Thơ mỗi ngày
Zagajewski
on Rilke
CLUB
MIDNIGHT
Are you the
sole owner of a seedy nightclub?
Are you its
sole customer, sole bartender,
Sole waiter
prowling around the empty tables?
Do you put
on wee-hour girlie shows
With dead
stars of black-and-white films?
Is your
office upstairs over the neon lights,
Or down deep
in the rat cellar?
Are bearded
Russian thinkers your silent partners?
Do you have
a doorman by the name of Dostoyevsky?
Is Fu Manchu
coming tonight?
Is Miss
Emily Dickinson?
Do you
happen to have an immortal soul?
Do you have
a sneaky suspicion that you have none?
Is that why
you flip a white pair of dice,
In the dark,
long after the joint closes?
Charles
Simic
Câu Lạc Bộ Nửa
Ðêm
Bạn là vị độc
chủ của vũ trường rượu mạnh đó?
Bạn là vị độc
khách, tay pha rượu độc?
Bồi
độc, lang thang giữa dẫy bàn trống?
Bạn cho chiếu
những sô phim nữ, vào lúc nửa đêm?
Với những nữ
tài tử đã chết, thời kỳ phim đen trắng?
Văn phòng của
bạn ở trên lầu, phía bên trên những thước đèn néon?
Hay ở mãi tít
dưới hầm, một căn phòng nhỏ nơi trú ẩn của chuột?
Những tư tưởng
gia Nga, râu rậm, là những “đồng sự” âm thầm của bạn?
Bạn có tay
giữ cửa tên là Dos, phải không?
Tối nay, cái
tay Fu Manchu liệu có tới?
Nữ sĩ Emily
Dickinson?
Liệu chuyện
này xẩy ra: Bạn là người có linh hồn bất tử?
Hay đếch có
linh hồn?
[Nhưng, bạn
có khi nào có cái hồ nghi khốn kiếp này chưa?]
Và đó là lý
do bạn thẩy cặp xúc xắc trắng
Trong đêm,
nhiều giờ sau khi ổ điếm đã đóng cửa?
15. RELIGION
COMES
Religion
comes from our pity for humans.
They are too
weak to live without divine protection.
Too weak to
listen to the screeching noise of the turning of infernal wheels.
Who among us
would accept a universe in which there was not one voice
Of
compassion, pity, understanding?
To be human
is to be completely alien amid the galaxies.
Which is
sufficient reason for erecting, together with others,
the temples of an
unimaginable mercy.
Czeslaw
Milosz: Second Space
Tôn giáo tới
Tôn giáo tới
từ lòng thương hại của chúng ta đối với con người.
Chúng yếu quá
không thể sống không có sự che chở thiêng liêng.
Yếu quá không
nghe được tiếng rít của bánh xe địa ngục.
Ai trong chúng
ta chấp nhận được một vũ trụ trong đó không có, dù chỉ một,
tiếng nói cảm thông,
thương hại, hiểu biết?
Là con người
là hoàn toàn xa lạ giữa những thiên hà.
Ðó là lý do đủ
để cùng nhau xây nên những ngôi đền của sự nhân từ,
vượt mọi lòng nhân từ,
không thể
nào tưởng tượng ra được.
Trong Chứng
tích thơ, chương Bài học Sinh
học, Milosz viết:
Người ta đã
viết nhiều về thi sĩ, như là 1 con người ‘ngơ ngác tựa gà trống, e đến
trăm năm
vưỡn trẻ thơ’, một con người khác những người khác: tuổi thơ của nó
không chấm
dứt, nó gìn giữ được một điều gì đó ở trong nó, của 1 đứa bé, suốt cuộc
đời của
nó. Ðiều này đúng trên diện rộng, ít nhất theo nghĩa này: cảm nhận ấu
thơ của
thi sĩ có một độ dài thật dài, và những bài thơ đầu của thi sĩ, "một
nửa là đứa
bé", đã có những dấu ấn chỉ ra những bài thơ tiếp theo.
Ý niệm nhị
phân, 1 bên là linh hồn, một bên là xác thân ở với chúng ta thật lâu,
qua ẩn dụ
con tằm hóa kiếp thành con bướm: một cái xác, con tằm bị bỏ lại, cho
linh hồn tự
nó giải thoát, qua hình ảnh 1 con bướm bay lên. Bài thơ “hải sâm” của
Szymborska
không thuộc trường nhị phân trên. Một lỗ nẻ nẻ ra trong xác thịt của
hải sâm, một
sự phân chia thành hai cái ngã, a division into two coporal “selves”,
xẩy ra. Bắt
đầu với thời phục hưng, một thứ nhị phân khác được thêm vào với nhị
phân linh hồn/xác
thân, như Steiner chỉ ra, đó là danh vọng/lãng quên, fame/oblivion, qua
cụm từ ars
longa, vita brevis, tên của 1 con người thì còn mãi với hậu thế,
không phải mọi
thứ đều chết, non omnis moriar.
On Hope
"From where will a renewal come
to us, to us who have spoiled
and devastated the whole earthly globe?" asks Simone Weil. And she
answers, "Only from the past, if we love it." At first sight
this is an enigmatic formulation, and it is difficult to guess what she
has in
mind. Her aphorism acquires meaning in the light of her other
pronouncements.
Thus she says elsewhere: "Two things cannot be reduced to any
rationalism:
Time and Beauty. We should start from them." Or: "Distance is the
soul of beauty." The past is "woven with time the color of
eternity." In her opinion, it is difficult for a man to reach through
to
reality, for he is hindered by his ego and by imagination in the
service of his
ego. Only a distance in time allows us to see reality without coloring
it with
our passions. And reality seen that way is beautiful. That why the past
has
such importance: "The sense of reality is pure in it. Here is pure joy.
Here is pure beauty. Proust." When quoting Simone Weil I think of what
made me personally so receptive to her theory of purification. It
probably was
not the work of Marcel Proust, so dear to her, but a work I read much
earlier,
in childhood, and my constant companion ever since-Pan Tadeusz
by Adam
Mickiewicz, a poem in which the most ordinary incidents of everyday
life change
into a web of fairytale, for they are described as occurring long ago,
and
suffering is absent because suffering only affects us, the living, not
characters invoked by all-forgiving memory.
