn luôn mò tới quá sớm
Những bông mẫu đơn thì vưỡn đương nở rộ,
Ðám ong thì vưỡn loay hoay xây dựng cho bằng được
ngôi nhà Mít bằng năm bằng mười nhà lũ Ngụy ngày nào
theo di chúc của Bác Hát.
Vậy mà những ngọn roi bay on nét lạnh buốt của mùa thu bất thình lình
quất cho anh cu Gấu mấy cú lịm người buổi sáng sớm lò mò đi làm ly cà phe!
Gió hú lộng trên những ngọn đồi Ðà Lạt
ngày nào còn Trung Uý Kiệt,
trong Một Chủ Nhật Khác!
[Còn cả BHD nữa chứ.
Không nhớ ư, lúc đi qua một cái vòi nước công cộng,
em thì thầm, nó cũng đang nỉ non tâm sự!]

Nguồn gốc của Mùa Thu, là cái quái gì vậy?
Tại sao nó huỷ diệt
những giấc mộng, quang cảnh, hồi ức?
Kẻ lạ xâm nhập những cánh rừng im lặng
giận dữ sấn tới, gây dịch bệnh;
khói rừng, những tiếng hú khàn khàn của rợ Tatars.

Mùa Thu vặt trụi lá, tên, trái,
phủ những đường biên, những nẻo đường,
làm tắt lịm những ngọn đèn, những cây nến, mùa thu trẻ,
những cặp môi tím, ôm lấy sinh vật, chôm hiện hữu của chúng.
Nhựa cây ứa, máu hy sinh từ Một Mùa Thu Năm Qua Cách Mạng Tiến Ra,
rượu vang, dầu, những con sông hoang dại
sông Hồng đầy xác người,
sự trù ẻo của Cái Ác Bắc Kít cứ thế tiếp tục,
bùn, đầm lầy, lụt lũ bô xịt đổ xuống, phọt ra…

[Ðã kiếm ra bản dịch tiếng Việt]

Bài thơ của Cô Tú, nhịp chuyển động của nó, và tất nhiên, của Mùa Thu, mới thật là đẹp.
Từ “nai ngập ngừng”, với nhịp đi của thời tiết, chuyển thành “nai chạy cuồng”, “tóc em rối giữa hai đầu ngọn gió"....
Tuyệt!


Thơ Mỗi Ngày 

RADE DRAINAC

[1899-1943]

Drainac was a famous Belgrade bohemian who spent his life in the taverns of the city, often playing the violin. He served in the Serbian army in the First World War. His first book, Purple Laughter, was published in 1920. He wrote three more collections of poetry, plus a novel and a war diary. He was influenced by Apollinaire, Cendrars, and Esenin. He died of consumption.

Leaf

I've changed stations: autumn remained behind and my bags.
The sky now is doubtful like an awkward lie.
In the first tavern I'll need to forget
the melancholy letter that woke me from my sleep.
Idle, I stagger down the street past offices.
The swallows have flown and the typewriters have stayed.
One the horizon there is a huge trumpet of smoke.
A plane has just been invented as small as a butterfly.
Bravo! That's a good sign.
The first autumn leaf falls on my hat.

Note: One the horizon. Thú thực, GCC không hiểu được cái từ "One", ở đây. Cầu cứu sư phụ, sư phụ nghi, chắc in sai, On the horizon. Nhưng không lẽ sách Mẽo cũng in sai ư? NQT

Drainac là 1 tay bụi đời Belgrade nổi tiếng, trải qua đời mình bằng cách chơi vĩ cầm trong những quán rượu của thành phố. Tham dự Ðệ Nhất Chiến trong quân đội Serb. Cuốn đầu tay, Cười Tía, 1920. Sau chơi thêm ba tập thơ, 1 tiểu thuyết, và 1 nhật ký. Rất chịu Apollinaire, Cendrars, và Esenin. Chết vì lao phổi.

Tôi thay đổi những nhà ga: mùa thu ở đằng sau, cùng với mấy cái bị.
Bầu trời nghi ngại, chẳng khác gì một lời dối trá ngượng nghịu.
Trong quán rượu đầu tiên tôi sẽ cần phải quên
Lá thư buồn đánh thức giấc ngủ.
Không biết làm gì, tôi loạng quạng đi xuống con phố qua những văn phòng.
Những con chim nhạn đã bay đi, những người đánh máy thì ở lại.
Nơi chân trời có một ống khói lớn hình cái kèn trôm pét
Một cái máy bay mới được phát minh, nhỏ như 1 con bướm
Hoan hô! Ðúng là 1 dấu hiệu tốt
Cái lá thu đầu tiên đậu trên mũ tôi.

MILAN DJORDJEVIC

[1954-]

Born in Belgrade, Djordjevic is a short-story writer and essayist and a translator as well as a poet. His first book of poems, On Both Sides of the Skin, came out in 1979. Since then, there have been seven more, the latest of which has just been published. He has received most of the prestigious literary awards in Serbia for his collections of poetry and his stories and essays and has had his work translated into German, Polish, Romanian, Hungarian, Slovak, Portuguese, Macedonian, and now English.
 

Love Poem

My dear Nothing,
with love and words I keep trying
to breathe life into you.
With so much flirting
I'm becoming a part of you. 

My dreamy Nothing,
daughter of human nothingness,
I want you dead and gone,
but you are indestructible,
truly untouchable
like everything imagined. 

Will I be free of you,
one day perhaps?
Or will I hide you deep within me
while all around me you give birth
to monsters and specters?

You'll whisper the same stories,
pour over me
the same black ashes
and desert rains
without erasing the bloodstains
of my childhood. 

My sweet and formless,
bloodless and colorless,
best-loved Nothing,
with what eyes shall I look at you
to see you truly
and remember your face forever?

