|
Tôi tin rằng cái cụm từ
“đọc bắt buộc”, cực nhảm; “đọc đếch cần”, đúng
hơn!
Liệu có thứ,
“hạnh phúc bắt buộc”?
Cái này chắc
là VC nói, đếch phải cả hai Thầy, Kuốc & Boóc. “Yêu nước là yêu
XHCN” chẳng
phải có nghĩa, là, “hạnh phúc bắt buộc”, ư?
Bài học chót,
GCC thú nhất, vì nếu bạn bị THMN, là bèn nhìn ra hai mặt của cuộc chiến
Mít.
Đây
là câu chuyện mà nhiều người biết, Lê
Kim & Hà Ích, Dr Jekyll and
Mr. Hyde,
tức nan đề: Tại làm sao giấc mơ tuyệt vời, Mít được Chúa cho ra đời để
thực hiện nó, lại trở thành ác mộng, và ác mộng biến thành thực
như hiện
nay.
Sự thực, không
phải 1 người là 2 người, là bản kẽm, it has been said that one man is
two is a
cliché. Như Chesterton chỉ ra, ý nghĩ của tác giả Stevenson, ngược hẳn
lại:
Chỉ
1 người [chỉ có lý tưởng tuyệt vời, thống nhất, thí dụ], nhưng do giết
nhiều
người quá, khi dựng nước [but if a man commits a sin], cái tội lỗi này
ăn vào xương
vào hồn vào tuỷ nó, biến nó thành Quỉ Đỏ như hiện nay.
Như thế, thoạt
kỳ thuỷ, Dr. Jekyll uống thần dược, nếu ông thiện hơn ác, ông sẽ biến
thành thiên
sứ, nhưng thay vì vậy, ông biến thành quỉ!
Thầy Borges
Since
then, at an uncertain hour,
That agony returns,
And till my ghastly tale is told
This heart within me burns. (1)
Coleridge, The Rime of the Ancient
Mariner.
(1) Cynthia
Ozick trích dẫn, trong bài viết về Primo Levi. Tạm dịch:
Kể từ đó,
đâu biết giờ nào,
Cơn hấp hối
đó trở lại,
Và cho tới
khi câu chuyện thê lương của tôi được kể
Trái tim này
trong tôi bỏng rát.
Coleridge: Bài hát của người thủy
thủ già.
VP, nhà văn Bình Định
Khi viết “VP
nhà văn Bình Định”, cho số Văn Học đặc biệt dành cho ông, theo lời đề
nghị của
NMG, lần gặp ông đầu tiên tại Tiểu Sài Gòn, 1998, cũng là lần đầu tiên
vợ chồng
Gấu ghé thăm thủ đô tị nạn của dân Mít, Gấu chưa từng biết đến “đại tác
phẩm”,
"Hai mươi năm văn học hải ngoại", của KT và bạn bè của anh xb.
Đúng ra phải
nói là, Gấu chẳng biết gì tới cái gọi là văn học hải ngoại, và chỉ biết
đến nó,
sau khi được bẩy bó.
Trước 70, Gấu có nhiều việc quá để mà làm, vì cứ
đinh
ninh, Ông Giời chỉ cho mi sống tới năm đó đó.
Sau 70,
không có việc gì để làm, Gấu bèn lai rai đọc văn học Mít hải ngoại. Đọc
Thầy
Phúc, Thầy Kuốc, Thầy Đạo, Thầy Thục…. toàn đọc những Thầy và đều nhận
ra, toàn
đồ dởm cả.
Rõ ràng là mấy
Thầy này, có cái bằng làm Thầy, là để làm 1 công việc gì đó, đòi hỏi 1
cái bằng
nào đó, cử nhân, tiến sĩ gì gì đó, để kiếm miếng cơm đổ vào mồm, để
khỏi chết
đói nơi xứ người, chứ không phải để làm cái gọi là sáng tác, trong có
cả cái gọi
là phê bình.
Đó là sự thực.
Nhân đọc 1 bài trên net,
về cái bằng tiến sĩ của Thầy Kuốc, thì mới vỡ
ra, Thầy
quả là quá may, có được mảnh bằng này, nhưng khốn khổ thay, chính vì
may quá mà
thành ra dốt quá.
Thầy đậu Tú
tài Mít đúng khi VC lấy được Miền Nam. Thứ bằng cấp đó, vào đúng thời
kỳ đó,
khó mà có tí kiến thức thực sự. Bởi thế mà Thầy không biết "lệch pha"
nghĩa là gì, và coi, đây là tiếng lóng, để chỉ dân pê đê.
Quả là tiếng
lóng để chỉ dân pê đê, nhưng đó là dạng biến thái, không phải nghĩa
gốc, dính
tới điện xoay chiều.
Và, như thế, Thầy Kuốc hẳn nhiên là bị thiến mẹ
mất, cái gọi
là kiến thức phổ thông!
