Thơ mỗi ngày
Traveler
A certain
traveler, who believed in nothing,
found himself one summer in a foreign city.
Lindens were
blossoming, and foreignness bloomed devoutly.
An unknown
crowd walked down the fragrant boulevard,
slowly, full of fear, perhaps because
the setting
sun weighed more than the horizon
and the
asphalt's scarlet might not
just be shadows and the guillotine
might not grace
museums alone
and church
bells chiming in chorus
might mean
more than they usually mean.
Perhaps that's why the traveler kept
putting his
hand to his chest, checking warily
to make sure he still had his return ticket
to the
ordinary places where we live.
Du khách
Du khách, du
khách, con đường vắng
Trí lớn chưa
về, bàn tay không
Thì không
bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ
già cũng đừng trông
Tống Biệt
Hành
Một tay du
khách, chẳng tin gì cả
mùa hè bỗng
thấy mình ở trong 1 thành phố ngoại.
Linder đang
nở rộ, tính ngoại thì cũng đã thật là nhiệt tình.
Một đám đông
không quen biết, đi trên một đại lộ thơm ngát,
chầm chậm, đầy
sợ hãi, có lẽ là vì
mặt trời lặn
nặng nề hơn chân trời,
và màu đỏ tươi
của nhựa đường thì không hẳn
chỉ là những cái bóng và cái máy chém.
và bản đồng ca tiếng
chuông nhà thờ
đâu đơn giản, mà hơn thế nhiều.
Có thể vì thế
mà người du khách vẫn
thọc tay vào ngực, ngại
ngần
và chỉ cảm
thấy an tâm
khi sờ thấy
cái vé khứ hồi
đưa anh ta
trở về nơi thường lệ
nơi chúng
ta sống.
Elegy
It was a
gray landscape, houses small
as Tartar
ponies, concrete high-rises,
massive, stillborn; uniforms everywhere, rain,
drowsy rivers not knowing where to flow,
dust, Soviet gods with swollen
eyelids,
sour smell
of gas, sweet smell of tedium,
grimy trains, the red-eyed dawn.
It was a
little landscape, endless winters,
in which
there dwelled, as if in ancient lindens,
sparrows and
knives and friendship and leaves of treason;
the arcs of
village streets; pinched meadows; on a park bench
someone idly played the
accordion
and for a
moment you could breathe air
lighter than fatigue.
It was a
waiting room with brown walls,
a courtroom, a clinic; a room
where tables
slumped under files
and ashtrays
choked on ashes.
It was
silence or loudspeakers shrieking.
A waiting room where you waited
a lifetime
to be born.
Our
short-lived loves lasting so long,
our mighty
laughter, ironies and triumphs
perhaps still fading in a police station
on the map's
margin, on the edge of imagination.
The voices, the hair of the dead.
The
chronometers of our desire,
a time full
of emptiness.
It was a
black landscape, only the mountains were blue
and a rainbow sloped. There were
no promises, no hopes,
but we lived there, and not as strangers.
It was the
life we'd been given.
It was patience, glacier-pale.
It was fear
full of guilt. Courage
full of
anxiety. Anxiety filled with power.
The Last Storm
Some are
leaving.
Others drink silence.
Only storms
shriek now in August
like a
madman hauled off in an ambulance.
Branches beat our cheeks.
Alder leaves
smell of sleep and straw oil.
You must listen, listen, listen.
Tired
springs breathe under water.
At four in
the morning
the last,
lonely bolt of lightning
scribbles something quickly in the sky.
It says
"No." Or "Never."
Or
"Take courage, the fire's not dead."
Adam
Zagajewski
Adam
Zagajewski (born 21 June 1945 in Lwów (now Lviv), Ukraine) is a Polish
poet,
novelist, translator and essayist.
In 1982 he
emigrated to Paris, but in 2002 he returned to Poland, and resides in
Kraków.
His poem "Try To Praise The Mutilated World", printed in The New
Yorker, became famous after the 11 September attacks. He is currently a
faculty
member at the University of Chicago and a member of its Committee on
Social
Thought. He teaches two classes, one of which is on fellow Polish poet
Czesław
Miłosz. He was awarded the Bronze Cross of Merit, and twice received
the
Officer's Cross of the Order of Polonia Restituta. In 1992, he received
a
Guggenheim Fellowship.
Wiki
Adam
Zagajewski sinh ngày 21 tháng Sáu 1945, tại Lwów, bây giờ là Lviv,
thuộc Ukraine.
Là thi sĩ, tiểu thuyết gia, dịch giả, và tiểu luận gia Ba Lan.
Năm 1982, ông
di cư qua Paris, nhưng 2002 trở về Ba Lan, cư ngụ tại Kraków. Bài thơ
“Hãy cố mà
ca ngợi một thế giới bị tùng xẻo”, xuất hiện trên tờ Người Nữu Ước trở
nên nổi
tiếng sau cú 11/9. Ông hiện là thành viên phân khoa của Ðại học
Chicago, và là
thành viên của Uỷ ban Tư tưởng Xã hội. Ông dạy hai khoá, một về bạn thơ
Ba Lan của ông, Czesław Miłosz.
Tưởng Niệm
Czeslaw Milosz [1911-2004]
Reason and
Rose
Adam
Zagajewski
Nhưng có lẽ,
ý nghĩa sâu xa nhất của thái độ chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi
nào đó;
theo gót những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một
kiểu
suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình với sự nhủ lòng, trước số phận của
một con
người bình thường.
Tuyệt!
Milosz, giống
như Cavafy hay Auden, thuộc dòng những thi sĩ mà thơ ca của họ dậy lên
mùi
hương của trí tuệ chứ không phải mùi hương của những bông hồng.
Nhưng Milosz
hiểu từ trí tuệ, reason, intellect, theo nghĩa thời trung cổ, có thể
nói, theo
nghĩa “Thomistic” [nói theo kiểu ẩn dụ, lẽ dĩ nhiên]. Điều này có nghĩa
là, ông
hiểu nó theo một đường hướng trước khi xẩy ra cuộc chia ly đoạn tuyệt
lớn, nó cắt
ra, một bên là, sự thông minh, trí tuệ của những nhà duy lý, còn bên
kia là của
sự tưởng tượng, và sự thông minh, trí tuệ của những nghệ sĩ, những
người không
thường xuyên tìm sự trú ẩn ở trong sự phi lý, irrationality.
Thơ trí tuệ
vs Thơ tình cảm
Buổi sáng ra
biển
thấy mặt trời
thấy đảo
thấy thuyền
cất một mẻ
lưới buồn
rồi đi.
08.2009,
Cửa Lò
Nguồn: Diễn
Đàn Forum
Cái tay [Zagajewski]
vinh danh Milosz, khi ông mất, mới thật tuyệt. Cũng nói về cái chất tôn
giáo ở
nơi ông, nhưng không chỉ có thế, mà còn lần ra cái gốc trí tuệ ở nơi
ông, có
liên can tới chất tôn giáo.
Đọc bài này,
Gấu mới nhận ra, tại làm sao dòng thơ TTT không có hậu duệ:
Nhà thơ nhà
văn Mít của chúng ta quá thiếu chất trí tuệ, và quá dư chất tình cảm,
và chẳng
có một tí ti, chất tôn giáo. (1)
Trừ một ông,
đã chết, vì bịnh cùi.
Thơ Mít, có
ông, [có ông con khỉ, cả một lũ] cả 1 đời
chỉ làm thơ.. tình cảm, nghĩa là, tán gái.
HC bị Ðảng bắt,
sợ quá, [không phải sợ chết], viết tự kiểm, xin tha, để được về nhà làm
thơ tán
gái, đi tìm lá diêu bông cho chị gái, em gái.
Thà rằng thế.
Bởi vì một
khi không làm thơ tán gái, thì lại làm thơ cách mạng. Làm thơ tán gái
thịt chỉ
1 em, làm thơ cách mạng thịt cả một dân tộc.
Tống biệt
hành
Đưa người,
ta không đưa qua sông
Sao có tiếng
sóng ở trong lòng
Bóng chiều
không thẳm, không vàng vọt
Sao đầy
hoàng hôn trong mắt trong ?
Đưa người ta
chỉ đưa người ấy
Một giã gia
đình một dửng dưng...
-Li khách!
Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn
chưa về bàn tay không
Thì không
bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ
già cũng đừng mong.
Ta biết người
buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa
hạ sen nở nốt,
Một chị, hai
chị cũng như sen,
Khuyên nốt
em trai dòng lệ sót.
Ta biết người
buồn sáng hôm nay:
Giời chưa
mùa thu tươi lắm thay
Em nhỏ ngây
thơ đôi mắt biếc
Gói tròn
thương tiếc chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ
nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi
như chiếc lá bay.
Chị thà coi
như là hạt bụi,
Em thà coi
như hơi rượu say.
1940
Thâm Tâm
Viễn Du / En Route
1. WITHOUT BAGGAGE
To travel without baggage, sleep in the train
on a hard wooden bench,
forget your native land,
emerge from small stations
when a gray sky rises
and fishing boats head to sea.
Adam Zagajewski
1. Không hành lý
Viễn du không hành lý, ngủ trên xe lửa
Trên băng ghế gỗ cứng,
Quên mẹ quê hương đi
Ló ra từ 1 ga nhỏ
Khi bầu trời xám dâng lên,
Và những thuyền đánh cá hướng ra biển
Anthology
That evening I was reading an anthology.
Scarlet clouds grazed outside my window.
The spent day fled to a museum.
And you-who are you?
I don't know. I didn't know
if I was born for gladness?
Sorrow? Patient waiting?
In dusk's pure air
I read an anthology.
Ancient poets lived in me, singing.
Adam Zagajewski
Tuyển tập thơ
Buổi chiều, tôi ngồi đọc một tuyển tập thơ
Mây đỏ lướt lướt bên ngoài cửa sổ
Ngày qua đi bèn chạy vô viện bảo tàng
Còn anh – anh là ai?
Tôi không biết. Tôi không biết
Mình sinh ra, vì vui?
Buồn? Kiên nhẫn chờ đợi?
Trong không khí tinh khiết của buổi hoàng hôn
Tôi đọc một tuyển tập thơ
Những nhà thơ xưa cũ sống ở trong tôi, hát.
Transformation
I haven't written a single poem
in months.
I've lived humbly, reading the paper,
pondering the riddle of power
and the reasons for obedience.
I've watched sunsets
(crimson, anxious),
I've heard the birds grow quiet
and night's muteness.
I've seen sunflowers dangling
their heads at dusk, as if a careless hangman
had gone strolling through the gardens.
September's sweet dust gathered
on the windowsill and lizards
hid in the bends of walls.
I've taken long walks,
craving one thing only:
lightning,
transformation,
you.
