Thơ mỗi ngày
Trần Anh
Thái: Trong tập "Lửa Thiêng" chỉ có tám bài thơ lục bát, bài nào cũng
toàn bích, nhà thơ có bí quyết gì?
Huy Cận: Ấy
là bản năng thơ, tôi không có bí quyết gì, không có lý luận gì, thơ là
thiên bẩm.
Source
đẹp xưa
Ngập ngừng
mép núi quanh co,
Lưng đèo
quán dựng, mưa lò mái ngang…
Vi vu gió
hút nẻo vàng;
Một trời thu
rộng mấy hàng cây cao.
Dừng cương
nghỉ ngựa non cao,
Dặm xa lữ thứ
kẻ nào héo hon...
Đi rồi, khuất
ngựa sau non;
Nhỏ thưa
tràng đạc tiếng còn tịch liêu...
Trơ vơ buồn
lọt quán chiều,
Mái nghiêng
nghiêng gửi buồn theo hút người
Note: Bài
thơ này, sử dụng hệ thống tọa độ ba trục.
Trục
hoành,
thí dụ, thu rộng.
Trục
tung: non cao
Trục thứ
ba,
là trục thời gian, và thời gian, như Brodsky phán:
Bao thơ tôi ít nhiều chi là
về thời gian, về thời gian làm gì con người.
Những héo
hon, lữ thứ, buồn theo hút người... là nói về "thời gian làm gì
con người".
Cái
tít "đẹp xưa" [đẹp cổ điển] là theo nghĩa đó.
NQT
Bài thơ trên
Gấu chép lại từ tập Lửa Thiêng
của nhà sách Sống Mới. Nhưng một độc giả TV cho
biết mây nao mới đúng.
Trần Mạnh Hảo, trong bài viết về
HC, ghi là mây nao.
Tks. NQT
Cách giải thích
bài thơ, như trên, là Gấu phịa ra, mượn ý niệm trục tọa độ, trong toán.
TMH viết:
Trong 50 bài "Lửa thiêng",
chỉ có 8 bài thơ lục bát :" Buồn đêm
mưa", " Trông lên", "Chiều xưa", "Đẹp xưa",
" Thuyền đi", "Xuân ý ", "Thu rừng" và "Ngậm
ngùi". Nhưng nếu không có 8 bài thơ lục bát này, "Lửa thiêng "
dù có nhiều bài thất ngôn hay ví như "Tràng giang" thì cũng chưa thể
làm nên một Huy Cận vượt thời gian như đã có. Nguyễn Du đại thiên tài
lục bát,
đã đưa nhịp sáu tám Việt Nam lên tới đỉnh mây trời nhân loại. Nguyễn Du
từng ít
nhiều ảnh hưởng lục bát ca dao, ảnh hưởng lục bát của Đoàn Thị Điểm,
Nguyễn Gia
Thiều để làm ra hàng nghìn câu thiên thu tuyệt diệu riêng mình. Thấm
đẫm hồn
thơ cha ông, Huy Cận đã hiện đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam. Ông như
người kế
thừa trung thành của phả hệ lục bát Nguyễn Du rồi phát triển nó về u
tịch. Đọc
thơ lục bát Huy Cận, cơ hồ như hồn Nguyễn Du phảng phất đâu đây, như
thể bút thần
xưa được hậu thế cầm lên viết tiếp, như bài " Đẹp xưa":
"Ngập
ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo
quán dựng, mưa lò mái ngang...
Vi vu gió
hút nẻo vàng
Một trời thu
rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương
nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ
kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất
ngựa sau non
Nhỏ thưa
tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Trơ vơ buồn
lọt quán chiều
Mái nghiêng
nghiêng gửi buồn theo hút người..."