Cái bằng Tú
Tài của Mít, trước khi cuộc chiến bùng nổ, vào cái thời ông Diệm, khó
cực khó.
Ông Truởng Đài Phát Tín Phú Thọ, của Bưu Điện, 1 trong những Sếp của
Gấu, mất bảy
năm, vì cái bằng Tú Tài 2, ban Toán!
Rồi chiến tranh leo thang, bằng
ngày một mất
giá.
Thằng em Gấu,
không làm sao có được cái Tú Tài 1, để đi học lớp sĩ quan Thủ Đức, sau
phải nhờ
mấy đứa bạn, đã sĩ quan, tới kỳ thi, ném bài vô phòng thi, đám giám thị
lúc đó
sợ lính tráng đành vờ, và cũng nghĩ, nó cần cái bằng để…. chết.
Nguyễn Văn
Trung, thí dụ, đâu có bằng Tú Tài. Ông được bên Công Giáo cho đi du
học, khi
chưa có bằng Tú Tài. Qua Tây, chúng đâu cần phải có bằng Tú Tài mới cho
vô Đại
Học.... tư. Gấu nghe 1 người quen kể - ông này nổi tiếng lắm, giáo sư
đại học
văn
khoa, không tiện nói tên - kể giai thoại, về làm lương cho ông Khoa
Trưởng Văn
Khoa, nhân viên văn phòng than, làm sao làm lương bây giờ, ông ta không
có bằng
Tú Tài!
Nói mấy Thầy
như Thầy Phúc, Thầy Đạo… dởm, là nói, từ “góc độ viết” – chôm Thầy
Kuốc, ‘góc độ
thơ’ – hay nói toạc ra, mấy Thầy không viết được cái gọi là sáng tác.
Borges có câu,
thơ là để trao cho thi sĩ, câu này có thể áp dụng cho nhà văn. Bạn đọc
1 bản văn,
thứ thiệt, là thể nào cũng tìm thấy 1 cái gì đó - một chi tiết, 1 hình
ảnh, một
sự sắp xếp, trình bày…. - trước đó, chưa từng ai làm/viết như thế.
Bạn đọc mấy
Thầy trên, không kiếm thấy sáng tác, mà chỉ là lập lại, những gì người
khác đã
nói, đã viết.
Trong đoạn văn
dưới đây, có mấy câu, Gấu lọc ra, chưa ai từng viết như thế.
May 21, 2011
by Ai Trần
Pleiku –
Chút Gì Để Nhớ
Tôi nhìn
thấy Pleiku lần đầu tiên vào một buổi chiều trên đảo Bidong. Tôi ở trong dãy nhà gỗ
trải dài trên
đồi khu F. Căn nhà đủ để che mưa nhưng không ngăn được gió lùa vì hai
mặt trước
sau đều chưa lắp gỗ xong. Loại nhà này có chừng ba hay bốn dãy, lâu quá
tôi
không còn nhớ. Tôi ở dãy cao nhất trên đồi. Đứng trước nhà tôi nhìn
thấy rừng
cây cao chớn chở bên trái. Ngóng cổ một chút, bên phải, tôi nhìn thấy
biển mênh
mông. Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục
ngôi mộ của
người tị nạn. Đứng phía sau nhà, vách gỗ chỉ cao đến bụng, nhìn
thấy dãy
nhà phía dưới.
Phố núi cao
phố núi mù sương. Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn. . . Tiếng nhạc vọng từ dãy nhà bên dưới, có một
người đàn bà vừa nhóm bếp vừa nghe nhạc từ máy cassette. Khói củi
ướt nhóm
trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như
sương.
Bất giác lại
nhớ đến lần gặp 1 nữ văn sĩ ra đi từ Miền Bắc.
Bà nói,
trong bài viết của cháu, được ông nhắc tới, có 1 câu, cháu rất thích,
và cháu
không hề nghĩ, có người tìm thấy nó, vậy mà ông tìm đúng câu đó, để mà
lọc ra.
Đấy, sáng
tác nó là như thế đấy!
Kẻ bán xới
Gấu mua cuốn
này, ở Vancouver, Oct/97. Về đi 1 đường Tạp Ghi gỡ lại vốn.
Cái câu trong bài
viết Kẻ Bán Xới, nguyên văn
như vầy:
Au lendemain
de l'effondrement du totalitarisme, il faut régler ses propres comptes
avec le
passé. Tant qu'on pensait avoir en face de soi une force
incontournable, les
souffrances avaient un sens. Du jour où,
selon un mot d'esprit plus tragique qu'il n'y parait, on déclare que le
communisme
est une voie tortueuse conduisant du capitalisme au capitalisme, les
habitants
des pays ex-totalitaires ne voient plus le sens de cette vie.