Chuyển biến
Mấy tháng rồi, Gấu chẳng làm được 1 bài thơ nào
Gấu sống khiêm tốn, đọc báo
Suy tư về thai đố quyền lực
Và lý do Mít vâng lời VC, sợ anh Tẫu
Gấu ngắm mặt trời lặn
[đỏ, bức xức]
Gấu nghe chim bớt hót
Và đêm câm nín
Gấu nhìn hướng dương đong đưa
những cái đầu của chúng ra trước hoàng hôn,
như thể 1 tay đao phủ bất cẩn đang lang thang trong khu vườn.
Bụi tháng Chín ngọt ngào tụ lại ở bậu cửa sổ, và thằn lằn
ẩn mình ở những góc tường.
Gấu chơi những cú tản bộ dài.
Thèm mỗi 1 chuyện:
đốn ngộ,
chuyển biến,
BHD
Robesplerre Before the Mirror
I have thin lips and a sharp nose.
There's something austere about my face.
My gaze is stern
and implacable.
Historians of our great revolution will surely describe me this way.
"Ruthless, implacable, ambitious."
I myself can't know who I am,
but now, at dawn, in June,
in the village where I stand before a mirror
rosy from the rising sun,
I perceive in my face the smile
and softness
one usually associates
with sentiment and weakness.
On my left cheek I bear a black cloud.
Robespierre Trước Gương
Tớ có cặp môi mỏng dính, mũi nhọn hoắt
Chẳng có vẻ khắc khổ, nếu nói về bộ mặt.
Cái nhìn nghiêm nghị,
không hề có tí bất nhẫn.
Những sử gia của cuộc cách mạng lớn của chúng tớ
chắc chắn sẽ miêu tả như vậy.
“Tàn nhẫn, đừng hòng hắn ta xiêu lòng, tham vọng từ đầu cho đến đít.”
Tớ, chính tớ thì lại đếch biết tớ là ai.
Nhưng giờ đây, vào lúc rạng đông, một ngày Tháng Sáu,
trong một làng, đứng trước một tấm gương,
ửng hồng với mặt trời đang lên
tớ cảm nhận, trên mặt tớ đang nở ra một nụ cười,
sự dịu dàng
mà người ta thường gán ghép chúng
với tình cảm, và sự yếu đuối.
Trên má trái của tớ trang điểm 1 đám mây đen.
Mandelstam Page
Osip Mandelstam never wrote this poem down. Only a handful of his most
trusted friends ever heard it. One of them betrayed him. After his
arrest in the fall of 1934, his interrogator at the Lubiyanka Prison in
Moscow confronted him with this hand-written copy. Here is a
translation by Max Hayward (quoted in Nadezhda Mandelstam, Hope Against
Hope, p. 13.):
The Stalin Epigram
We live, deaf to the land beneath us,
Ten steps away no one hears our speeches,
But where there’s so much as half a conversation
The Kremlin’s mountaineer will get his mention.
His fingers are fat as grubs
And the words, final as lead weights, fall from his lips,
His cockroach whiskers leer
And his boot tops gleam.
Around him a rabble of thin-necked leaders -
Fawning half-men for him to play with.
They whinny, purr or whine
As he prates and points a finger,
One by one forging his laws, to be flung
Like horseshoes at the head the eyes or the groin.
And every killing is a treat
For the broad-chested Ossette.
Osip Mandelstam
Mandelstam: Chân Dung Bác Xì
Chúng ta sống, điếc đặc trước mặt đất bên dưới
Chỉ cần mười bước chân là chẳng ai nghe ta nói,
Nhưng ở những nơi, với câu chuyện nửa vời
Tên của kẻ sau cùng trèo tới đỉnh Cẩm Linh được nhắc tới.
Những ngón tay của kẻ đó mập như những con giun
Lời nói nặng như chì rớt khỏi môi
Ánh mắt nhìn đểu giả, râu quai nón-con gián...
Bài thơ sau đây của Mandelstam, đọc song song với Biển của Gấu Nhà Thơ,
thì thật là tuyệt cú mèo
The sea-shell
It may be, night, you do not need me;
Out of the world's abyss,
Like a shell without pearls,
I am cast on your shores.
Indifferently, you stir the waves
And immitigably sing;
But you shall love and cherish
This equivocal, unnecessary shell.
You shall lie down on the sand close by,
Apparelled in your raiment,
And bind to the shell
The colossal bell of the billows.
And your whispering spray shall fill,
With wind and rain and mist,
The walls of the brittle shell -
A heart where nobody dwells ...
(26) 1911
Osip Mandelstam
Vỏ sò
Ðêm, có thể em đâu cần tôi
Từ hố thẳm bên ngoài thế giới
Như cái vỏ sò không hột xoàn
mầy mò làm sao dạt vào bờ biển của em
Dửng dửng, em đùa với sóng,
Và, chẳng hề nguôi đi, hát;
Nhưng em sẽ yêu mến và nâng niu
Cái vỏ sò vô dụng, chẳng cần thiết, chẳng ai thèm.
Em sẽ nằm xuống trên bãi cát kề ngay bên cái vỏ sò
Trần trụi,
Vấn víu với vỏ sò,
là cái chuông khổng lồ của những đợt sóng.
Và những lời thầm thì của em sẽ làm đầy,
cùng với gió, mưa và sương mù
những bức tường của cái vỏ sò dễ vỡ -
một trái tim mà chẳng ai thèm trú ngụ.
[Note: Bài thơ quá tuyệt, đúng tâm trạng Gấu khi viết Biển, nhưng dịch
sao lúng túng quá, chưa tới!]
Brodsky phán về Ode:
… To my taste, the best thing written about Stalin is Mandelstam's
"Ode" of 1937. In my view, this may be the grandest poem Mandelstam
ever wrote. Even more. This poem may be one of the most significant
events in all of twentieth-century Russian literature. That's my
belief. Because this poem of Mandelstam's is simultaneously both a ode
and a satir, and out of the combination of these two opposite
aspirations arises utterly new quality. This is a fantastic work of art.
…
Volkov. It's noteworthy that first Mandelstam wrote a satirical poem
about Stalin, which got him arrested, evidently, in 1934. But his "Ode"
was written later. Usually it happens the other way around. First they
compose odes and later disenchanted pamphlets. And Stalin's reaction,
at first glance, was illogical. Mandelstam was exiled to Voronezh for
the satire, and then they let him go, but after the "Ode" they
destroyed him.
Brodsky. You know, if I were Joseph Vissarionovich, I wouldn't have
been at all cross over the satirical poem, but after the "Ode," if I
were Stalin, I would have slit Mandelstam's throat immediately. I would
have realized that he'd violated me, he'd moved in, and there's nothing
more frightening or shocking than that.
Volkov. Is there anything else in Russian literature about Stalin that
seems significant to you?
Brodsky. Nothing else on the level of Mandelstam's....
Volkov: A Leningrad Youth.
Brodsky: Theo khiếu thưởng ngoạn của tôi thì bài Ode, 1937, của M. là
số 1 trong những gì được viết về Xì…
Và đây là bài vĩ đại nhất của M đã từng được viết ra.
Bài thơ là 1 trong những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của toàn bộ
văn học Nga thế kỷ 20. Tôi tin như vậy.
Bởi vì Ode kết hợp đồng thời, cùng lúc, cả hai dạng ode và satir, và
ngoài chuyện kết hợp được hai dạng thơ đối nghịch nhau, nó làm bật ra
một phẩm chất cực kỳ mới.
Ðúng là 1 quái phẩm.
Volkok: Ode được viết sau “biếm thơ”. Với biếm thơ, M bị bắt, và sau
đó, được thả. Nhưng sau bài Ode, thì chúng huỷ diệt ông.
Brodsky: Nếu tôi là Xì, thì tôi vờ “biếm thơ”, nhưng với Ode, thì đành
cắt cổ M!
Không có bài thơ nào ngang tầm với Ode, trong văn học Nga về Xì.
Thi sĩ Vladimir Gandelsman, coi Ode là kết hợp của thơ và chửi bố sự
thực, không thể quên, vì tính trầm trọng của thơ, và không thể thích,
vì sự ghê tởm của cái sự chửi bố sự thực.
Osip Mandelstam: Ode to Stalin translation by Ilya Bernstein
"Any unit of poetic speech," wrote Osip Mandelstam, "be it a line, a
stanza, or an entire lyrical composition, must be regarded as a single
word." And in the 1930s he wrote poems each of which reads like one
long word, all of its parts held together by some mysterious force. The
one exception to this rule is his Ode to Stalin, written in 1937, which
is held together by no force at all, but is composed heterogeneously of
great lines that are completely Mandelstam's own and expressions that
are completely alien to the rest of his work. The result is "a
combination of poetry and untruth," as the poet has called it, which is
impossible to forget because of the seriousness of the poetry and
impossible to like because of the loathsomeness of the untruth. (1)
My translation belongs to the genre of "simultaneous translation of
poetry," which involves translating a poem as quickly as possible—come
what may—while sticking as closely as possible to the rhyme and meter
scheme of the original.
Osip Mandelstam: Ode to Stalin translation by Ilya Bernstein
"Any unit of poetic speech," wrote Osip Mandelstam, "be it a line, a
stanza, or an entire lyrical composition, must be regarded as a single
word." And in the 1930s he wrote poems each of which reads like one
long word, all of its parts held together by some mysterious force. The
one exception to this rule is his Ode to Stalin, written in 1937, which
is held together by no force at all, but is composed heterogeneously of
great lines that are completely Mandelstam's own and expressions that
are completely alien to the rest of his work. The result is "a
combination of poetry and untruth," as the poet has called it, which is
impossible to forget because of the seriousness of the poetry and
impossible to like because of the loathsomeness of the untruth. (1)
My translation belongs to the genre of "simultaneous translation of
poetry," which involves translating a poem as quickly as possible—come
what may—while sticking as closely as possible to the rhyme and meter
scheme of the original.
(1)
Bất cứ một sợi lông thơ, dù là 1 dòng, một đoạn, hay một toàn thể, phải
được coi là một từ đơn độc. Osip Mandelstam phán. Và vào thập niên 1930
ông làm những bài thơ, mỗi bài, đọc như một từ dài, tất cả những phần
của nó ôm lấy nhau bằng sức mạnh kỳ bí. Thoát ra khỏi luật này, là bài
Ode viết về Xì, không một sức mạnh nào giữ chúng lại với nhau, nhưng
được soạn một cách hỗn tạp bằng những dòng lớn, hoàn toàn là những biểu
hiện của riêng Mandelstam, và hoàn toàn xa lạ với toàn thể tác phẩm còn
lại của ông.
Kết quả là một “kết hợp của thơ và điều dối trá”, như nhà thơ gọi nó,
không thể quên bởi vì sự nghiêm trọng của thơ, và không thể yêu, bởi vì
sự ghê tởm của điều dối trá.
Cái thứ thơ gọi là cách mạng, ăn cướp của Bắc Kít, cái thứ thơ xúi mấy
anh nhà quê vô học Bắc Kít vượt Trường Sơn cứu nước, trong nó, có cái
hào quang của giấc mơ muôn đời của Mít - nghiêm trọng hơn cả thơ ca -
và có cái ghê tởm của sự dối trá.