Humanity will also explore
itself in the sense
that it will search for reality purified, for the "color of
eternity," in other words, simply for beauty. Probably this is what
Dostoevsky,
skeptical as he was about the fate of civilization, meant when he
affirmed that
the world will be saved by beauty. This means that our
growing despair because of the discrepancy between reality and the
desire of
our hearts would be healed, and the world which exists
objectively-perhaps as
it appears in the eyes of God, not as it is perceived by us, desiring
and
suffering-will be accepted with all its good and evil.
Milosz
Note: Đọc The Witness of Poetry, thấy ảnh
hưởng đậm đà của Simone
Weil lên tư tưởng và thi ca của Milosz.
Post đoạn
sau đây, liên quan tới từ Grace, Ân sủng.
Thế kỷ của
chúng ta sản xuất ra một vài tư tưỏng gia kiệt xuất mà sự quan trọng
của họ
tăng trưởng theo từng, với mọi thập niên, with every decade, và, nhắc
tới một
trong số họ ở đây, Simone Weil, tôi bị cám dỗ bởi yếu tố tự thuật, mặc
dù giờ
đây, tôi không còn coi sự kính trọng bà của tôi có vẻ biệt lập.
“Từ đâu cái
lại mới, a renewal, đến với chúng ta, một lũ người làm hư hỏng, làm
tanh bành
trọn trái đất?” Simone Weil hỏi, và bà trả lời, “Chỉ từ quá khứ, nếu
chúng ta
yêu nó”.
Thoáng đọc,
thấy như một ẩn ngữ, và thật khó mà đoán ra được trong đầu bà nghĩ gì.
Đành đi tìm
lời giải từ những gì bà nói ở đâu đó, ở chỗ khác.
“Có hai điều
không thể nào giản lược về bất cứ một chủ nghĩa duy lý: Thời Gian và
Cái Đẹp.
Chúng ta có thể lấy đó làm điểm xuất phát”.
Hay câu này:
“Xa xôi, cách trở là linh hồn của cái đẹp” [‘Distance is the soul of
beauty’].
Quá khứ là ‘mầu sắc của thiên thu được dệt bằng thời gian’. Theo bà,
con người
thật khó mà nắm tới thực tại, do bị cản trở bởi cái tôi vị kỷ, his ego,
và sự bởi
sự tưởng tượng, được sai khiến bởi cái tôi vị kỷ, imagination in the
service of
his ego.
Chỉ xa xôi
cách trở về thời gian cho phép chúng ta nhìn thực tại mà không tô mầu,
vẽ vời
nó, bằng những đam mê của chúng ta. Và thực tại, nhìn theo cách này,
thì đẹp.
Chính vì thế mà quá khứ quan trọng đến như thế: “Ý nghĩa thực tại thì
thuần khiết
ở trong nó. Đây là niềm vui thuần khiết. Đây là cái đẹp thuần khiết.
Proust”...
WANG CHIEN
736-835
The ancient
empire of China was an entire world for its inhabitants. Its remote
provinces
seemed to be exotic countries distinct by their geography and their
people's
way of life, such as, for instance, the South, largely identical with
the
territory of present-day Vietnam.
THE SOUTH
In the
southern land many birds sing;
Of towns and
cities half are un-walled.
The country
markets are thronged by wild tribes;
The
mountain-villages bear river-names.
Poisonous
mists rise from the damp sands;
Strange fires
gleam through the night-rain.
And none
passes but the lonely seeker of pearls
Year by year
on his way to the South Sea.
Translated
from the Chinese by Arthur Waley
Czeslaw
Milosz: A Book of Luminous Things.
An International Anthology
of Poetry
Note: Bài thơ
tả nước Mít ngày xưa, khi anh Tẫu mò xuống kiếm ngọc trai
Miền Nam
Ðất Phương Nam
nhiều chim ca
Thành phố, đô
thị một nửa không có tường
Chợ búa bộ lạc
hoang dã tụ họp
Bản làng vùng
núi mang tên sông
Sương độc bốc
lên từ cát ẩm
Lửa lạ loé lên
qua mưa đêm
Chẳng ai mò
tới trừ bộ hành đơn độc
Năm qua năm
lại mò tới Biển Nam kiếm ngọc trai
Note: Nhân Tướng
Râu Kẽm đi xa, lướt net, vớ được một số bài liên quan.
Madame_Nguyen_Cao_Ky::sub::Exile
Madame Nhu 1
2
Thấy
mấy ông bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer
thiên
tài, Imre Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là
những người
Do Thái khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên….
Lê
Thị Huệ, Gió O
V/v
Isaac Bashevis Singer thiên tài, Nobel văn chương được mafia Do Thái
ban cho.
Gấu
nghi là bà Huệ có đọc một hai bài viết nào đó, về vụ này. Trên TV có
giới thiệu
bài của Milosz, viết về Chaim Grade, theo ông, bảnh hơn
Singer, đáng được
Nobel hơn.
TV
tóm tắt ở đây, và, thừa cơ tán phó mát thêm, về trường hợp nhà thơ TDT
và giải
thưởng Thơ của tông tông Diệm. Cũng 1 giai thoại trong chốn võ lâm. Và
cái vụ
chỉ còn vài ngày thì mất nước mà nhà thơ TTT đăng đàn đi 1 đường vinh danh Vũ
Hoàng Chương, có thể có tí liên can. (1)
Cái vụ phát
Nobel văn chương cho IBS gây một trường tán loạn trong giới Do Thái nói
tiếng
Yiddish ở New York. Grade xứng đáng hơn, nếu nói về nền tảng. Ở Mẽo,
tốt nhất
là đến từ Wilno, tệ là từ Warsaw, quá tệ, từ Galicia. Theo ý
kiến của đa
số trong trường đấu đá này, Grade bảnh hơn Singer, nhưng lại ít được
dịch dọt
qua tiếng Anh, đó là lý do Viện Hàn Lâm Thụy Ðiển không với tới Grade.