Câu thơ
"Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang" trên của Huy Cận làm ta nhớ đến
"Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia "của Tố Như xưa. Huy Cận lấy hồn
muôn năm trước mà hiện đại hóa câu thơ lục bát bây giờ, như gió xưa
vàng đẫm lá
thu nay :" Vi vu gió hút nẻo vàng ". Ngọn gió Huy Cận mặc áo vàng
nghìn thu mà hun hút, mà nghiêng nghiêng mái chữ, mái-hiên-người, cũng
là mái
thơ :" Mái nghiêng nghiêng gởi buồn theo hút người". Cũng như bài
"Đẹp xưa", bài lục bát "Buồn đêm mưa" và bài "Chiều
xưa" hay đến từng câu từng chữ. Cái buồn Huy Cận nơi đây đẹp đến rụng
rời,
đẹp đến ngơ ngác, hoang vu.
Nothing reveals a poet's
weakness like classic
verse and that why it's so universally dodged
Brodsky [Intro to Anna Akhmatova's Poems, selected and edited by Lyn
Coffin.
Norton]
Không gì tố cáo cái yếu kém của
một nhà thơ cho bằng thơ cổ điển,
và chính vì thế mà mấy nhà thơ Mít dởm của chúng ta tránh nó như
tránh... hủi!
Thơ lục bát: Một
duyên phận long đong
TYT
Note: Tay này đặt ngược vấn đề!
Thơ lục bát không long đong, nhưng nhà thơ long đong, nếu đụng vô nó,
mà không
đủ nội lực.
Đây là nhận định của hơn 1 nhà
văn, nhà thơ, trên thế giới, khi
cho rằng, ‘truyền thống’, trong có lục bát, tất nhiên, là một thách đố,
đối với
những nhà thơ dởm, và chính vì nó, truyền thống [ở đây, là lục bát], mà
đẻ ra
ba thứ thơ nhảm nhí, như tự do, không vần, tân hình thức, những nhà thơ
cách
tân, canh tân, hậu vệ, mở miệng....!
Trong quá khứ, cũng có hơn 1
nhà thơ Mít, đụng vô lục bát, mà
thành công, thí dụ, Cung Trầm Tưởng, [Bùi Giáng nữa, ở 1 số bài, thí dụ
như khi
ông dịch Apollinaire], Đồng Đức Bốn, Viên Linh, [nhớ đại khái vài cái
tên]
TTT phải đến khi vô tù mới trở
lại được với truyền thống, một phần
là vì hoàn cảnh, cái khó nó bó cái khôn, nhưng theo Gấu, chính ở trong
tù ông
mới ngộ ra được truyền thống, một phần là do, cái gọi là bạo lực trong
thơ của
ông tới được cõi viên mãn của nó: thiền.
Source
GOOD FRIDAY
IN THE TUNNELS
OF THE METRO
Jews of
various religions meet
in the
tunnels of the Metro, rosary beads
spilled from
someone's tender fingers.
Above them
priests sleep after their Lenten supper,
above them
the pyramids of synagogues and churches
stand like the rocks a glacier left
behind.
I listened
to the St. Matthew Passion,
which
transforms pain into beauty.
I read the
Death Fugue by Celan
transforming
pain into beauty.
In the
tunnels of the Metro no transformation of pain,
it is there,
it persists and is keen.
Thứ Sáu Thiêng
ở đường hầm Metro
Do Thái từ
nhiều tôn giáo khác nhau tụ tập
ở đường
hầm Metro, những hạt màu
hồng
tràn ra khỏi những ngón tay dịu dàng của một người nào đó.
Ở bên trên họ,
những thầy tu ngủ sau Bữa Ăn Tối Lenten
Ở bên trên họ,
những tháp giáo đường, nhà thờ
đứng như những
khối đá một băng hà để lại phía sau.
Tôi nghe St. Matthew Passion,
Bản nhạc biến
nỗi đau thành cái đẹp.
Tôi đọc Tẩu
Khúc Của Thần Chết của Celan
Bài thơ biến
nỗi đau thành cái đẹp
Ở nơi đường
hầm Metro không có sự
biến hóa nỗi đau,
nó ở đó, lì
lợm, và gay gắt.
LIFE
SENTENCE
Those
sufferings are over.
No crying
anymore. In an old album
you look at
the face of a Jewish child
fifteen minutes
before it dies.