Viễn Du / En Route
1. WITHOUT
BAGGAGE
To travel
without baggage, sleep in the train
on a hard
wooden bench,
forget your
native land,
emerge from
small stations
when a gray
sky rises
and fishing
boats head to sea.
Adam
Zagajewski
1. Không hành lý
Viễn du không hành lý, ngủ
trên xe lửa
Trên băng ghế gỗ cứng,
Quên mẹ quê hương đi
Ló ra từ 1 ga nhỏ
Khi bầu trời xám dâng lên,
Và những thuyền đánh cá hướng ra biển
Thú thực GNV
không làm sao mà hiểu nổi cái ý nghĩa của từ 'hành hạ' của nhà thơ NXT.
Bởi vì
khoảng cách giữa “vinh danh” và “hành hạ” thì quá xa, và chỉ nội
nghĩ đến
1 thiên tài thi ca Nga, như Osip Mandelstam, đã từng bị “hành hạ” đến
bỏ mạng
trong trại tù Gulag, mà bây giờ lại bị mấy đấng Mít này lôi ra “hành”,
thì khủng
thật!
Chắc nhà thơ
cũng chỉ muốn chơi nổi, nhưng "hành hạ", thì… nhảm quá.
Thi sĩ là người
dùng chữ rất ư cẩn thận. Chỉ cần “một” chữ bạn dùng, là người ta đoán
ra trình độ
thơ, và thưởng ngoạn thơ của bạn.
Trên Gió O,
thí dụ, đọc cái tít “Sự truân chuyên của hai bài thơ”, là độc giả bèn
ngờ ngay
tài sử dụng tiếng Việt của nhà thơ Thế Dũng, hoặc lờ mờ đoán ra, nhà
thơ này sống
ở hải ngoại, ít dùng tới tiếng Việt.
Bởi là vì người
Việt nói, “nỗi”, không nói “sự” truân chuyên, thí dụ:
Thuở trời đất nổi cơn gió
bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Cũng thế,
là
trên DM. Bà chủ dùng giới từ tiếng Mít búa xua, không giống Mít thường
dùng, ấy
là do ít dùng tới nó, nên không rành.
Foreword by
Nadezhda Mandelshtam
I think that
the most difficult task in the world is the translation of verses,
particularly
of a true poet, in whose verses there is no discrepancy between the
form and
the content (or meaning) - both of them always new and but a bit
different
(with no great disparity between them) - and where the ego of the poet
is
always strikingly felt. Marina Tsvetayeva said she could write as
Mandelshtam
did but that she didn't want to. She was a great poet but she was
greatly
mistaken. She could be influenced by Mayakovsky and Pasternak and
remain
Tsvetayeva because they were innovators and therefore easily aped. But
Mandelshtam composed verses in tradition, which is far more difficult
to
imitate.
Mr Robert
Lowell's translations are very free; Mr Paul Celan's into German also
free. But
both are a very far cry from the original text. As far as I know the
translations of Mr Greene are the best I ever saw. I can't give my
opinion
about the Italian translations, as I don’t know Italian as well as
English,
French and German. As for Elsa Triolet's, they are as naive and vulgar
as she
was.
Mandelshtam
said that the contents are squeezed from the form as water from a
sponge. * If
the sponge is dry, there would be no moisture at all. So, to render the
content
- which Mr Greene has succeeded in doing - is to give, in a way, the
form or
harmony, the harmony which can't be rendered in translation, the
harmony which
is quite simple and at the same time mysteriously complicated. Poetry
is a
mystery.
Nadezhda
Mandelshtam, 1976 (1)
Translator's
Preface
[Mandelshtam]
had no poetic forerunners - wouldn't that be something worth thinking
about for
his biography? In all of world poetry I know of no other such case. We
know the
sources of Pushkin and Blok, but who will tell us where that new,
divine
harmony, Mandelshtam's poetry, came from?
Anna
Akhmatova
M. không có
tiền thân, liệu điều này có tính đếm đến, khi lèm bèm về tiểu sử của
ông? Trong
trọn thế giới thi ca mà tôi biết, chưa hề có một trường hợp như thế.
Chúng ta
biết nguồn thơ của Pushkin, của Blok, nhưng ai bảo cho ta biết sự hài
hòa mới mẻ,
thần thánh, thơ của Mandelstham, đến từ đâu?
Translation
it is that openeth the window, to let in the light; that breaketh the
shell,
that we may eat the kernel.
King James
Bible, 1611: 'The Translators to the Reader'
(1)
Tôi nghĩ
cực trần ai là cái chuyện dịch thơ, nhất là thơ của 1 thi sĩ thứ thực,
thứ thơ
không làm sao mò ra đâu ra nội dung đâu là hình thức của thơ, cả hai
thì đều mới
tinh, và lại hơi khác khác, khi phải so với nhau, thành ra mới khó lần
đường
ranh giữa chúng, và chính tại đây mà cái tôi của nhà thơ được cảm nhận
một cách
thật dữ dội và đầy kinh ngạc.
Marina
Tsvetayeva nói, bà có thể làm thơ như Mandelshtam nhưng không thèm làm,
bà nói
thế là nói bậy, tuy bà là một nhà thơ vĩ đại. Bà có thể bị ảnh hưởng
bởi
Mayakovsky và Pasternak và vẫn là Tsvetayeva, bởi vì họ là những nhà
thơ canh
tân, và do đó, thật dễ chôm chĩa, phỏng theo.
Nhưng
Mandelshtam làm thứ thơ theo truyền thống, và như thế, thật khó bắt
chước.
Bản dịch của
Mr Robert Lowell thì quá phóng túng, Của Mr Paul Celan qua tiếng Đức,
cũng
phóng túng, Nhưng cả hai thì đều là một tiếng khóc quá xa nguyên bản.
Như tôi
biết, bản dịch của Mr Greene là bảnh nhất, tôi từng được đọc. Tôi không
thể
phán về những bản dịch tiếng Ý, vì không biết tiếng Ý, mà chỉ biết có
tiếng
Anh, tiếng Tây, và tiếng Đức. Về bản dịch của Elsa Triolet, thì nhảm
quá, như
cô em này thì ngây thơ và dung tục.
Mandelshtam
nói, nội dung thì được vắt ra khỏi hình thức, như người ta vắt một
miếng bọt biển
dùng để lau bảng. Nếu cái miếng bọt biển khô, thì làm sao vắt, dù chỉ
được tí ẩm,
ướt?
Thành thử,
đem đến nội dung, như Mr Greene đã thành công trong khi dịch, là đem
đến, một
cách nào đó, hình thức, hay hài hòa, một thứ hài hòa không thể nào đem
lại được,
qua dịch thuật, thứ hài hòa thật đơn giản, và cùng lúc, thật đa đoan
một cách rất
ư là bí ẩn.
Thơ là một
huyền nhiệm.
Nadezhda
Mandelshtam, 1976
You took
away my seas and running jumps and sky
And propped
my foot against the violent earth.
Where could
this brilliant calculation get you?
You couldn't
take away my muttering lips.
(307)
May1935
En me
privant des mers, de l'élan, de l'envol
Pour donner
à mon pied l'appui forcé du sol:
Quel
brillant résultat avez-vous obtenu?
Vous ne
m'avez pas pris mes lèvres qui remuent!
Mi lấy của
ta Biển -Trời - Nhịp Đời
Cùm chân
ta
vào đất:
Làm sao
mi cấm
môi ta run?
My country
conversed with me,
Spoiled me,
scolded, didn't listen.
She only
noticed me when,
Grown-up, I
became an eye-witness.
Then
suddenly, like a lens, she set me on fire
With a beam
from the Admiralty spire.
(part 6 of
312) May-June 1935
Xứ sở của ta nói với ta,
Nuông chiều
ta, gắt gỏng với ta, không nghe ta nói.
Nó chỉ để ý
đến ta khi,
Trưởng
thành, ta trở thành một chứng nhân bằng mắt.
Và thế là bất
thình lình, như thấu kính hội tụ
Nó chiếu vào
ta, và làm bật cháy
Với ngọn lửa
từ Ngọn Đỉnh Trời
I shall not
return my borrowed dust
To the
earth,
Like a white
floury butterfly.
I will this
thinking body
This
charred, bony flesh,
Alive to its
own span -
To turn into
a street, a country.
(from
320)
21 July 1935
Ta không
muốn,
như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt
đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái
thân xác này
Biến thành
ngã tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố,
thành đường....
Osip Mandelstam: Selected
Poems
[Note: Gửi
Cù Hậu Duệ. NQT]
GNV, Gấu Già,
cám ơn ông Giời, khi về già, cho phép Gấu đọc được thơ, và hơn thế, làm
được 1
dúm thơ. Mục Thơ Mỗi Ngày là “cả 1 tham vọng” nhớn: Làm sao dân Mít đọc
thơ,
làm thơ, dịch thơ… khác hẳn đi!
Hà, hà!
Chỉ
cần 1 bài thơ, như PRODIGY sau đây, là đủ chửi bố cái thứ thơ “Ðường ra
trận mùa
này đẹp lắm”, và cái tư tưởng khốn kiếp, tại làm sao cả 1 cuộc chiến
như thế mà
chỉ có 1 nhà văn anh hùng, của 1 tên đồ tể thơ.
Gấu, đọc nó, thì lại cảm thấy như là đang
nhìn thấy năm Ất Dậu, đang
đọc “Tại
sao tôi viết Tiến Quân Ca” của Văn Cao, và cùng lúc, đọc Tỵ Bái, tiểu thuyết
của Nguyễn Hoạt, cũng từ bối cảnh trận đói
năm
đó.
Có
thể thiên tài, thần đồng toán của
xứ Bắc
Kít, là cũng từ trận đói đó mà ra chăng?
Mấy dòng thơ
sau đây, của Mandelstam, để tặng con phố mang tên ông.
Như Phố TCS
!
What
street's this one?
- 'This is
Mandelstam Street.
His
disposition wasn't "party-line"
Or
"sweet-as-a-flower".
That's why
this street -
Or, rather,
sewer
Or possibly
slum -
Has been
named after Osip Mandelstam.'
Con phố nào
đây?
-Phố Mandelstam
Sao không có
tí ‘đường lối của Đảng’
Hay ‘đẹp như
thơ, ngọt như hoa’
Chắc vì thế
mà có con phố như thế này –
Hay, tốt
hơn, thì là một cái cống rãnh
Hay, có thể,
phố ổ chuột-
được đặt tên
theo nhà thơ Mandelstam
Sau khi
Stalin chết, Mandelstam được ‘phục hồi’, nhưng vẫn chưa có con phố nào
được đặt
tên nhà thơ, ở toàn xứ Liên Xô
Bắc Kít, mê
tiếng Nga, mê Cách Mạng Nga, mê kít Nga, thành thử Gấu phải chọn 1 nhà
thơ Nga
vinh danh Cù Hậu Duệ, để cho chúng biết Nga đâu phải chỉ có thứ thơ xúi
người
ta giết người, và phải chọn đúng cái ông làm thơ chửi Stalin, và chết ở
trong
tù, làm gì có thứ thi sĩ ngồi viết tự kiểm, xin tha, về nhà, để… làm
thơ!