Theo đa
số này, Singer vớ được giải bằng lối cửa hậu. Quá bị ánh ảnh bởi sex,
ông ta tạo
dựng một thế giới Do Thái Ba Lan của riêng ông ta, chẳng có gì chung
với thực
tại sex, nghĩa là kỳ quái, đầy những “ngoại hứng”, những ma tình, ma
nữ, yêu nữ… như thể đó là thực tại hàng
ngày ở khu vực
Do Thái trong những thành phố. Grade là nhà văn thứ thực, trung thực
với thực tại
mà ông miêu tả, và ông xứng đáng được Nobel văn chương.
Source
*
Nhưng
tôn vinh cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời
chỉ làm
thơ, không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có một vài
người,
như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm
thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy
đưa đời
người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi phi lý
ấy
chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ
chẳng bao
giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay
làm thơ
như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng
thì vẫn là
cái “không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi
chi, biết
không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm
trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là tự
nhiên của
thơ và của việc làm thơ.
Thi
sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một đời
để ra
làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng”
từ “Phách
ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán”
đến Isabel
Baes đến nhị thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến
Ngày lớn.
Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu - hỏi thực
cũng như
chúng ta đây chúng ta trong giây phút này có biết chúng ta đi đến đâu -
nhưng
hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương
đang ăn nằm
với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách nói thôi.
Như Trang
nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì mới biết được
“chiêm bao
lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời? Ai biết? Mà nói
chi những
điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói. Tranh
nhau nói. Để
làm gì?
Thôi
nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng ta cần
nghe
thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
TTT
Thơ
là lời và hơn lời
Tuyệt!
Vũ Hoàng Chương by
Vien Linh
Năm
1941 Vũ Hoàng Chương là sinh viên Toán học Đại cương tại Đại học Hà
Nội, con
nhà Khoa bảng, giàu có (bố làm Tri huyện). Năm 1941 là năm ông thân
sinh Vũ
Hoàng Chương mệnh một, cho nên cái tang lớn ấy có khi là một ngăn trở
cho hôn
sự con cái.
14. YOU WHO
WERE BORN
You who were
born this night
To tear us
from the Devils might
-
TRADITIONAL POLISH CAROL
Whoever
considers as normal the order of things in which the strong triumph,
and the
weak fail, and life ends with death, accepts the devil's rule.
So
Christianity should not pretend it looks favorably upon this world, for
it sees
at the core of it the sin of desire, or Universal Will, to use the term
introduced by the great philosopher of pessimism, Schopenhauer, who
found in
Christianity and Buddhism a common trait: compassion for the
inhabitants of
earth, this vale of tears.
Whoever
places his trust in Jesus Christ waits for His coming and the end of
this
world, when the first heaven and the first earth pass, and death is no
more.
Ðấng sinh ra
đêm nay
để kéo chúng ta ra khỏi
quyền năng của Quỉ
Ðồng dao Ba
Lan
Kẻ nào coi là
tự nhiên, cái trật tự qua đó kẻ mạnh thắng kẻ yếu thua và đời sống chấm
dứt bằng
cái chết, kẻ đó chấp nhận luật của quỉ.
Như vậy Ky tô
giáo không thể coi thế gian này là OK, là bảnh lắm rồi, bởi vì nó nhìn
thấy ở
tim đen của thế gian này là tội thèm, hay Ước muốn Phổ cập, dùng từ của
triết
gia lớn về bi quan, Schopenhauer, người nhận ra nét chung của Ky Tô và
Phật giáo:
lòng trắc ẩn cho những con người ở trên thế gian, thung lũng nước mắt
này
Bất cứ kẻ nào
đặt niềm tin ở Chúa Ky Tô, kẻ đó đợi sự tới của Người và sự tận cùng
của thế giới
này, khi thiên đàng thứ nhất và trái đất thứ nhất qua đi, và cái chết
thì
không còn.
15. RELIGION
COMES
Religion
comes from our pity for humans.
They are too
weak to live without divine protection.
Too weak to
listen to the screeching noise of the turning of infernal wheels.
Who among us
would accept a universe in which there was not one voice
Of
compassion, pity, understanding?
To be human
is to be completely alien amid the galaxies.
Which is
sufficient reason for erecting, together with others, the temples of an
unimaginable mercy.
Czeslaw
Milosz: Second Space
What makes
our century the worse?
Has it,
dazed with grief and fear,
Touched the
blackest sore of all,
Yet not had
strength enough to heal?
Akhmatova
Solomon Volkov: Conversations with Joseph Brodsky. Rereading
Akhmatova's Letters
Cái khốn kiếp
của thế kỷ chúng ta, là cái gì?
Ðau quá, sợ
quá?
Ðen như mõm
chó?
Hay đếch đủ
sức mạnh để hàn gắn vết thương?
That's
Sicily
At night we
sailed past shadowed,
enigmatic
shores. Far off, the huge leaves
of hills
swayed like a giant's dreams.
Waves
slapped the boat's wood,
a warm wind
kissed the sails,
stars
rushed, helter-skelter,
to tell the
history of the world.
That's Sicily,
someone whispered,
three-cornered island, owl's breath,
handkerchief of the
dead.
Adam
Zagajewski
Sicily
Ðêm, thuyền chúng tôi vượt qua
những bến cảng rợp bóng, bí ẩn. Xa xa,
những tàng lá rộng trên những ngọn đồi
đu đưa như những giấc mộng của một tên khổng lồ.
Sóng vỗ mạn gỗ
Gió ấm hôn cánh buồm
Những ngôi sao xô đẩy nhau,
tranh nhau kể câu chuyện của
thế giới.
Sicily đấy, một người nào đó
thầm thì
Miếng đảo ba góc, hơi thở của
cú,
Khăn tay của người chết
Note:
K không
thấy
nghĩa chi lạ hơn là "lá" như nghĩa thông thường của nó .