Your eyes
are dry. You put the kettle on,
drink tea,
eat an apple.
You'll live.
Án Chung Thân
Những nỗi đau
khổ đó thì xong rồi
Không khóc lóc
nữa. Trong một cuốn album cũ
bạn nhìn vô
mặt một đứa bé Do Thái
15 phút trước
khi nó chết
Mắt bạn khô
queo. Bạn đặt cái ấm nước lên,
uống trà, ăn
1 trái táo
Bạn sẽ sống.
A RIVER
Poems from
poems, songs
from songs,
paintings from paintings,
always this
friendly
impregnation.
On the other bank
of the
river, within range of being,
soldiers are
marching. A black army,
a red army,
a green army,
the iron
rainbow. In between, smooth
water, an
indifferent wave.
Con sông
Những bài thơ
từ những bài thơ, hát
từ hát, họa
từ họa,
luôn luôn là
sự chan hòa thân ái đó. Bờ bên kia
con sông, vẫn trong cõi người,
những binh sĩ
quân hành. Ðạo quân đen,
đạo quân đỏ,
đạo quân xanh,
một cầu vồng
sắt. Và ở giữa,
dòng nước phẳng
lặng,
con sóng vô
tình
Adam
Zagajewski: Without End
IN
A LITTLE
APARTMENT
I ask my
father, "What do you do all day?" I remember.”
So in that
dusty little apartment in Gliwice,
in a low block in the Soviet style
that says all towns should look like barracks,
and cramped rooms will defeat conspiracies,
where an old-fashioned wall clock marches on, unwearied,
he relives
daily the mild September of '39, its whistling bombs,
and the Jesuit garden in Lvov, gleaming
with the green glow of maples and ash trees and small birds,
kayaks on the Dniester, the scent of wicker and wet sand,
that hot day when you met a girl who studied law,
the trip by
freight car to the west, the final border, two hundred roses from the
students
grateful for your help in'68,
and other episodes I'll never know,
the kiss of a girl who didn't become my mother,
the fear and
sweet gooseberries of childhood, images drawn
from that calm abyss before I was.
Your memory works in the quiet apartment - in silence,
systematically, you struggle to retrieve for an instant
your painful century.
-Adam
Zagajewski
(Translated, from the Polish, by Clare Cavanagh)
The New Yorker, April 4, 2007
Trong
căn
phòng nhỏ
Tôi hỏi cha
tôi, cha làm gì cả ngày?
Nhớ!
Và như thế,
trong căn phòng nhỏ bụi bặm ở Gliwice,
trong dẫy nhà thấp lè tè, xây theo kiểu Xô Viết,
theo nghị quyết, tất cả các thành phố đều phải giống như trại lính,
hoặc trại
tù,
với những căn phòng rúm ró, nhằm đập nát mọi mưu toan, diễn tiến hoà
bình!
một căn phòng, trên tường, có một cái đồng hồ cổ lỗ sĩ,
cứ tí ta tí tách, chẳng hề mỏi mệt.
chẳng lo đói, chẳng lo bắt bớ!
Ông sống lại
từng ngày, những ngày giữa tháng Chín 1939,
những tiếng bom réo,
và khu vuờn Jesuit ở Lvov thì rực rỡ,
với đám phong xanh, cây tro, và những con chim nhỏ,
những con thuyền trên dòng Dniester, và mùi wicker, mùi cát ẩm,
một ngày trời nóng, đó là bữa cha tôi gặp một cô sinh viên luật,
Chuyến đi
bằng xe tải tới phương tây, biên giới chót, hai trăm bông hồng, từ
những sinh viên,
cảm ơn sự giúp đỡ của ông vào năm 1968
Và những đoạn đời khác, tôi sẽ chẳng bao giờ biết,
nụ hôn của cô gái đã không trở thành mẹ của tôi
Nỗi sợ, và
những trái gooseberries ngọt ngào của thời con nít, những hình ảnh
chiết ra từ
cái khoảng trầm lắng trước khi có tôi.