Cùng với sự
sụp đổ của chủ nghĩa CS, đây là lúc "thanh toán quá khứ". Khi mà người
ta còn thấy trước mặt, một sức mạnh không làm sao tránh né, khi đó, sự
đau khổ
vẫn còn có ý nghĩa. Ngày mà chúng ta chấp nhận ý nghĩ bi thảm, khi
tuyên bố, chủ
nghĩa CS là con đường nhức nhối (tortueuse) dẫn từ "chủ nghĩa tư bản"
đến "chủ nghĩa tư bản", khi đó, những người dân tại những nước cựu-toàn
trị chẳng thể nào nhìn ra, ý nghĩa cuộc đời này (Todorov, p.69, sđd).
Và được nhà
phê bình "mô phỏng", thành ra như vầy:
CON
ĐƯỜNG
DÀI VÀ ĐẪM
MÁU NHẤT
Chế
độ cộng sản
tại Việt
Nam hiện
nay là một chế độ
phong kiến nhưng
không có áo mão. Vậy
thôi. Nếu ở
Tây phương,
sau khi chủ
nghĩa cộng sản
cáo chung ở
Đông Âu, người
ta nhận
định:
“Chủ
nghĩa cộng
sản
là con đường
dài nhất
và đẫm
máu nhất từ
chủ
nghĩa tư bản
đến chủ
nghĩa tư
bản”
thì ở Việt
Nam, nơi người
ta, nhân danh cách mạng,
kết liễu một
triều đại
có thật
nhiều
lăng để
xây dựng
một
triều đại
mới trên
nền tảng
một
cái lăng thật
đồ sộ và
thật
uy nghi, như một
thánh đường,
ngay giữa
trung tâm thủ
đô, chúng ta cũng có thể
nói: Chủ
nghĩa cộng
sản
là con đường
dài nhất
và đẫm
máu nhất từ
chế độ
phong kiến
đến…
chế độ
phong kiến.
Già rồi, thấy
Thần Chết ở trước mặt rồi mà còn đăng ký học 1 khóa với Thầy Kuốc - ấy
chết xin
lỗi, Thầy Boóc!
Đây là khóa học năm 1966, tại Đại Học Úc - ấy chết xin lỗi - Đại Học
Buenos
Aires:
"Professor
Borges: A Course on English Literature is a compilation of the
twenty-five
lectures Borges gave in 1966 at the University of Buenos Aires, where
he taught
English literature. Starting with the Vikings' kennings and Beowulf and
ending
with Stevenson and Oscar Wilde, the book traverses a landscape of
'precursors,'
cross-cultural borrowings, and genres of expression, all connected by
Borges into
a vast interpretive web. This is the most surprising and useful of
Borges's
works to have appeared posthumously."
Edgardo
Krebs, Harper's
"Borges's
uniqueness in twentieth-century letters is rooted in an almost
monstrous combination:
encyclopedic knowledge, razor like critical judgment and a ravishing
appreciation
for the magical and pagan dimension in every situation."
Richard
Bernstein, The New York Times
"Jorge
Luis Borges is a central fact of Western Culture."
The Washington Post Book
World
"His is
the literature of eternity."
Peter
Ackroyd, The Times [London]
Tôi tin rằng cái cụm từ
“đọc bắt buộc”, cực nhảm; “đọc đếch cần”, đúng
hơn!
Liệu có thứ,
“hạnh phúc bắt buộc”?
Cái này chắc
là VC nói, đếch phải cả hai Thầy, Kuốc & Boóc. “Yêu nước là yêu
XHCN” chẳng
phải có nghĩa, là, “hạnh phúc bắt buộc”, ư?
Bài học chót,
GCC thú nhất, vì nếu bạn bị THMN, là bèn nhìn ra hai mặt của cuộc chiến
Mít. Đây
là câu chuyện mà nhiều người biết, Lê
Kim & Hà Ích, Dr Jekyll and
Mr. Hyde,
tức nan đề: Tại làm sao giấc mơ tuyệt vời, Mít được Chúa cho ra đời để
thực hiện nó, lại trở thành ác mộng, và ác mộng biến thành thực
như hiện
nay.
Sự thực, không
phải 1 người là 2 người, là bản kẽm, it has been said that one man is
two is a
cliché. Như Chesterton chỉ ra, ý nghĩ của tác giả Stevenson, ngược hẳn
lại: Chỉ
1 người [chỉ có lý tưởng tuyệt vời, thống nhất, thí dụ], nhưng do giết
nhiều
người quá, khi dựng nước [but if a man commits a sin], cái tội lỗi này
ăn vào xương
vào hồn vào tuỷ nó, biến nó thành Quỉ Đỏ như hiện nay.
Như thế, thoạt
kỳ thuỷ, Dr. Jekyll uống thần dược, nếu ông thiện hơn ác, ông sẽ biến
thành thiên
sứ, nhưng thay vì vậy, ông biến thành quỉ!
Cái Ác Bắc
Kít rước anh Tẫu vô, không có “thoát Trung” cái con khỉ gì hết
Hà, hà!
|