Trong bài Tựa
cho tập thơ của chồng, bà vợ chỉ ra sự khác biệt giữa thơ canh tân, và
thơ truyền
thống, đúng vấn đề chúng ta đang đụng phải, khi nghĩ tới thơ lục bát
của xứ
Mít.
Có gì dễ bằng
làm thơ lục bát, và có gì cực khó, làm thơ lục bát?
Gấu thấy
nhan nhản thơ lục bát ở trên lưới, sợ quá đến hết dám đọc!
PRODIGY
I grew up
bent over
a
chessboard.
I loved the
word endgame.
All my
cousins looked worried.
It was a
small house
near a Roman
graveyard.
Planes and
tanks
shook its
windowpanes.
A retired
professor of astronomy
taught me
how to play.
That must
have been in 1944.
In the set
we were using,
the paint
had almost chipped off
the black
pieces.
The white
King was missing
and had to
be substituted for.
I'm told but
do not believe
that that
summer I witnessed men
hung from
telephone poles.
I remember
my mother
blindfolding
me a lot.
She had a
way of tucking my head
suddenly
under her overcoat.
In chess,
too, the professor told me,
the masters
play blindfolded,
the great
ones on several boards
at the same
time.
Charles Simic
Thần Ðồng
Tôi lớn lên,
trên
một cái bàn
cờ
Tôi mê cái từ
tàn cuộc
Tất cả bà
con họ hàng đều tỏ ra buồn lòng.
Ðó là 1 căn
nhà nhỏ
ở gần một
nghĩa địa Ba Lan
Máy bay và
xe tăng
lắc lắc mấy
khung cửa sổ của nó
Một vị giáo
sư thiên văn về hưu
dạy tôi chơi
cờ
Hẳn là năm
1944
Bộ cờ của
chúng tôi
Quân đen
tróc sơn gần hết
Tướng trắng,
mất
Phải thay bằng
một mẩu gỗ
Tôi nghe kể
nhưng không tin
rằng mùa hè
năm đó, tôi chứng kiến những người đàn ông
treo trên những
cột điện thoại
Tôi nhớ mẹ
tôi đã bịt mắt tôi khá nhiều lần
Bà luôn luôn
có cái cách của bà
bất thình
lình cuốn đầu tôi
trong chiếc
áo khoác của bà
Trong cờ tướng,
thì cũng vậy, vị giáo sư biểu tôi
những bậc thầy
chơi cờ mắt bịt kín,
những bậc đại
sư phụ thường chơi,
cùng một lúc
vài cuộc cờ.
Hình các thi
sĩ sẽ bị Hoàng Ngọc-Tuấn, Hoàng Đình Bình, Khánh Vy, Ian Bùi... "hành
hạ"
trong đêm 10 tháng 7.2011
Blog
NXT
Trong những
thi sĩ bị hành hạ, có những đấng như Rilke, Osip Mandelstam…
Thiển nghĩ,
nếu có “hành hạ”, thì xin tha cho họ. NQT
Vì, có thể mấy
đấng trên nhìn ra cái nhạt, cái yếu, cái làm dáng của thơ… NXT, nhất là hồi sau này, khi ra hải ngoại,
nhưng
không lẽ đủ nội lực để “hành hạ”… Rilke?
Thanh Tâm
Tuyền có lẽ cũng nên tha, vì ông đã từng được Thầy Cuốc mắng vốn rồi,
khi còn ở
trong nước bày đặt gửi thơ ra hải ngoại, ký Trần Kha, khi ra được hải
ngoại, tịt
ngòi, không chịu làm thơ nữa cho Thầy bình!
Vả chăng, ông
mất rồi, to be or not to be, not the problem, “hành không hành”, không
phải vấn
đề.
Với NXT có lẽ nên hành!
Bởi là vì,
nhờ VC hành ông, nên mới có:
Yên Bái
(1976-1977)
6. Bão
Tặng N.X.T.
Trận bão thổi
tắt đám sao sáng mùa hè
Cuốn thốc
tán loạn ký ức mỏi mê
Cuồng giông
đêm đêm lay ngục mộng
Va chạm hỗn
độn những tối tăm
Áp tai xuống
ngực em nghe ruổi chĩu nhịp trầm
Bản trên talawas
Thú thực GNV
không làm sao mà hiểu nổi cái ý nghĩa của từ 'hành hạ' của nhà thơ NXT.
Bởi vì
khoảng cách giữa “vinh danh” và “hành hạ” thì quá xa, và chỉ nội
nghĩ đến
1 thiên tài thi ca Nga, như Osip Mandelstam, đã từng bị “hành hạ” đến
bỏ mạng
trong trại tù Gulag, mà bây giờ lại bị mấy đấng Mít này lôi ra “hành”,
thì khủng
thật!
Chắc nhà thơ
cũng chỉ muốn chơi nổi, nhưng "hành hạ", thì… nhảm quá.
Thi sĩ là người
dùng chữ rất ư cẩn thận. Chỉ cần “một” chữ bạn dùng, là người ta đoán
ra trình độ
thơ, và thưởng ngoạn thơ của bạn.
Trên Gió O,
thí dụ, đọc cái tít “Sự truân chuyên của hai bài thơ”, là độc giả bèn
ngờ ngay
tài sử dụng tiếng Việt của nhà thơ Thế Dũng, hoặc lờ mờ đoán ra, nhà
thơ này sống
ở hải ngoại, ít dùng tới tiếng Việt.
Bởi là vì người
Việt nói, “nỗi”, không nói “sự” truân chuyên, thí dụ:
Thuở trời đất nổi cơn gió
bụi
Khác má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Cũng thế, là
trên DM. Bà chủ dùng giới từ tiếng Mít búa xua, không giống Mít thường
dùng, ấy
là do ít dùng tới nó, nên không rành nó.
GNV, Gấu Già,
cám ơn ông Giời, khi về già, cho phép Gấu đọc được thơ, và hơn thế, làm
được 1
dúm thơ. Mục Thơ Mỗi Ngày là “cả 1 tham vọng” nhớn: Làm sao dân Mít đọc
thơ,
làm thơ, dịch thơ… khác hẳn đi!
Hà, hà!
Letter from
a Reader
Too much
about death,
too many
shadows.
Write about
life,
an average
day,
the yearning
for order.
Take the
school bell
as your model
of
moderation,
even
scholarship.
Too much
death,
too much
dark
radiance.
Take a look,
crowds
packed
in cramped
stadiums
sing hymns
of hatred.
Too much
music
too little
harmony, peace,
reason.
Write about
those moments
when
friendship's foot-bridges
seem more
enduring
than
despair.
Write about
love,
long
evenings,
the dawn,
the trees,
about the
endless patience
of the
light.
Adam
Zagajewski
Thư độc giả
Quá nhiều về
chết chóc,
quá nhiều
bóng tối.
Hãy viết về
cuộc đời
khoảng thời
gian 1 ngày,
khát khao trật
tự.
Hãy lấy tiếng
trống trường
làm chuẩn
cho sự chừng
mực,
kể luôn cả
tính khoa bảng của nó.
Nhiều chết
chóc quá,
nhiều quá
sự rạng ngời
đen thui.
Hãy thử
nhìn,
đám đông chật
cứng nơi.... Mỹ Đình
hò hét
"Thề phanh
thây uống máu quân thù"
"Đường ra trận
mùa này đẹp lắm"
Nhiều âm nhạc
quá
quá ít hài
hoà, hoà bình,
lẽ phải.
Hãy viết về
những khoảnh khắc
khi mà những
chiếc cầu chân của tình bạn
hình như còn
bền bỉ
hơn là sự
chán chường.
Hãy viết về
tình yêu,
những buổi
chiều tối dài,
rạng đông,
cây cối,
về sự kiên
nhẫn vô cùng
của ánh sáng
OLD MARX
He can't
think. London is damp,
in every
room someone coughs.
He never did
like winter.
He rewrites
past manuscripts
time and
again, without passion.
The yellow
paper
is fragile
as consumption.
Why does
life race
Stubbornly
toward destruction?
But spring returns in dreams,
with snow
that doesn't speak
in any known
tongue.
And where
does love fit
within his
system?
Where you
find blue flowers.
He despises
anarchists,
idealists
bore him.
He receives
reports from Russia,
far too
detailed.
The French
grow rich.
Poland is
common and quiet.
America
never stops growing
Blood is
everywhere,
perhaps the
wallpaper needs changing.
He begins to
suspect
that poor
humankind
will always
trudge
across the
old earth
like the
local lunatic
shaking her
fists
at an unseen
God.
[Eternal
Enemies p.67]
Mác Già
Ông không thể
suy nghĩ.
Luân đôn thì
ẩm ướt.
Trong mọi phòng
một người nào đó ho.
Ông chưa hề
mê mùa đông.
Ông viết lại
bản thảo cũ,
viết lại nữa,
nhiều lần, chẳng đam mê gì cả.
Những trang
giấy vàng mỏng manh,
chỉ chờ thiêu.
Tại làm sao đời
sống lại chạy
trối chết, ngu đần tới huỷ diệt?
Nhưng mùa xuân
trở về trong những giấc mơ,
với tuyết không
thể nói
bằng bất thứ
1 thứ tiếng nói nào.
Và tinh yêu
thì lắp vào cái chỗ chó nào cho thích hợp
ở trong hệ
thống của ông, hả ông Mác già?
Ông kiếm ra
những bông hoa màu xanh ở đâu, thưa ông?
Ông quá chán
tụi cuồng tín,
những tên lý
tưởng làm phiền ông, làm ông bực mình.
Ông nhận báo
cáo từ Nga xô
quá xa làm
sao chi tiết đầy đủ.
Tụi Tây mũi
lõ trở nên giầu có.
Ba Lan thì
chung chung, và yên tĩnh.
Mẽo thì không
ngừng phát triển.
Chỗ nào cũng
thấy máu,
có lẽ tờ giấy
bao tường cần thay.
Ông bắt đầu
nghi ngờ,
nhân loại khốn
khổ luôn lê lết trên trái đất già nua
như một con
mụ nhà quê điên khùng,
giơ nắm tay,
gí gí vào một
Ông Trời không ai nhìn thấy.
OLD MARX (2)
I try to
envision his last winter,
London, cold
and damp, the snow's curt kisses
on empty
streets, the Thames' black water.
Chilled
prostitutes lit bonfires in the park.
Vast
locomotives sobbed somewhere in the night.
The workers
spoke so quickly in the pub
that he
couldn't catch a single word.
Perhaps
Europe was richer and at peace,
but the
Belgians still tormented the Congo
And Russia?
Its tyranny? Siberia?
He spent
evenings staring at the shutters.
He couldn't
concentrate, rewrote old work,
reread young
Marx for days on end,
and secretly
admired that ambitious author.