"Xa xa,
những tán lá to lớn trên các ngọn đồi đu đưa như những giấc mộng của
một gã khổng
lồ " ...
tb . Anh Trụ
ơi, trong một bài thơ dịch của anh, Sea cucumber, theo K, dịch là con
hải sâm
(trừ phi anh không muốn dùng từ hán việt nên dùng chữ dưa biển ).
In China,
Sea Cucumber is called Hai Shen,
which
translates roughly into Sea Ginseng, and it is unclear whether this
refers to
its aphrodisiacal qualities or healthful properties as a tonic for the
kidneys
and blood. It has been used in China
for thousands of years as a treatment
for Arthritis,
fatigue, Impotence,
constipation,
frequent
urination and joint pain, and the herb was listed as a medicinal agent
in the
Bencao Congxin of 1757. ( http://www.herbalist.com/wiki.details/86/category/11/start/0/)
Phúc đáp:
Tks
Bài thơ của
Szymborka, Tự Trị, GNV đọc trong Chứng từ
Thơ, chương “Thơ và Sinh Học” của Czeslaw Milosz.
Szymborka,
nữ thi sĩ Ba Lan, Nobel văn chương, điểm tử huyệt của mấy anh thi sĩ
tiền chiến
theo Ðảng, suốt đời ăn bánh vẽ, về già, sắp đi tầu suốt, mới dám thú
thực.
Phải
đọc hai bài thơ, 1 của Chế Lan Viên, và 1 của Szymborska, thì mới thú
vị.
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái cánh sắp bay… trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn Mặt trời lên trên biển
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi – người có lỗi
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình.
Chế Lan Viên
Tự Trị
Gặp nguy hiểm hải sâm tự phân
đôi,
Thí một nửa cho thế giới xâu xé,
Nửa kia, chuồn,
Thật hung bạo, nó xé đôi nó ra, một nửa là tận thế, một nửa là cứu chuộc
một nửa là trừng phạt, một nửa là ban thưởng
một nửa là hôm qua, một nửa là ngày mai
Ở giữa hải sâm, một lỗ nẻ nẻ ra
Và hai rìa lập tức trở thành xa lạ với nhau.
Một rìa, cái chết, một rìa, đời sống.
Ðây, chán chường; kia, hy vọng
Nếu có 1 sự thăng bằng, thì OK.
Nếu có công lý, thì là như vậy đó.
Chết như là có thể, trong hạn vi, không vượt quá lằn ranh.
Sống trở lại, từ chút cứu chuộc còn lại.
Chúng ta, cũng biết cách phân thân
Nhưng chỉ để trở thành, một bên là thịt, một bên là lời thì thầm bị bẻ
gãy.
Một bên là thịt, và một bên là thơ ca.
Một bên là cổ họng, một bên là tiếng cười,
yếu ớt, tắt ngấm liền tức thì.
Ðây, trái tim nặng nề, kia, non omnis moriar,
chỉ ba từ nho nhỏ, như ba cái lông chim bay lên.
Lỗ nẻ không chia chúng ta
Một lỗ nẻ bao quanh chúng ta.
Szymborska. Tưởng nhớ [To the memory of] Halina
Poswiatowska
Note: Lá.
Miếng đảo ba góc, hơi thở của cú,
khăn tay của người chết.
Sicily: Nơi Thượng Ðế ẩn núp.
Cái cửa mở ra mọi siêu hình học và
tôn giáo.
Âm u và ẩm ướt…
Tuyệt!
Viễn Du
1. Không hành lý
Viễn du không hành lý, ngủ
trên xe lửa
Trên băng ghế gỗ cứng,
Quên mẹ quê hương đi
Ló ra từ một ga nhỏ
Khi bầu trời xám dâng lên
Và những thuyền đánh cá hướng ra biển
2. Ở Bỉ
Mưa bụi ở Bỉ
Con sông vòng vèo giữa những ngọn đồi.
Tôi nghĩ, mình mới đoảng làm sao
Cây ngồi ở cánh đồng
Như những tu sĩ trong bộ áo tu màu xanh.
Tháng Mười ẩn náu ở trong đám cỏ dại.
Không, thưa Bà,
Toa này cấm nói chuyện.
3. Một con diều hâu trên bầu trời xa lộ
Thật bực mình nếu nó lao
xuống
sắt lá, xăng, cái tape nhạc rẻ tiền
trái tim chật của chúng ta.
4. Bạch Sơn
Nó sáng chói, từ xa,
trắng, và cẩn trọng,
như một cái đèn cho những cái bóng
5. Segesta
Trên cánh đồng một ngôi
đền rộng -
một con vật hoang dã
mở ra bầu trời
6. Mùa hạ
Mùa hạ mới vĩ đại, mới
chiến thắng làm sao –
Và chiếc xe nhỏ của chúng ta như bị thất lạc
Trên con đường tới Verdun
7. Ga xe lửa ở Bytom
Trong đường hầm
mẩu thuốc lá, không phải cúc,
mọc,
ứa ra mùi cô đơn
8. Những người về hưu trên một chuyến đi
đồng quê
Họ học đi bộ
trên mặt đất
9. Hải âu
Thiên thu không đi du lịch
Thiên thu đợi
Ở một cảng đánh cá
chỉ có những đấng hải âu chí choé.
10. Nhà hát ở Taormina
Từ nhà hát ở Taormia
bạn nhận ra
tuyết ở trên đỉnh Etna
và biển sáng lóng lánh
Diễn viên nào bảnh hơn?
11. Một con mèo đen
Một con mèo đen
bước ra đón chúng tôi
như thể để nói, khi nó nhìn tôi,
và không thèm nhìn
một ngôi nhà thờ Romanesque cổ nào đó,
rằng tôi còn sống, chưa có ngỏm.
12. Một ngôi nhà thờ Romanesque
Ở cuối thung lũng
Một ngôi nhà thờ Romanesque yên nghỉ
Có rượu vang ở trong cái thùng tô nô này.