*

JOVAN HRISTIC
[1933-2002]

Hristic studied philosophy, and after many years of working in publishing, he taught at the drama school in Belgrade, where he was born. His first book, The Diary of Ulysses) came out in 1954, and his The Alexandrian School in 1963. He wrote five plays, a study of Chekhov, a book of essays, and translated T. S. Eliot and Cavafy. Hristic was also a drama critic.

The Tragedy Is Over

The tragedy is over. Blind Oedipus exits
into his darkness, into our darkness.
The chorus remains behind on the square
to mumble a few additional verses
and then disperses homeward, where already one can smell
the evening meals being cooked. 

That's our moment. The curtain hasn't yet
been lowered as we step on the stage:
the columns of the palace are suddenly of cardboard,
the blood that drew so much pity and fear
is spilling from the bottle with colored water,
while with wooden swords we begin our play.
Everything you saw we'll make you see once more:
Oedipus will again answer the riddle and gouge his eyes out,
Jocasta will scream in the wings, the messenger
will arrive and announce the latest horrors,
and the blood will flow. 

In a pause, between two verses, while the costumes
and scenery are changed, in the silence and darkness,
perhaps at the very end when the sets are removed,
and the last lights are being turned off,
the scream of Oedipus, whose long shadow
has, too, disappeared behind a hill,
will once again be heard.

But only for a moment. We will continue our play
happy that we were called to come out on the stage
and display our art before the lights were out.

BI KỊCH NGỎM


Bi kịch hết rồi. Anh mù Ơ Ðíp chuồn
Vô đêm đen của anh ta. Của chúng ta.
Dàn đồng ca thì còn ở lại phía sau diễn trường
Ðọc chơi vài bài ca dao
Rồi tan hàng, ai về nhà người đó
Trong không khí có mùi thịt nướng của bữa ăn tối.

Ðây là thời điểm của chúng ta. Màn chưa buông xuống
Khi chúng ta bước ra sàn diễn:
Những cây cột Dinh Ðộc Lập bất thình lình biến thành hàng mã
Máu làm đổ biết bao sự thương hại và sợ hãi
Chảy ra từ cái chai chứa nước màu,
Trong lúc bằng những cây gươm gỗ,
Chúng ta chơi kịch của chúng ta.
Mọi chuyện bạn đã thấy, chúng ta sẽ làm cho bạn thấy
Một lần nữa:
Ơ Ðíp lại trả lời thai đố, và tự móc mắt của mình ra
Jocasta sẽ than khóc bên trong cánh gà
Thiên Sứ của Sến Cô Nương
Sẽ tới và thông báo những điều ghê rợn mới nhất, bô xịt, thí dụ.
Và máu sẽ chảy. 

Trong lúc ngưng nghỉ, giữa hai câu thơ,
Khi thay đổi màn diễn, trang phục, trong im lặng và bóng tối,
Và có thể vào giây phút chót khi những dàn dựng được dời đi
Và những ánh sáng sau cùng tắt ngấm
Tiếng khóc than của Ơ Ðíp lại vang lên
Khi cái bóng dài thòng của anh ta thì cũng đã biến mất sau ngọn đồi.

Nhưng chỉ một chốc lát thôi.
Chúng ta sẽ tiếp tục vở kịch của chúng ta.
Sướng điên lên vì đã được vời ra sàn diễn
Ðể chơi vở kịch của chúng ta
Ðọc chơi vài bài ca dao,
Làm thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, thí dụ.
Trước khi đèn đuốc tắt ngúm. 

Barbarians

The messengers finally arrived and said:
The barbarians are coming.
They're getting ready to welcome them in the city.
Elated young men already cheer their names
And hurry to celebrate the new gods.
Haven't the poets said those people were a kind of solution?
Now they write poems in their glory
Waiting for the day when they'll declaim them in public
While the admiring, heavily armed barbarians
Applaud them and learn their verses by heart.
Already they see their poems in large letters
Hung in the porticoes of the temples
From which the impotent deities have been evicted,
And libraries full of their books
Taking the place of stories that no longer speak to anyone.
Still, the poets know they'll be the first to hang in public,
Together with the young men who hurried to open the gates
And admit into the city those they eagerly awaited,
Since barbarians are barbarians and are no solution at all. 

Bọn Rợ

Những người đưa tin sau cùng xuất hiện và phán:
Bọn rợ đang tới.
Trong thành phố mọi người đã sẵn sàng chào mừng.
Ðám trẻ tuổi sẵn sàng hoan hô tên tuổi của rợ.
Hớn hở chào mừng những vị thần mới.
Mấy tên thi sĩ chẳng đã tuyên bố, rợ là một thứ giải pháp?
Chúng làm thơ chào mừng chiến thắng rợ
Ðợi ngày đọc lên giữa công chúng
Trong lúc đoàn rợ binh tiến vào thành phố
Vỗ tay khen những bài thơ, bài ca, và học thuộc lòng,
Ba mươi năm mới có ngày hôm nay, thí dụ.
Những bài thơ đã được dán lên ở những đền đài.
Thần thánh trong đền đài thì đã bị đá đít văng ra bên ngoài.
Và những thư viện thì đầy những sách báo của rợ
Thay thế những câu chuyện chẳng còn kể cho bất cứ ai nghe.
Tuy nhiên, bọn thi sĩ thừa biết, chúng là những kẻ đầu tiên bị đem treo cổ giữa công chúng,
Cùng với đám VC nằm vùng, những tên Cách Mạng 30 Tháng Tư.
Hăm hở mở cửa thành phố.
Chúng chấp nhận, và không chỉ chấp nhận mà còn chờ đợi bọn rợ
.
Kể từ khi rợ là rợ, thì chúng đào đâu ra giải pháp.