He still had
faith in his fantastic vision,
but in
moments of doubt
he worried
that he'd given the world only
a new
version of despair;
then he'd
close his eyes and see nothing
but the
scarlet darkness of his lids.
-Adam
Zagajewski (Translated,from the Polish, by Clare Cavanagh.)
[The New
Yorker, Jan 21, 2008]
[Eternal
Enemies p. 97]
Cụ Mác (2)
Tôi cố tưỏng
tượng ra mùa đông cuối cùng của ông,
Luân Đôn, lạnh,
ẩm.
Tuyết đè ngửa,
hôn tàn bạo lên phố vắng, lên mặt nước đen thui của dòng sông Thames.
Bướm co ro,
run rẩy nhóm lửa nơi công viên.
Có tiếng sụt
sùi của những đầu máy, ở đâu đó trong đêm.
Những người
thợ nói quá nhanh trong tiệm rượu,
khiến ông
không kịp bắt, chỉ một từ.
Có lẽ Âu
Châu thì giầu có hơn, và thanh bình,
nhưng người
Bỉ vẫn hành hạ xứ Congo.
Còn Nga xô
thì sao? Bạo chúa của nó? Siberia, chốn lưu đầy ư?
Ông trải qua
những buổi tối mắt dán lên những tấm màn cửa.
Ông không thể
nào tập trung, viết lại những tác phẩm đã xưa, cũ,
đọc lại Marx
trẻ cho tới hết ngày,
và thầm lén
ngưỡng mộ tay tác giả tham vọng này.
Ông vẫn còn
niềm tin ở cái viễn ảnh thần kỷ, quái đản của mình,
nhưng vào những
lúc hồ nghi,
ông đau lòng
vì đã đem đến cho thế giới,
chỉ một viễn ảnh mới của sự
thất vọng, chán
chường;
rồi ông nhắm
mắt và chẳng nhìn thấy gì nữa, ngoài bóng tối của mí mắt của mình.
DOUBLES
In my youth,
women often took me aside
And told me I reminded them of
A dead brother, an uncle, a late lover.
Some of them
wore beards.
One lay with slashed wrists in a tub.
Another of my doubles had gone for a walk
And never came back from the woods.
It was evening;
it was long ago, of course.
One played the piano beautifully
So that strangers knocked on his door.
Another went for a ride in a balloon.
The last time anyone saw me alive:
I was either wearing dark glasses
And reading the Bible on the subway,
Or crossing the street and laughing to myself
Charles
Simic: That little something
Có bao
nhiêu tên Gấu?
Khi còn trẻ, nhiều bà xồn xồn
kéo Gấu ra một góc, và thì thầm,
Em thật giống một ông anh,1 ông chú,
một người yêu đã đi xa của… chị!
Trong số họ,
có người mang râu.
Một người nằm trong một cái chậu, cổ tay bị cắt.
Một Gấu khác thì làm 1 cú tản bộ,
Và không thấy trở về từ phía khu rừng
[đêm]
Đó là 1 buổi
chiều, xa xưa lắm rồi, lẽ tất nhiên.
Một Gấu chơi dương cầm cực hay, cực đẹp,
Và thế là bao nhiêu kẻ lạ đổ xô tới
gõ cửa phòng [đổ xô vô trang net TV], của hắn.
Một Gấu khác leo lên một quả bóng,
Làm 1 chuyến viễn du,
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản!
Lần chót mà người ta nhìn thấy Gấu,
còn sống:
Hắn đeo kính râm, ngồi ở Quán Chùa.
Hay đọc Sách Đen, ở một ổ chích ở Ngã Sáu Sài Gòn.
Hay chạy theo BHD ở Đại Lộ Cộng Hòa,
Ngay trước cổng trường Đại Học Khoa Học.
Khóc như cha chết,
Vì BHD bỏ hắn ta!
Mỹ Dung:
Thưa ông tôi
chỉ một câu hỏi trong lá thư ngắn này. Đó là điều tôi thấy hình như các
nhà
văn, nhà thơ Việt Nam mình, khi lớn tuổi rồi thì không còn làm thơ được
nữa? Hoặc
giả họ vẫn còn làm thơ nhưng họ thấy không ưng ý nên không cho phổ
biến? Nếu
đúng vậy thì theo ông nguyên nhân sâu xa của nó nằm ở đâu? Trong khi
tôi thấy
các nhà văn nhà thơ tây phương, lớn tuổi họ vẫn sáng tác được mà có khi
còn hay
hơn cả thời gian còn trẻ nữa.
Nhà thơ Trần
Dạ Từ trả lời:
Nhiều người
khi lớn tuổi không làm thơ nữa... Đây là điều thường thấy ở bất cứ đâu.
Ví dụ,
thi sĩ Pháp Athur Rimbaud chỉ làm thơ trước tuổi 20 rồi ngưng. Riêng
tại Việt
Nam, thời nào nơi nào cũng có những thi sĩ vẫn tiếp tục làm thơ dù lớn
tuổi,
làm thơ ngay cả trước khi chết, và đây thường là những bài thơ bậc
nhất, đặc biệt
nhất của chính họ. Xin mời coi lại và sẽ thấy yên tâm:
- Ca trù/
hát nói của Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê: “Ngã lãng du thời quân thượng
thiếu”
và “Hồng Hồng Tuyết Tuyết.”
- Thơ Nguyễn
Khuyến khóc Dương Khuê, “Tuổi già hạt lệ như sương.”
- Tại miền
Nam VN, Vũ Hoàng Chương có “Thơ xuân Năm Thìn.” Đây là bài thơ có chữ
nghĩa xúc
tích, tối tân và hào hùng nhất của thi sĩ, trước khi ông bị cộng sản
bắt đi tù
và bị giết vào tuổi sáu mươi.
- Tại miền Bắc
VN, hai nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi trước khi từ trần đã
làm thơ để
lại như những di cảo lên án chủ nghĩa bánh vẽ và chế độ chuyên chế của
cộng sản.
Đây là những bài thơ xúc động mới lạ nhất của họ.
- Tại hải
ngoại, rất dễ thấy ‘thơ hay hơn bao giờ’ của các nhà thơ tuổi sáu bó,
bẩy bó:
Nguyên Sa, Mai Thảo, Du Tử Lê, Phạm Công Thiện, Đỗ Quí Toàn... Đặc biệt
trong
phạm vi người Mỹ gốc Việt, ta thường thấy số người lớn tuổi làm thơ
đông hơn là
lớp người trẻ tuổi.
DTL.com
Theo GNV, người
hỏi câu này, rất thật lòng, nhưng nhà thơ TDT, khi trả lời, đã không
thật lòng,
và có vẻ hơi tếu tếu, hoặc cố tình làm cho sự việc trở thành tếu tếu.
Bởi vì, quả
thật là những nhà thơ Mít, chỉ làm thơ khi “mới lớn, bắt đầu yêu”,
"thuở
làm thơ
yêu em", như tên tập thơ của TDT, xong là thôi, là... chấm
hết!
Nhà thơ TTT
cũng đã từng phán, nhà văn nhà thơ Mít chết non, cứ viết xong thời
thanh xuân là
ngỏm.
Trong câu hỏi
của vị độc giả, có một ý thật là hay. Nó làm Gấu nhớ đến Brodsky, và
sau
đây là
câu trả lời của ông, (1) cho câu hỏi của vị này.
Chúng ta có
thể suy ra, từ câu trả lời của Brodsky, tình trạng nhà thơ Mít, tại sao
họ làm
thơ hết thời thanh xuân là… xong.
(1)
Volkov: In
his essay on Stravinsky, Auden says that it is evolution that
distinguishes the
great artist from the minor one. Looking at two poems by a minor poet,
you
can't say which one of them was written first. That is, having achieved
a
certain level of maturity, the minor artist ceases to develop. He has
no more
history. Whereas a great artist, not content with what he achieved,
attempts to
capture even higher ground. Moreover (Auden adds) only in the light of
the
final works of a great artist can we evaluate
his earlier opuses we should.
Brodsky.
Lord! But of course! It's absolutely true! You know how the Japanese
used to do
this? They really have a healthier attitude toward matters of creative
evolution. When a Japanese artist achieves celebrity in one style, he
simply
changes his style, and along with it his name. Hokusai, I believe, had
nearly
thirty different periods.
Solomon Volkov: Conversations with Joseph Brodsky
He has no
more history: Hắn ta không còn lịch sử, sau khi làm thơ tán em,
xong.
Volkov: Trong tiểu
luận về Stravinsky, Auden nói, chính sự tiến hóa phân biệt nghệ sĩ lớn
với gã
cà mèng. Nhìn hai bài thơ của 1 tay cà mèng, bạn không thể nào biết bài
nào được
viết trước bài nào. Ðiều này có nghĩa, sau khi đạt được tí ti từng
trải, tí ti
lớn nhớn, nhà thơ cà mèng bèn ì ra, đếch chịu nhớn thêm. Anh ta đếch
còn có
lịch sử gì nữa. Trong khi nghệ sĩ lớn, không bằng lòng với gì đã hoàn
tất, thành
tựu, lại nhắm với cao hơn. Hơn thế nữa (Auden nói thêm), chỉ dưới ánh
sáng của
những tác phẩm sau cùng của một nghệ sĩ lớn, chúng ta mới có thể đánh
giá những
tác phẩm trước đó của vị này.
Nhận xét
trên có thể áp dụng vào “cas” TTT, đúng như Gấu đã từng phán: Thơ Ở Ðâu Xa mới là đỉnh cao của ông!
Tuyệt
thật!
Six
Poems
Three Poems
Charles
Simic
Migrating
Birds
If only I
had a dog, these crows congregating
In my yard
would not hear the end of it.
If only the
mailman would stop by my mailbox,
I'd stand in
the road reading a letter
So all you
who went by could envy me.
If only I
had a car that ran well,
I'd drive
out to the beach one winter day
And sit
watching the waves
Trying to
hurt the big rocks
Then scatter
like mice after each try.
If only I
had a woman to cook for me
Some hot
soup on cold nights
And maybe
bake a chocolate cake
A slice of
which we'd take to our bed
And share
after we've done loving.
If only
these eyes of mine would see better,
I could read
about birds migrating,
The vast
oceans and deserts they cross
And their
need to return to this shithole
After
visiting many warm and exotic countries.
Bầy Chim Bỏ Xứ
Chỉ cần một
chú chó
là đám quạ ở
sân nhà tớ
sẽ hiểu liền
tù tì,
tận thế là đây
có nghĩa là gì!
Chỉ một ông đưa
thư ngưng lại ở cái hộp thư của tớ
Là tớ sẽ đứng
ngay giữa đường đọc thư
Và các bồ đi
ngang thì sẽ khóc thét lên
vì ghen tức và thèm được như là Gấu.
Giả như là tớ
có một cái xế thật bảnh, chạy thật ngon lành, nhỉ.
Tớ sẽ
chạy ra bờ biển vào một ngày đông
Ngồi nhìn
sóng
Cố đụng
mấy
cục đá lớn
Và sau
đó,
chạy tứ lung tung như lũ chuột, sau mỗi cú thử.