13. Ánh sáng
Ánh sáng trên tường những
căn nhà cũ
Tháng Sáu
Bộ hành đi qua,
hãy mở to mắt
14. Rạng đông
Thế giới vật chất rạng đông
Và linh hồn thì mỏng manh.
Adam Zagajewski
Có
lẽ thật lý thú nếu nhìn tác phẩm của Rilke, không trong trắng, không lâng lâng, siêu thoát như nhiều độc giả
thường.
Nói
cho cùng, như đa số những nhà hiện đại văn học, ông là một người
chống-hiện đại;
một trong những xung động chủ yếu ở trong tác phẩm của ông là cố mò cho
ra cái
gọi là thuốc chủng, thuốc phòng, căn bịnh khủng: hiện đại tính. Những
nhân vật
trong những bài thơ của ông thì tà tà đi lại ở trong không gian tinh
thần, không
phải ở những con phố ở Nữu Ước hay Ba Lê, không chỉ vậy, mà họ còn, do
cái sự
hiện hữu rất căng của họ, hành động chống lại cái sự xấu xí giả dụ, giả
định
hay thực sự, của thế giới hiện đại.
Ngay cả cái vẻ xì nốp của Rilke, giả thuyết
hay không, thì có thể được nhìn như là xứng hợp với những ý tưởng của
ông, hơn
là sự yếu đuối của nhân vật của ông:
Đám trưởng giả trình ra trước ông, nhà thi
sỡi, thì như là những kẻ sống sót của một Âu Châu tốt đẹp, một lục địa
dành cho
những vị hiệp sĩ hào hiệp, nịnh đầm như điên, ngược hẳn lại cái
sự băng
hoại do cái thế giới hiện đại chỉ khoái lợi nhuận gây ra, chỉ mê đô la
Mẽo, sản
xuất hàng loạt, cả đống, cho đại chúng ngu đần và mê đua xe.
SUBMERGED
CITY
That city
will be no more, no halos
of spring
mornings when green hills
tremble in
the mist and rise
like barrage
balloons-
and May
won't cross its streets
with
shrieking birds and summer's promises.
No
breathless spells,
no chilly
ecstasies of springwater.
Church
towers rest on the ocean's floor,
and flawless
views of leafy avenues
fix no one's
eyes.
And still we
live on calmly, humbly-from suitcases,
in waiting
rooms, on airplanes, trains,
and still,
stubbornly, blindly, we seek an image, the final form of things
between
inexplicable fits
of mute
despair-
as if
vaguely remembering something that cannot be recalled,
as if that
submerged city were traveling with us, always asking questions,
and always
unhappy with our answers –
exacting,
and perfect in its way.
Adam
Zagajewski
Thành phố chìm
Thành phố đó
không còn nữa, không còn những vầng hào quang
của những buổi sáng mùa xuân, khi những
ngọn đồi xanh run rẩy trong sương mù
và dâng lên như những trái banh tạo thành
1 con đập –
và Tháng Năm
đâu còn lướt qua những con phố của nó
với những đàn
chim cười ngặt nghẽo và những hứa hẹn mùa hè.
Không say mê
nghẹt thở,
không cực lạnh giếng nước ngầm.
Những tháp
nhà thờ nằm nghỉ trên sàn biển,
Và những cái
nhìn toàn mỹ những đại lộ rợp lá
sẽ chẳng bắt
mắt ai.
Và chúng ta
vưỡn sống ở đó, trầm lặng, khiêm tốn - từ
những chiếc va li
trong phòng đợi, trong máy bay, xe lửa,
và vưỡn, bướng
bỉnh, mù lòa, chúng ta tìm một hình ảnh,
vóc dáng sau cùng của sự vật,
giữa những
mẩu không làm sao giải thích được của sự chán chường câm nín -
như thể mơ hồ nhớ một điều
chi không thể nào
nhớ lại được,
như thể thành
phố chìm du hành cùng chúng ta, luôn luôn hỏi những câu hỏi
mà nó tkhông hài lòng
với những câu trả lời của chúng ta –
đúng, hoàn hảo theo cách của nó.
Zagajewski
on Rilke
A POOR
CHRISTIAN LOOKS AT THE GHETTO
Bees
build
around red liver,
Ants build
around black bone.
It has
begun: the tearing, the trampling on silks,
It has
begun: the breaking of glass, wood, copper, nickel, silver, foam
Of gypsum,
iron sheets, violin strings, trumpets, leaves, balls, crystals.
Poof!
Phosphorescent fire from yellow walls
Engulfs
animal and human hair.
Bees build
around the honeycomb of lungs,
Ants build
around white bone.
Torn is
paper, rubber, linen, leather, flax,
Fiber, fabrics, cellulose, snakeskin,
wire.
The roof and
the wall collapse in flame and heat seizes the foundations.
Now there is only
the earth, sandy, trodden down,
With one
leafless tree.
Slowly,
boring a tunnel, a guardian mole makes his way,
With a small red lamp fastened
to his forehead.
He touches
buried bodies, counts them, pushes on,
He
distinguishes human ashes by their luminous vapor,
The ashes of each man by a
different part of the spectrum.
Bees build around a red trace.
Ants build
around the place left by my body.
I am afraid,
so afraid of the guardian mole.
He has swollen eyelids, like a Patriarch
Who
has sat much in the light of candles
Reading the great book of the species.
What will I
tell him, I, a Jew of the New Testament,
Waiting two thousand years for the
second coming of Jesus?
My broken body will deliver me to his sight
And he will
count me among the helpers of death:
The
uncircumcised.
Warsaw, 1943
Czeslaw
Milosz: Selected Poems 1931-2004
Một tên Ky
tô đáng thương nhìn ghetto
Ong làm tổ
quanh cục gan đỏ
Kiến bu kín
một khúc xương đen.
Bắt đầu: Sự xé
rách, giậm chân lên lụa
Bắt đầu: tiếng
bể gãy của kiếng, gỗ, đồng, thiếc, bạc, bọt thạch cao,
sắt miếng, dây đàn
violon, kèn, lá, trái banh, thuỷ tinh.