Hồi ức của ông làm việc trong căn phòng trầm lặng – trong im lặng,
một cách thật là hệ thống, cha tôi chiến đấu để níu lại, trong chốc lát,
nỗi đau thế kỷ của ông.
-Adam
Zagajewski
*
2. Trần Hoài
Việt: Thưa bà, giả như không có ngày 30 Tháng Tư, bà vẫn ở Việt Nam, có
gia
đình... liệu bà có viết văn, làm thơ hay không? Tks
DTL.com
Trần Hoài Việt,
chắc tên dởm, và câu trả lời của TMT có vẻ như không nhận ra ngụ ý nằm
trong câu
hỏi này.
Trường hợp
TMT làm thơ, và hay nhất của bà, là những bài thơ tình, khiến chúng ta
nghĩ đến
Biển của Miêng, [người đàn ông cả nhà chết trên biển khi vượt biển lầm
vị nữ bồ
tát là người vợ đã chết, và vị nữ bồ tát này cũng vô vai người vợ đã
chết một cách
rất ư là tự nhiên, như chấp nhận phần số “người” của mình], Người Ðàn Bà Ngoại Tình của Camus, Trước Pháp
Luật của Kafka…
Ngay từ khi
mới ra hải ngoại, trong bài viết về TMT, Gấu đã nhận ra sự liên hệ này,
và phán,
người tình của TMT là Tiếng Mít.
Và chính cái
biến cố 30 Tháng Tư quyết định số phận nhà thơ.
Nếu không xẩy ra biến cố 30 Tháng
Tư, chúng ta không thể tưởng tượng ra được bà sẽ làm thơ, viết văn như
thế nào.
All
literature carries exile within it, whether the writer has had to pick
up and
go at the age of twenty or has never left home.
Mọi văn
chương, nếu đúng là văn chương, đều cưu mang trong nó, cái gọi là lưu
vong, cho
dù nhà văn khăn gói lên đường bỏ chạy quê hương vào lúc hai mươi, tóc
còn xanh
mướt, hay cả đời chưa rời nhà.
Whereas a
writer outside his native country seems to grow wings.
Nhà
văn ở ngoài quê nhà của mình, thì đều mọc cánh.
Roberto
Bolaño: Exile
Carlos
Fuentes: Women
on
Sister Benedicta &
Anna
Akhmatova & Simone Weil
The
word martyr,
etymologically speaking, means witness.
NBC
[Toán] vs Thơ
TTT
Steiner có
hai bài viết trên tờ The New Yorker, [sau in lại trong S. @
The New Yorker] về văn học Nga, thật tuyệt. Một, “De
Profundis”, về Gulag, và một về Solz
và những nhà văn Nga khác: Dưới cái nhìn Ðông
phương, Under Eastern Eyes.
Steiner viết,
những đòi hỏi của Solz, ở những người Nga đọc lén lút ông [bao nhiêu
độc giả?],
và khối độc giả bao la ở Tây Phương, thì thật là dữ dằn, nghiệt ngã.
Ông biết,
và coi khinh sự đáp ứng dễ dãi của người đọc Tây Phương, và cái khiếu
thưởng
ngoạn về sự khổ đau ở xa, distant suffering, của họ. Ông rành chúng ta,
hơn là chúng ta rành ông. Và
như thế, ông là một tác giả hướng ngoại, a searcher-out, một thứ chó
săn ăn tìm
sự yếu ớt về thể xác của con người. Và,
vẫn như thế, ông là 1 tác giả gây bực.
Solz là 1
tay vô chính phủ thần quyền, a theocratic anarchist, (vẫn theo S.), ít
coi trọng
lý trí, lý lẽ, reason, đặc biệt là thứ lý trí, lẽ phải ở đám ‘trí
thức’, ở những
người làm cho đời họ, nhiều hoặc ít, khô đi, bớt đam mê đi, dispassion.
Trước
phi nhân, lý trí chẳng là cái chó gì, một thứ tác nhân nhảm nhí, làm
chúng ta bật cười, in the presence of the inhuman, reason is often a
small – indeed, a
laughable – agent.