Giả
như tớ có
một bà đầu bếp,
Nấu cho
tớ tô
cháo nóng vào những đêm lạnh lẽo
Hay nướng
bánh
xô cô la
Và một
miếng
bánh như thế, bà mang vô giường
Chia với
Gấu,
sau khi iêu Gấu.
Giả
như cặp
mắt già của Gấu sáng ra lại một chút
Gấu sẽ
đọc về
những con chim di cư
Những
biển rộng
những sa mạc mà chúng vượt qua
Và cái sự
chúng
cần trở về cái hố kít này
Sau khi
viếng
thăm cả đống những xứ sở ấm áp, ướt át.
Eternities
A child
lifted in his mother's arms to see a parade
And that old
man throwing breadcrumbs
To the
pigeons crowding around him in the park,
Could they
be the same person?
The blind
woman who may know the answer recalls
Seeing a
ship as big as a city block
All lit
up
in the night sail past their kitchen window
On its
way
to the dark and stormy Atlantic.
Vĩnh cửu
Ðứa trẻ được
mẹ nhấc bổng để nhìn cuộc diễn hành
Và ông già
ném những mẩu bánh cho đàn bồ câu bâu quanh ông
Liệu có phải
là cùng một người?
Người đàn bà
mù có thể biết câu trả lời, nhớ lại
đã từng nhìn thấy một con tầu to bằng cả một
dẫy phố
Cả con tầu,
đèn đuốc sáng chưng, giương buồm vượt qua khung cửa sổ nhà bếp,
Trên đường
đi tới Ðại Tây Dương tối đen, bão bùng.
All Gone
into the Dark
Where's the blind
old street preacher led by a little boy
Who said the
world will end next Thursday at noon?
Where's the
woman who walked down Madison Avenue
In the
summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the
poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In
Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the
young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept
shouting about wanting to kill more Vietnamese?
Mr
Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing
on a
buttered roll, you probably have a hunch-
Or are
you,
like the rest of us, equally in the dark
As you
busy
yourself around the newly arrived dead?
Rồi tất cả
cũng đi vào đêm tối
Ông linh mục
mù già đường phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng
tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi
nhỉ?
Ðâu rồi, người
đàn bà đi xuống phố Madison Avenue
Giữa đám
đông mùa hè, hoàn toàn khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi
sĩ Delmore Schwartz, có lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa
may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh
thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai
bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà hòm,
ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả
giò, bạn có thể có linh cảm –
Hay cũng như
tất cả lũ chúng tôi, cùng trong bóng tối,
Bạn đang tự
mình làm rộn mình, về những người chết mới tới?
LONDON
REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010
A
Thank-You
Note
I owe a
lot
to those I
do not love.
Relief in
accepting
others care
for them more.
Joy that I
am not
wolf to
their sheep.
Peace be
with them
for with
them I am free –
love neither
gives
nor knows
how to take these things.
I don't wait
for them
from window
to door.
Almost as
patient
as a sun
dial,
I understand
what love
never could.
I forgive
what love
never would.
Between
rendezvous and letter
no eternity
passes,
only a few
days or weeks.
Our trips
always turn out well:
concerts are
enjoyed,
cathedrals
toured,
landscapes
in focus.
And when
seven rivers and mountains
come between
us,
they are the
rivers and mountains
found on any
map.
The credit's
theirs
if I live in
three dimensions,
in a
non-lyrical and non-rhetorical space,
with a real,
ever-shifting horizon.
They don't
even know
how much
they carry in their empty hands.
"I owe
them nothing,"
love would
have said on
this open topic.
Wislawa
Szymborka
Một cái note
“Cám ơn bạn”
Tôi nợ nhiều
ở những người
tôi không yêu
Thở phào khi
nghĩ
Nhờ mình không
yêu họ
Cho nên những
người khác lại lo nhiều cho họ hơn!
Vui, vì mình
đâu có phải là
sói đối với đàn cừu của họ
Bình an cho
họ
Bởi vì đối với
họ thì tôi hoàn toàn vô tư, tự do, tự tại
-tình yêu chẳng
cho,
mà cũng chẳng
biết làm sao mà nhận những chuyện đó
Tôi không đợi
chờ họ
từ cửa sổ
cho tới cửa lớn
thật kiên nhẫn
như mặt trời
từ từ, chậm chạp nhích nhích
tôi ngộ ra, tình yêu
chẳng bao giờ có thể.
Tôi tha thứ
cho tình yêu
chẳng bao giờ sẽ.
Giữa cuộc hẹn
và tờ thư
chẳng vĩnh cửu
nào đi qua
chỉ vài ngày,
hay tuần lễ.
Chuyến đi của
chúng ta hóa ra là thật là tuyệt hảo
Hoà nhạc thưởng
thức
Nhà thờ tham
quan
Phong cảnh
chú mục
Và khi 7 con
sông lớn và núi bự
trờ tới, giữa
chúng ta,
chúng thì cũng
là sông là núi,
có ghê gớm
chi đâu
thứ núi thứ
sông mà chúng ta thấy đến nhàm cả mắt
ở trên bản đồ.
Chúng thế nào
thì chúng thế
một khi mà chúng
ta sống trong thế giới ba chiều
trong không
gian không-vãi linh hồn, không thùng rỗng kêu to
với một chân trời
thiên niên vũ như cẩn
Chúng làm
sao hiểu được
Chúng ôm
trong những bàn tay trống trơn của chúng,
là bao
nhiêu?
Tôi chẳng nợ
gì chúng
Tình yêu chắc
là sẽ nói như thế
Trong đề tài
mở này.
MY TURN TO
CONFESS
A dog trying
to write a poem on why he barks,
That's me,
dear reader!
They were
about to kick me out of the library
But I warned
them,
My master is
invisible and all-powerful.
Still, they
kept dragging me out by the tail.
In the park
the birds spoke freely of their own vexations.
On a bench, I saw an old woman
Cutting her
white curly hair with imaginary scissors
While staring into a small pocket
mirror.
I didn't say
anything then.
But that
night I lay slumped on the floor.
Chewing on a
pencil.
Sighing from
time to time.
Growling,
too at something out there
I could not bring myself to name.
Ðến lượt Gấu
thú tội
Một con chó
cố làm một bài thơ về tại sao nó sủa
Gấu đó, bạn đọc
TV thân mến!
Chúng tính đá
Gấu ra khỏi thư viện
Nhưng Gấu cảnh
cáo lũ khốn
Sư phụ của
tao thì vô hình và đầy quyền năng
Chúng cười hố hố, và vưỡn kéo
tai Gấu lôi ra bên ngoài.
Ở công viên
những con chim vô tư lèm bèm
về những nỗi
bực riêng của chúng.
Trên một băng
ghế, Gấu nhìn thấy 1 bà già
Cắt mớ tóc
trắng gợn sóng bằng lưỡi kéo tưởng tượng
Trong khi nhìn
vô một tấm gương nhỏ, loại bỏ túi.
Gấu đếch thèm
nói gì hết
Nhưng đêm
nay Gấu sẽ nằm lăn ra sàn nhà
Nhai mẩu viết
chì
Lâu lâu thở
dài sườn sượt nhớ BHD
Cũng lèm
bèm về một điều gì ở bên ngoài
Mà Gấu không
làm sao gọi tên ra được.
PARADISE
MOTEL
Millions
were dead; everybody was innocent.
I stayed in my room. The President
Spoke of war
as of a magic love potion.
My eyes were
opened in astonishment.
In a mirror
my face appeared to me
Like a
twice-canceled postage stamp.
I lived
well, but life was awful
There were
so many soldiers that day,
So many refugees crowding the roads.
Naturally, they
all vanished
With a touch
of the hand.
History
licked the comers of its bloody mouth.
On the pay
channel, a man and a woman
Were trading hungry kisses and tearing off'
Each
other's clothes while I looked on
With the sound off' and the room dark
Except
for the screen where the color
Had too much
red in it, too much pink.
Charles
Simic
Khách Sạn
Thiên Ðàng,
của băng đảng
Cờ Lăng
ở Tiểu Sài Gòn
Hàng triệu
triệu người chết; mọi người đều vô tội.
Gấu ở trong
căn phòng. Ông Số 2 nói về chiến tranh như là về lọ bùa yêu.
Mắt Gấu mở lớn
vì ngạc nhiên.
Nhìn vào tấm
gương, Gấu thấy bộ mặt của mình
chẳng khác
chi con tem bị phế bỏ tới hai lần
Gấu sống bảnh,
nhưng đời sống thì thật là thê lương.
Vào những ngày
đó đó, đâu đâu cũng thấy lính tráng
Người chạy
giặc VC đầy đường
Lẽ tự nhiên,
họ biến mất
Chỉ cần bạn
lỡ chạm tay vô họ
Lịch sử liếm
những góc phố Sài Gòn bằng cái miệng đầy máu của nó
Trên 1 đài
phải trả tiền, một người đàn ông và một người đàn bà
Trao đổi hàng
hoá theo cái kiểu ông mất của kia bà chìa của nọ:
Họ hôn nhau như điên, xé nát
quần áo của nhau
Trong lúc Gấu
nhìn vô
Âm thanh TV thì
tắt, căn phòng thì tối
Ngoại trừ màn
hình
Màu thì đỏ, đỏ
quá, và hồng, hồng quá.
ASIA
LITERARY REVIEW, WINTER 2011
Poetry
Bei Dao
Landscape
Above Zero
It was the
seagull that taught the song to swim
It was the song that found the first
wind's source
We shared
shards of happiness
Entering the
home from different directions
It was
father who recognised darkness
It was
darkness that led us to sudden lightning
The weeping door slammed shut
And echo
pursued its cries
It was
the
pen that bloomed in despair
It was the
flower that refused the necessary journey
It was rays
of love that awoke
Lighting the landscape above zero
Phong cảnh ở
bên trên con số không
Ðó là con hải
âu dạy bài ca học bơi
Ðó là bài ca
kiếm ra đầu nguồn của ngọn gió
Ðôi ta san
sẻ cho nhau những mảnh vụn của hạnh phúc
Ði vô căn nhà
bằng những lối khác nhau
Ðó là người
cha nhận ra bóng tối
Ðó là bóng tối
dẫn chúng ta tới tia chớp bất thình lình
Cánh cửa xụt
xùi đóng xập một cú
Và tiếng vọng
đuổi theo tiếng khóc của nó
Ðó là cây viết
nở rộ trong chán chường
Ðó là BHD từ chối chuyến viễn du cần thiết
Ðó là những
sợi tình thức giấc
Chiếu sáng
phong cảnh ở bên trên con số không
"Under
such heavy clouds of love … "
Under such
heavy clouds of love,
O be
ashamed.
You
supervise but really yield,
While all
around the villages,
The little cottages, the fields,
Are
ransacked and deformed.
Give up,
give up that uniform,
O shameless
lover,
And choose
again without remorse
Your
Dictator. For while in love
There is so
much to lose, of course,
But more,
still, to discover.