Ôi chao! Lửa
lân tinh bay lên từ những bức tường vàng
Nhận chìm
trong chúng là loài vật và tóc người.
Ong làm mật
từ phổi
Kiến xây nhà
từ xương trắng.
Tơi tả là giấy,
cao su, vải, da, sợi, thớ, da rắn, dây.
Mái nhà, tường,
sụp xuống trong lửa, và sức nóng,
ôm lấy toàn hiện trường.
Bây giờ chỉ
còn đất, cát, cầy nát,
Với một thân
cây trụi lá.
Chầm chậm đào, chuột nhũi thiên
thần mở đường hầm
Với một cây đèn đỏ buộc trên trán.
Nó sờ vô những xác người chôn lấp, đếm chúng, đùn tới.
Nó phân biệt tro người bằng hơi lân phát ra.
Tro cốt mỗi người, bằng phần khác biệt của quang phổ.
Ong làm tổ dọc theo một vệt đỏ.
Kiến xây nhà nơi thân tôi bỏ lại
Tôi sợ, rất sợ chuột nhũi thiên
thần
Mi mắt nó xưng phồng giống như
Ông
Trùm
Người ngồi dí dưới ánh đèn
cầy
Ðọc cuốn sách
lớn về chủng loại
Tôi sẽ nói với Ông Trùm điều gì bây giờ,
Tôi, một tên Do Thái của Tân Thánh Kinh,
Ðợi hai ngàn năm, ngày Chúa
Ky Tô trở lại lần thứ nhì?
Và cái thân thể vụn nát của tôi sẽ bày ra trước cái nhìn của người
Và người sẽ tính tôi, giữa những kẻ trợ giúp thần chết:
Những kẻ vô đạo?
ZHIVAGO'S
POEMS
HAMLET
Bản tiếng
Anh
The noise is
stilled. I come out on the stage.
Leaning
against the door-post
I try to
guess from the distant echo
What is to
happen in my lifetime.
The darkness
of night is aimed at me
Along the sights
of a thousand opera-glasses.
Abba.
Father, if it be possible,
Let this cup
pass from me.
I love your
stubborn purpose,
I consent to
play my part.
But now a different
drama is being acted
For this
once let me be.
Yet the
order of the acts is planned
And the end
of the way inescapable.
I am alone:
all drowns in the Pharisee’s hypocrisy.
To live your
life is not as simple as to cross a field (1).
(1) The
last line
is a Russian proverb
Bản tiếng
Tây
Tout se
tait. Je suis monté sur scène,
Et j'écoute,
adossé au montant
De la porte,
la rumeur lointaine
Qui
m'annonce tout ce qui m'attend.
Et je suis
la cible des ténèbres
Cent
jumelles sont braquées sur moi.
S'il se peut
encore, Abba mon père,
Cette coupe,
écarte-la de moi!
Ton dessein
têtu, pourtant je l'aime,
Et ce rôle,
je le prends en gré.
Mais un
autre drame est sur la scène:
Donne-moi
pour cette fois congé.
Mais on a
pesé l'ordre des actes,
Rien ne peut
changer le dénouement.
Je suis
seul. Les pharisiens sont maîtres.
Vivre, ce
n'est pas franchir un champ.
Bản
tiếng Mít
Tiếng ồn tắt ngấm. Tôi bước lên
sàn diễn
Dựa vào cột cửa,
Tôi cố phân biệt tiếng dội từ xa,
Nó sẽ quyết định phần số của tôi.
Tôi trở thành cái đích của đêm
đen
Nó chiếu vào tôi hàng trăm ống nhắm
Abba. Cha ơi. Nếu có thể,
Hãy bỏ qua cho con, cái cúp này.
Con yêu cái ý định bướng bỉnh
của cha.
Con bằng lòng chơi phần của
con.
Nhưng lúc này một vở khác đã
được trình diễn:
Vở này, cho phép con được
nghỉ chơi.
Nhưng, lệnh lạc đã được phát ra,
Thế là sau cùng đành chịu trận.
Tôi thì chỉ có một mình:
Tất cả là do thói đạo đức giả của đám người
Pharisee.
Sống, không có đơn giản như là
vượt qua 1 cánh đồng. (1)
(1)
Tục ngữ Nga
POEMS ON
POLAND
I read poems
on Poland written
by foreign
poets. Germans and Russians
have not
only guns, but also
ink, pens,
some heart, and a lot
of
imagination. Poland in their poems
reminds me
of an audacious unicorn
which feeds
on the wool of tapestries, it is
beautiful,
weak, and imprudent. I don't know
what the
mechanism of illusion is based on,
but even I,
a sober reader,
am
enraptured by that fairy-tale defenseless land
on which
feed black eagles, hungry
emperors,
the Third Reich, and the Third Rome.
Adam
Zagajewski
Thơ về Ba
Lan
Tôi đọc những
bài thơ về Ba Lan,
được viết bởi
những nhà thơ nước ngoài. Người Ðức, người Nga
không chỉ có súng, mà còn có
mực,
cây viết, một dúm tim, và rất nhiều
trí tưởng tượng. Ba Lan trong thơ của họ
làm
tôi nhớ đến 1 con kỳ lân một sừng táo bạo sống trên mấy tấm thảm len,
nó thì
đẹp,
yếu ớt, và bất cẩn. Tôi không biết
cơ chế ảo tưởng nào đã được dựa trên đó,
nhưng
ngay tôi, một độc giả khiêm tốn
mà còn mê mẩn bởi mảnh đất thần tiên hiền hòa, cưu mang
những bầy diều hâu đen, những vì hoàng đế đói khát,
Ðệ Tam Reich, và Ðệ
Tam La Mã.
Adam
Zagajewski
1969
Gombrowicz
died; Americans walked on the Moon,
hopping cautiously, as though it might
break.
Erbarme
dich, mein Gott, one black woman sang
in a certain
church.
Summer
scorched us, the lake water was warm and sweet.