“Dưới những đám
mây nặng chĩu tình yêu như thế…”
Dưới mây tình
nặng chĩu như thế
Ôi mới nhục
nhã xấu hổ làm sao
Anh giám sát
nhưng thực sự đầu hàng
Trong khi tất
cả những làng mạc chung quanh
Những lều nhỏ,
những cánh đồng
Thì đều bị lục
xoát và biến dạng
Ðầu hàng, bỏ bộ đồng phục
đó đi
Ôi người yêu
không hổ thẹn
Và hãy lại
chọn lựa và không hối hận
Kẻ Ðộc Tài của
anh. Bởi vì trong tình yêu
Có nhiều để
mất, tất nhiên
Nhưng vẫn có
nhiều, để khám phá
Dream-
I see a
postman everywhere
Vanishing in
thin blue air,
A mammoth
letter in his hand,
Postmarked
from a foreign land.
The
postman's uniform is blue.
The letter
is of course from you
And I'd be
able to read, I hope,
My own name
on the envelope
But he has
trouble with this letter
Which
constantly grows bigger & bigger
And over and
over with a stare,
He vanishes
in blue, blue air.
Mơ-
Tôi nhìn đâu
cũng thấy người đưa thư
Biến mất vào
không khí mỏng
Một lá thư
khổng lồ cầm ở tay
Ðóng dấu ngoại
Bộ đồng phục
của anh ta màu xanh
Lá thư tất
nhiên là từ anh
Và em có thể
đọc, em hy vọng.
Tên của em
trên phong bì
Nhưng anh ta
gặp khó khăn với lá thư
Nó cứ thế cứ
thế lớn mãi ra
Và nhìn chòng
chọc, nhìn chòng chọc mãi như thế
Anh ta biến
mất vào xanh xanh
bầu trời
Elisabeth
Bishop
INTERVIEWER
Critics
often talk about your more recent poems being less formal, more
"open," so to speak. They point out that Geography III has more of
"you" in it, a wide emotional range. Do you agree with these
perceptions?
BISHOP
This is what
critics say. I've never written the things I'd like to write that I've
admired
all my life. Maybe one never does. Critics say the most incredible
things!
INTERVIEWER
I've been
reading a critical book about you that Anne Stevenson wrote. She said
that in
your poems nature was neutral.
BISHOP
Yes, I
remember the word neutral. I
wasn't quite sure what she meant by that.
INTERVIEWER
I thought
she might have meant that if nature is neutral there isn't any guiding
spirit
or force.
BISHOP
Somebody
famous-I can't think who it was-somebody extremely famous was asked if
he had
one question to ask the Sphinx and get an answer, what would it be? And
he
said, Is nature for us or against us? Well, I've never really thought
about it
one way or the other. I like the country, the seashore especially, and
if I
could drive, I'd probably be living in the country. Unfortunately, I've
never
learned to drive. I bought two cars. At least. I had an MG I adored for
some
years in Brazil. We lived on top of a mountain peak, and it took an
hour to get
somewhere where I could practice. And nobody really had time to take an
afternoon off and give me driving lessons. So I never got my license.
And I
never would have driven in Rio, anyway. But if you can't drive, you
can't live
in the country.
The Paris
Review Interviews, I
Thiếu Khanh
Hoàng Hạc
Lâu – Lầu Hoàng Hạc
Trong các
bài thơ về Lầu Hoàng Hạc được truyền tụng từ xưa, có lẽ bài Hoàng Hạc
Lâu của
Thôi Hiệu được ngưỡng mộ hơn cả. Nhiều thi sĩ Việt Nam cũng đã dịch bài
này ra
thơ Việt. Có người cho biết, đã có hơn bốn trăm bản dịch tiếng Việt từ
bài thơ
Hoàng Hạc Lâu này. Trong số đó có bản dịch của nhiều thi sĩ nổi tiếng,
từ Tản
Ðà, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố đến Trần Trọng San, Vũ Hoàng Chương vân
vân.
Riêng bản dịch của nhà thơ họ Vũ được những người biết đến đánh giá rất
cao
nhưng có lẽ do thời thế (được nhà thơ dịch sau năm 1975) mà ít người
được thưởng
thức bản dịch này. Ở đây người viết xin giới thiệu bản dịch tài hoa này
của thi
sĩ Vũ Hoàng Chương cùng với một số bài dịch sang các ngôn ngữ Anh,
Pháp, Đức của
các nhà Trung Hoa học Tây Phương nổi tiếng, và một bài dịch tiếng Anh
của người
viết.
TK
Theo Gấu, bản
dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ
Hoàng Chương, quá hay, nhưng không theo kiểu nhận định về "hay dở"
thông thường, hay khi phải so với những bản dịch khác!
Nói rõ hơn, vấn đề ở đây,
là bản dịch của VHC khác hẳn các bản dịch khác.
Gấu đã lèm bèm về bài thơ này một đôi lần.
Nguyên tác sử
dụng vần trắc, thành ra những bản dịch, trong số đó, hay nhất, là của
Tản Ðà với
riêng Gấu, thì đều sử dụng vần bằng, thành ra mất hẳn cái “air” trượng
phu,
viril, của bài thơ, theo kiểu “ba năm mẹ già cũng đừng trông”, của Thâm
Tâm,
hay kiểu Brodsky, "Doomed
Never to Return Home": kẻ bị kết án đi một
lèo, không quay lại…
Ðó là cái ý hoành
tráng của câu thơ đầy sảng khoái:
Hoàng hạc nhất khứ bất
phục phản.
Dịch nhảm kiểu
Gấu:
Một lần Gấu đi là đếch có về nữa!
Chính vì thế
mà VHC, khi dịch, đã sử dụng vần trắc.
Bài thơ, và tác giả của nó, từ ngàn xưa mà đã nhìn ra thân phận lưu
vong của Gấu,
hàng ngàn năm sau.
Thế mới khủng!
Có thể vì vậy,
mà người đời cứ dịch đi dịch lại hoài, nó.
Bởi vì mỗi
thời, con người lại cần 1 bản dịch của
Hoàng Hạc Lâu.
Bài Biển của
Gấu, theo nghĩa đó, cũng là 1 bản dịch của Hoàng Hạc Lâu!
Hà, hà!
Biển
Buổi chiều đứng
trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được
con người chở từ đâu tới
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng,
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Chỉ còn ta
cô đơn lẫn vào đêm
Như con
hải
âu già
Giấu chút
tình sầu
Vào lời
thì
thầm của biển...
Bài thơ của
VHC, dịch HHL, không phải được dịch sau 1975.
Gấu đã từng
nghe nó, khi học Ðệ Tam, [Ðệ Nhị, Gấu học nhảy, bỏ Ðệ Tam, lên Ðệ Nhị,
cuối năm thi Tú Tài 1, đậu, vô Chu Văn An, học Ðệ Nhất, quen Bạn C, ông
em nhà thơ...], trường Hồng Lạc, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài
Gòn, kế
ngay bên vườn Bờ Rô, khi là học trò của nhà thơ. Như thế, phải khoảng
năm 1956
-7, bởi vì Gấu đậu Tú Tài 2 năm 1958.
Ông dậy Việt
Văn, và có lần khen 1 bài luận của Gấu, nhưng cảnh cáo, bài luận làm
đúng thể
thức 1 bài luận, đừng có nghĩ là nó hay, mà vênh mặt lên!
Ngay lần đó,
ông đã cho biết, lý do ông dịch HHL, sử dụng vần trắc, như trên.
Bài Biển
này, từ khi ra đời, là đã gặp nhiều
hạnh ngộ, và gây cho tác giả của nó, hạnh phúc, có, và bất hạnh, càng
có, và càng
khổ.
Ðã từng được diễn đàn Gió-O đọc, trong mục đọc thơ. Một vị, bạn tù của
Gấu,
quen ở nhà tù quốc tế Bangkok, và sau đó, định cư tại Úc, viết thư khen
nức nở,
hào khí ngất trời. Một vị, cũng Bắc Kít, quen ở hải ngoại, trong 1 lần
nhậu xỉn,
phán, chỉ cần bài thơ này, là đủ rồi, khỏi cần làm thơ nữa. Vụ này đã
kể trong
bài viết Dạ Vũ Ký Bắc
Một trong những
vị độc giả đầu tiên, là cô bạn. Bài thơ này được làm ra, là vì cô bạn,
lần cả
hai gia đình đi thăm Wasaga.
Gấu mất 1 vị
độc giả quá thân, là vì bài thơ này.
Ðúng ra, là vì Gấu không
giữ đúng điều kiện:
ta cấm mi không được post mail của ta.
Sorry,
please take care. NQT
NOTHING ELSE
Friends
of
the small hours of the night:
Stub of a
pencil, small notebook,
Reading lamp on the table,
Making me
welcome in your circle of light.
I care
little the house is dark and cold
With you sharing my absorption
In this book
in which now and then a sentence
Is worth repeating again in a whisper.
Without you,
there'd be only my pale face
Reflected in the black windowpane,
And the bare
trees and deep snow
Waiting for me out there in the dark.
-Charles
Simic
NYRB Jan 13,
2011
Vậy đủ rồi,
chẳng cần chi nữa
Những bạn bè
của những giờ nho nhỏ vào buổi đêm:
Mẩu viết chì,
cuốn sổ tay
Cây đèn bàn
Chào mừng tôi
lọt vô vòng ánh sáng của em
Tôi đâu có để
ý gì đến căn nhà tối và lạnh
Khi có em cùng
chia sẻ nỗi say mê
Trong cuốn sách
hẳn là có một câu
Thật đáng để
mà thì thầm vào lúc này lúc khác
Không có em,
thì chỉ có bộ mặt xanh nhợt của 1 anh già sắp đi xa,
là cu Gấu Bắc Kít ngày
nào
Phản chiếu từ
cái khung cửa sổ đen
Và cây trần
trụi, và tuyết thẳm sâu
Ðang đợi Gấu
ở ngoài trời tối
SKILLS
Blondin made
a fortune walking back and forth
over Niagara Falls on a tightrope-blindfolded,
or inside a
sack, or pushing a wheelbarrow, or perched on stilts,
or lugging a man on his
back. Once, halfway across,
he sat down
to cook and eat an omelette.
Houdini,
dumped into Lake Michigan chained
and locked
in a weighted trunk, swam back to the boat
a few
moments later. He could swallow more than a hundred needles
and some thread,
then pull from between his lips
the needles
dangling at even intervals.
I can close
my eyes and see your house
explode in a
brilliant flash, silently,
with a
complete absence of vibration. And when I open them again,
my heart in my
mouth, everything is standing
just as
before, but not as if nothing had happened.
-Jonathan
Aaron
Kỹ năng
Blondin kiếm
được cả một gia tài khi,
mắt bịt kín,
đi đi lại lại trên 1 sợi dây vắt ngang
Thác Niagara
Falls
hay là ở trên
trong 1 cái bao tải
hay là đẩy 1
cái xe cút kít
hay là đi cà
kheo
hay là cõng
1 người trên lưng. Một lần, đi được nửa đường,
anh ngồi xuống nấu cái hột
gà ôm-lét
Và xơi luôn.
Houdini, được
cho đi mò tôm ở Hồ Michigan, chân tay bị xiềng,
bị khóa ở trong 1 cái xe tải,
bơi
về lại thuyền vài phút sau đó.
Anh ta có thể nuốt cả trăm cây kim treo tòng teng,
không phải 1 lần mà là vài lần cách nhau,
kèm theo cả 1 khúc chỉ, và sau đó, hé
môi, kéo ra….
Tôi có thể
nhắm mắt và nhìn thấy căn nhà của em nổ tung, lặng lẽ,
trong ánh lửa sáng chưng,
không một chút rung động.
Và tôi lại mở mắt ra,
Trái tim ở
trong miệng, mọi vật đều đứng y như trước đó,
Nhưng không
phải như thể,
chẳng có chi xẩy ra.
NYRB August
10, 2006
Introducing
Elizabeth Bishop
RICHARD D.
BEARDS
I am neither
here nor there
Never can I
be at home
Water claims
me not, nor air,
Nor the
light of fairy foam
On the hills
I cannot pass
Clouds are
low
For me to
roam.
As the sun
upon the grass,
As the water
touched by air
Stirs life
shadows in a glass,
I shall come
where you are fair,
Quick, look
up and see me there. (1)
On the first
free endpaper of the Modern Library edition of Jude the
Obscure that I bought at a flea market in Adamstown,
Pennsylvania, is a neatly penciled ownership signature: "Elizabeth
Bishop". The same page also carries a tiny paper sticker from The Old
Comer Bookstore, Boston, Massachusetts. When I cheeked the signature
against
those in the Rare Book Collection at the University of Delaware, there
was no
doubt - it had been the poet Elizabeth Bishop's copy. Jude the Obscure first
appeared in the Modern Library Series in 1927, when Bishop was sixteen
years
old and was living with an aunt in Revere, a suburb of Boston.
An even more
interesting prize, written in the same clear hand as the signature, was
to be
found on the blank free endpapers at the rear of the volume. On the
left-hand
page there are three lines about sky gazing. On the facing page are
twelve
lines which have all the appearance of a completed poem about
adolescent
longing and the speaker's sense of homelessness among the elements. The
hand-writing matches precisely that found in the facsimile of Bishop's
poem
"I introduce Penelope Gwin" which appeared in the Paris
Review, Summer 2005, and subsequently in Edgar Allan
Poe & the Juke-Box: Uncollected poems, drafts and fragments,
edited by
Alice Quinn (reviewed in the TLS, April 28, 2006). The lines on the
left-hand
endpaper read: "A halo of deep quiet in the wind / A twilit place for
me
amid the dark / A church without a god, between the clouds". The poem
on
the right-hand endpaper is printed here.
The unnamed
editor in the Paris Review assumes
that "I introduce Penelope Gwin" was written when Elizabeth Bishop
was seventeen, and suggests it might be the first known poem by her. In
her
notes to the same poem Alice Quinn writes, "It's possible that it's one
of
the 'two or three comic poems'" Bishop refers to, in a letter of 1975,
as
having been written at her high school in 1928-9 or "a bit later". I
suspect the lines written in my copy of Jude the Obscure might have
been
written even earlier.
TLS March 25 2011
(1)
Tôi chẳng ở đây,
mà cũng chẳng ở đó
Chẳng bao giờ
tôi có thể ở nhà
Nước vờ tôi,
khí trời cũng vờ tôi,
Vờ tôi luôn,
là thứ bọt ánh sáng thần tiên
Trên những ngọn
đồi mà tôi không nào vượt qua
Mây thì thấp,
làm sao tôi lang thang, dù trời thật gần
Khi mặt trời
trên cỏ
Khi mặt nước
chạm không khí
Khuậy bóng đời
trên ly
Tôi sẽ tới nơi
mà bạn ưng tôi
Lẹ lên, coi kìa,
bạn sẽ gặp tôi ở nơi đó
Take a
newspaper.
Take a pair
of scissors.
Choose an
article as long as you
are planning
to make
your poem.
Cut out the
article.
Then cut out
each of the words
that make up
this article and
put them in
a bag.
Shake it
gently.
Then take
out the scraps one after the other in the order in which they left the
bag.
Copy
conscientiously.
The poem
will be like you.
And here you
are a writer,
infinitely
original and endowed
with a
sensibility that is
charming
though beyond the
understanding
of the vulgar.
Dada Manifesto by Tzara 1920
The Dada Painters and
Poets. p.92
Charles
Simic trích dẫn, trong bài viết về Dada: Making
It New, NYRB August 10, 2006
Không dada,
siêu thực
Khởi từ ca
dao sang tự do
TTT
On the Couch
with Philip Roth,
at the Morgue with Pol Pot
Charles
Simic
As a rule, I
read and write poetry in bed; philosophy and serious essays sitting
down at my
desk; newspapers and magazines while I eat breakfast or lunch, and
novels while
lying on the couch. It’s toughest to find a good place to read history,
since
what one is reading usually is a story of injustices and atrocities and
wherever one does that, be it in the garden on a fine summer day or
riding a
bus in a city, one feels embarrassed to be so lucky. Perhaps the
waiting room
in a city morgue is the only suitable place to read about Stalin and
Pol Pot?
Oddly, the
same is true of comedy. It’s not always easy to find the right spot and
circumstances to allow oneself to laugh freely. I recall attracting
attention
years ago riding to work on the packed New York subway while reading
Joseph
Heller’s Catch 22 and
bursting into guffaws every few minutes. One or
two
passengers smiled back at me while others appeared annoyed by my
behavior. On
the other hand, cackling in the dead of the night in an empty country
house
while reading a biography of W.C. Fields may be thought pretty strange
behavior
too.
Wherever and
whatever I read, I have to have a pencil, not a pen—preferably a stub
of a
pencil so I can get close to the words, underline well-turned
sentences,
brilliant or stupid ideas, interesting words and bits of information,
and write
short or elaborate comments in the margins, put question marks, check
marks and
other private notations next to paragraphs that only I—and sometimes
not even
I—can later decipher. I would love to see an anthology of comments and
underlined passages by readers of history books in public libraries,
who
despite the strict prohibition of such activity could not help
themselves and
had to register their complaints about the author of the book or the
direction
in which humanity has been heading for the last few thousand years.
Witold
Gombrowicz says somewhere in his diaries that we write not in the name
of some
higher purpose, but to assert our very existence. This is true not only
of
poets and novelists, I think, but also of anyone who feels moved to
deface
pristine pages of books. With that in mind, for someone like me, the
attraction
some people have for the Kindle and other electronic reading devices is
unfathomable. I prefer my Plato dog-eared, my Philip Roth with coffee
stains,
and can’t wait to get my hands on that new volume of poetry by Sharon
Olds I
saw in a bookstore window late last night.
December 14,
2009 12:55 p.m.
Trên tràng kỷ
với Philip Roth,
Ở nhà xác,
với Pol Pot
Như là luật,
tôi đọc thơ ở trên giường; triết và tiểu luận nghiêm túc ngồi trên ghế,
ở nơi bàn
viết; báo chí khi ăn sáng hay trưa, và tiểu thuyết thì nằm dài trên
tràng kỷ.
Căng nhất là
tìm ra một chỗ thật ngon để đọc lịch sử, bởi vì cái thứ mà bạn đọc đó,
thì đầy
rẫy những bất công, những điều ghê rợn, và một khi bạn đọc nó, thì có
lẽ nên đọc
ở ngoài vườn, vào một ngày hè đẹp trời hay là khi đi xe buýt trong
thành phố, bạn
cảm thấy bực bội, bị làm phiền, nhờ vậy mà thành ra may mắn. Nhưng có
lẽ nhà xác
của một thành phố là chỗ thật thích hợp để đọc về Stalin và Pol
Pot.
Lạ lùng làm
sao, cũng như vậy, là với hài kịch. Ðâu có dễ mà tìm được đúng chỗ, và
hoàn cảnh
để tự cho phép mình cười một cách thoải mái, tự do. Tôi lại nhớ cái lần
đọc Joseph
Heller’s Catch 22 cách đây nhiều năm,
khi ngồi trên xe điện ngầm đông người ở New York, trên đường đi làm, và
cứ vài
phút lại cười hô hố một cách thật là sảng khoái. Một vài hành khách
nhìn tôi mỉm
cười, trong khi những người khác tỏ ra rất ư là bực bội.
Mặt
khác, quang quác như gà mái đẻ trong cái chết của một đêm đen, trong
một căn nhà
ở miền quê, khi đọc tiểu sử W.C. Fields thì tâm thần
có vấn đề,
hơi bị mát dây, hẳn là như vậy.
Ở
đâu, đọc, bất cứ cái chi chi, là tôi phải thủ cho mình 1 cây viết chì,
không phải
viết mực - tốt nhất là một mẩu viết chì, như thế tôi có thể tới thật
gần với những
chữ, gạch đít những câu kêu như chuông, viết tới chỉ, những ý nghĩ sáng
láng,
hay, ngu thấy mẹ, những từ thú vị, đáng quân tâm, những mẩu thông tin,
và chơi
một cái còm ở bên lề trang sách, một cái dấu hỏi, đánh dấu trang, đoạn,
đi 1 đường
mật mã mà chỉ tôi mới hiểu được, [và có khi, chính tôi cũng chịu thua],
như là
dấu chỉ đường, nhằm đọc tiếp những trang sau đó. Tôi rất mê đọc một
tuyển tập
những cái còm, và những đoạn được gạch đít, của những độc giả, trong
những cuốn
sách lịch sử ở trong thư viện công cộng, đã từng có mặt ở trên trái đất
này hàng ngàn năm, mặc dù sự cấm đoán rất ư là
chặt chẽ.
Witold
Gombrowicz có nói đâu đó, trong nhật ký của ông, là chúng ta viết không
phải là
để nhân danh những mục đích cao cả, nhưng chỉ để khẳng định cái sự hiện
hữu rất
ư là mình ên của mình. Ðiều này không chỉ đúng với thi sĩ, tiểu thuyết
gia, mà
còn đúng với bất cứ 1 kẻ nào cảm thấy bị kích thích, chỉ muốn làm xấu
đi 1
trang sách cổ xưa.
Với ý nghĩ
này ở trong đầu, một kẻ như tôi thật không thể chịu nổi cái sự ngu si
của người
đời, khi bị quyến rũ bởi ba thứ quỉ quái như là sách điện tử, “tân bí
kíp”
Kindle! Tôi khoái cuốn Plato quăn góc
của tôi, cuốn Philip Roth của tôi với
những vết cà phe, và nóng lòng chờ đợi cái giây phút cực khoái: được
mân mê tuyển
tập thơ mới ra lò của Sharon Olds mà tôi nhìn thấy vào lúc thật khuya
đêm qua,
tại khung kính của 1 tiệm sách.
An
interview with Joseph Brodsky