The cold war dragged on, the
Russians occupied Prague.
We met for the first time that year.
Only the
grass, worn and yellow, was immortal.
Gombrowicz died. Americans walked on the
Moon.
Have mercy, time. Have mercy, destruction.
Adam
Zagajewski
1969
Gombrowicz chết; người
Mẽo đi bộ trên mặt trăng,
thật cẩn trọng,
như sợ bể cái bánh bèo.
Erbarme
dich, mein Gott một bà đen hát
ở nhà thờ nào đó.
Mùa hạ đốt chúng
tớ cháy xém, nước hồ thì ấm và ngọt.
Cuộc chiến lạnh
cứ thế rề rề, người Nga chiếm đóng Prague.
Chúng mình gặp
nhau lần đầu tiên năm đó.
Chỉ có lũ cỏ,
khô đi, vàng đi, thì bất tử.
Gombrowicz
chết. Người
Mẽo đi bộ trên mặt trăng.
Hãy cứu chuộc,
hãy thời gian. Hãy cứu chuộc, huỷ diệt.
1969
Những đêm trực
ở Đài, hoặc ngủ ngay sau khi đọc vớ vẩn một mẩu báo, một trang tiểu
thuyết,
nghe lơ đãng một điệu nhạc, một giọng hát, chập chờn theo khói thuốc
rồi ngủ
lúc nào không hay. Có khi ngủ luôn tới sáng. Đó là những đêm thành phố
may mắn
không bị pháo kích, tình hình chiến sự tương đối yên tĩnh. Nhưng hầu
như đêm
nào cũng bị dựng dậy. Khi thì nhân viên viễn ký hai hãng AP, UPI yêu
cầu chỉnh
lại tín hiệu. Hoặc đồng nghiệp trực Đài phát tín Phú Thọ nhắc đến giờ
thay đổi
tần số liên lạc. Có khi một đồng nghiệp Phi Luật Tân ở mãi Manila réo
chuông
máy viễn ký liên hồi, chỉ để hỏi thăm thời tiết Sài-gòn, tình trạng vợ
con gia
đình, hay nhờ dịch giùm một message bằng tiếng Pháp của hãng SITA than
phiền
nhân viên RCA Manila làm ăn cẩu thả. Một lần ngủ quá say dù đã cẩn thận
để điện
thoại ngay kế bên, và chỉ giật mình thức giấc khi nghe tiếng đập cửa ầm
ầm: Anh
chàng Mẽo trưởng phòng tin tức AP và nhân viên viễn ký, cũng đồng
nghiệp Bưu Điện
làm ngoài giờ cho hãng thông tấn ngoại quốc, một đỏ gay tức giận, một
lắc đầu
ái ngại, hình như vào lúc đó hai ông Thiệu Kỳ đang gặp tổng thống
Johnson tại đảo
Midway. Hôm sau bị ông Tổng Giám Đốc, cũng may còn là thầy dậy cũ khi
học trường
Quốc Gia Bưu Điện, gọi lên văn phòng giũa cho một trận. Bị nặng nhất là
trong Mậu
Thân đợt hai. Khoảng gần nửa đêm, UPI vớ được hình đặc biệt, bằng mọi
giá phải
chuyển ngay đi Tokyo: Chừng trên dưới một chục ký giả, phóng viên ngoại
quốc,
ngồi xe díp lùn có gắn bảng báo chí, Press, ở kính trước, không may bị
Việt Cộng
tóm được tại khu chợ Thiếc. Sau cùng là thảm sát. Người gục chết trên
vô lăng,
kẻ vắt nửa khúc đầu trên sàn xe, nửa khúc đuôi trên mặt lộ. Sau này,
khi cuộc
chiến nghiêng về phía Miền Bắc, dư luận thế giới hình như chỉ còn nhớ
cảnh tướng
Loan xử bắn tù binh ngay trên đường phố. Hôm sau, Horst Fass, trưởng
phòng hình
ảnh AP, thay vì gọi điện thoại than phiền với Trưởng Đài Vô Tuyến Điện
Thoại,
anh viết văn thư tố cáo gã chuyên viên trẻ, Jeune Technicien, nhân viên
Bưu Điện
làm cho UPI, đã gửi hình trong giờ giới nghiêm. Sau cùng mọi chuyện
cũng ổn thỏa,
vì ngay những ngày đầu biến cố Mậu Thân, khi hai bên đang tranh giành
từng viên
gạch, hoặc đánh cuộc xem tao Dù hay mày Biệt Động Thành, ai chết trước
tại Đài
Phát Thanh Sài-gòn ngay kế bên, khi đám quân cảnh Mỹ đang vật lộn tay
đôi với
Việt Cộng tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cách đó cũng không xa, gã chuyên viên
trẻ do
nhà ở cạnh Đài, lại đúng đêm trực nên đã một mình "tử thủ", sau thêm
tay phóng viên AP được đám lính Dù, lính chiến xa mở vòng kẽm gai cho
vào bên
trong phòng tuyến. Gã chuyên viên trẻ đã chuyển hình cho AP, giùm ông
bạn già
trước cũng nhân viên Bưu Điện nhưng bị An Ninh Quân Đội cho đi nằm ấp
một thời
gian dài, khi được thả bị Bưu Điện cho về hưu non, do có kẻ tố cáo ông
là Việt
Cộng nằm vùng ngay từ hồi còn ông Diệm. Sự thực ông bị một đồng nghiệp
mưu hại
chỉ vì nhất định không vào đảng Cần Lao hay tham gia phong trào Cách
Mạng Quốc
Gia. Những ngày đầu tháng Tư, AP đề nghị cho cả gia đình ông đi Mỹ,
nhưng ông từ
chối.
Cõi Khác
NQT
Sau này anh
đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi
viết đâu? Một nửa
Cái cần đưa
vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng
đau, giết một tiếng cười
Giết một kỷ
niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái
cánh sắp bay… trước khi tôi viết
Tôi giết bão
táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn
Mặt trời lên trên biển
Giết mưa và
giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu
thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng
xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này
rơi đến tay anh
Anh bảo đấy
là tôi
Không phải!
Nhưng cũng
chính là tôi – người có lỗi
Đã giết đi
bao nhiêu cái
Có khi không
có tội như mình.
Chế
Lan Viên
Bài
thơ trên, nếu biểu là thơ, thì không hẳn đúng, vì nó là 1 thứ sám hối,
mà cũng
nhảm. Nó làm Gấu nhớ đến Milosz, và bài thơ ông trích dẫn Szymborska,
chửi bố cái
thứ thơ “sám hối 1 nửa” này:
The chasm
doesn’t split us.
A chasm
surrounds us
Lỗ nẻ không
phân đôi chúng ta
Một cái lỗ nẻ
bao quanh chúng ta.
Nhà
thơ TDT khi trả lời độc giả trên DTL.com [đọc mục “thơ mỗi ngày”], đã
vinh danh
"thơ muộn" của Chế Lan Viên, hẳn là ông nghĩ tới những bài thơ như
trên.
Milosz,
trong cuốn Chứng từ Thơ, khi
viện tới bài thơ của Szymborska, là cũng nhắm tới
những cas như thế này.
Chỉ là trò
giả đò mà thôi.
Nên
nhớ, những nhà thơ như Szymborska, Milosz có chung những kinh nghiệm
như Chế,
như Khải.
Autonomy
In danger
the holothurian splits itself in two:
it offers
one self to be devoured by the world
and in its
second self escapes.
Violently it
divides itself into a doom and a salvation,
into a
penalty and a recompense, into what was and what will be.
In the
middle of the holothurian’s body a chasm opens
and its
edges immediately become alien to each other.
On the one
edge, death, on the other, life.
Here
despair, there, hope.
If there is
a balance, the scales do not move.
If there is
justice, here it is.
To die as
much as necessary, without overstepping the bounds.
To grow
again from a salvaged remnant.
We, too,
know how to split ourselves
but only
into the flesh and a broken whisper.
Into the
flesh and poetry.
On one side
the throat, on the other, laughter,
slight,
quickly calming down.
Here a heavy
heart, there non omnis moriar,
three little
words only, like three little plumes ascending.
The chasm
doesn’t split us.
A chasm
surrounds us.
To
the memory of Halina Poswiatowska
Tự Trị
Gặp nguy hiểm dưa biển tự phân
đôi,
Thí một nửa cho thế giới xâu xé,
Nửa kia, chuồn,
Thật hung bạo, nó xé đôi nó ra, một nửa là tận thế, một nửa là cứu chuộc
một nửa là trừng phạt, một nửa là ban thưởng
một nửa là hôm qua, một nửa là ngày mai
Ở giữa dưa biển, một lỗ nẻ nẻ ra
Và hai rìa lập tức trở thành xa lạ với nhau.
Một rìa, cái chết, một rìa, đời sống.
Ðây, chán chường; kia, hy vọng
Nếu có 1 sự thăng bằng, thì OK.
Nếu có công lý, thì là như vậy đó.
Chết như là có thể, trong hạn vi, không vượt quá lằn ranh.
Sống trở lại, từ chút cứu chuộc còn lại.
Chúng ta, cũng biết cách phân thân
Nhưng chỉ để trở thành, một bên là thịt, một bên là lời thì thầm bị bẻ
gãy.
Một bên là thịt, và một bên là thơ ca.
Một bên là cổ họng, một bên là tiếng cười,
yếu ớt, tắt ngấm liền tức thì.
Ðây, trái tim nặng nề, kia, non omnis moriar,
chỉ ba từ nho nhỏ, như ba cái lông chim bay lên.
Lỗ nẻ không chia chúng ta
Một lỗ nẻ bao quanh chúng ta.
Auden phán,
thật hách, Thơ làm cho chẳng cái gì xẩy ra, “Poetry makes nothing
happen”.
Với Kundera, qua bài viết của Alain Schaffer,
khi đọc cuốn “Ðời ở đâu đó” của K, thì thơ là 1 trò đại ma đầu, siêu
lừa, siêu
gian trá, « La poésie, toute poésie, toute
pensée
poétique est supercherie. Ou plutôt: un piège, et l'un des plus
redoutables qui
soit", [thơ, mọi thơ, mọi tư duy về thơ là 1 siêu lừa, siêu gian trá.
Hay 1 cái bẫy, 1 trong những bẫy đáng sợ nhất], và
đây đúng là cái thứ thơ Bắc Kít nhờ nó mà ăn cướp được Miền Nam, « ce n'était pas seulement le temps de
l'horreur, c'était
aussi le temps du lyrisme! Le poète régnait avec le bourreau" [đâu phải
chỉ
là thời của ghê rợn, mà còn là thời của trữ tình, nhà thơ trị vì cùng
với đao
phủ”], « La révolution et la jeunesse forment un couple”, [cách mạng và tuổi trẻ tạo thành một cặp].
Công thức
của
cái tít, la formule du titre, "Ðời ở đâu
đó", theo Alain Schaffner, tác
giả bài viết đã dẫn, thì ‘mượn’ của Rimbaud - Ðời thực thì vắng mặt.
Chúng ta
không có trên đời, Một mùa địa ngục – và
của André Breton: Sự hiện hữu thì ở đâu đó, Tuyên
ngôn của chủ nghĩa siêu thực. Tuy nhiên, cũng trong viết, tác giả
đi một cái note, theo Bernard
Pingaud, hiểu như thế là hiểu ngược nghĩa. Ðúng ra phải hiểu
là: “Ðời thực” vắng mặt không phải là đời khác, một cuộc đời mà chúng
ta hoài
mong, nhưng chính là cuộc đời vừa lỡ. [La ‘vraie vie’ absente n’est pas
une autre vie, à laquelle nous aspirerions, c’est cette même vie qui
vient à manquer
[ui chao, lại nhớ thơ của… Gấu: Không
phải tiếc cuộc đời đã sống/Mà một đời bỏ lỡ/Nhớ hoài]!