Tôi sẽ giơ
cao tờ chứng minh thư Đảng,
Là toàn tập
thơ bônsêvích tôi làm
Mayakovsky
Bùi Ngọc Tấn
trích dẫn, trong Chuyện Kể Năm 2000,
trang 106
Lenin never
liked Mayakovsky, and the next generation leaders expected a spokesman
rather
than prophet. The betrayal of the Socialist utopia led to his suicide,
an act
that was itself wide regarded as a betrayal. In a fascinating chapter,
Cavanagh
shows how Mayakovsky’s biographer, the Polish poet and critic Wiktor
Woroszylski,
long gripped by his youthful commitment to Mayakovsky as an
insurrectionary
ideal, sidestepped the question of his suicide by compiling his massive
biography out of a collage of quotations. Eventually as his own
disillusion
with Soviet rule increased, his resistance to the truth of Mayakovsky's
tragedy
ebbed away.
Causework
The poet's
authority in the age of utopia
ANDREW KAHN
Lênin đếch
khoái Mayakovsky và mấy ông Trùm Ðỏ sau đó muốn có một phát ngôn viên
của Ðảng
VC Liên Xô hơn là một nhà thơ tiên tri. Sự phản bội của chủ nghĩa không
tưởng
Xã Hội khiến ông tự làm thịt mình, một hành động, tự thân nó, cũng bị
coi là 1
sự phản bội, bởi đám đông...
VC đếch có 1
tay thực sự mê Cách Mạng như Mayakovsky, lại càng không có
1
tay vỡ mộng VC, và tự tử như ông.
VC chỉ có những thi sĩ viết tự kiểm xin Tố Hữu tha tội chết,
tha cho
về gặp gia đình, vợ con mà thôi.
Mémoirs
Whoever
wishes to remember must trust to oblivion, to the risk entailed in
forgetting
absolutely, and to this wonderful accident that memory then becomes.
-Maurice
Blanchot
Người nào
mong mỏi hoài nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi
ro tiếp
đó là sẽ quên tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ
niệm được
hình thành.
Người ta biết
rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành
ký ức, để
sau này khỏi quên đó mà .
K
I seek
the
crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre
Malraux
Tôi tìm vùng
chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ
Gấu mua cuốn
trên lâu lắm rồi, từ cái hồi còn cái tiệm Britnell nổi tiếng nhất, lâu
đời nhất,
của Toronto, kế bên thư viện hách nhất thành phố, Toronto
Reference Library, cũng
là thư viện đầu tiên Gấu tới thăm, liền sau khi tái định cư một,
hai bữa,
khi còn ở trung tâm tiếp nhận người tị nạn, nơi gặp lại cô bạn lần đầu
tiên,
sau bao ngày xa cách, kể từ khi cô lấy chồng, thì cứ nói như thế cho
tiện việc sổ
sách.
Văn
chương hay Cuộc đời.
Bị cái tít, như “tường lửa ngăn chặn”, Gấu cứ nghĩ đây là 1 cuốn tiểu
luận, cho
đến bữa nay, tình cờ vớ được nó, trong đống sách ngổn ngang do dọn
nhà, giở ra đọc, quá tuyệt, vì được viết theo cái kiểu hồi
tưởng, giai
thoại, về những ngày ở Lò Thiêu.
Chương
9, "Ô Saisons, Ô Châtaux.." viết về Milena, và Thư gửi Milena,
của Kafka, đọc thật cảm động. Có thể nói, chương nào cũng như thế. Cứ
như thể,
đây là món quà của 30 Tháng Tư năm nay, của bao nhiêu người đã chết,
gửi nhắn
lại.
Sự
run rủi tuyệt vời từ đó phát sinh kỷ niệm.
Tks.
NQT
Cũng vớ
được
số Granta, Bad Company, Summer
2002, trong có bài của Kundera, Cuộc
Trở Về Vĩ Ðại.
Bài này mà có thì giờ dịch tặng nhà văn Mít lưu vong, “vĩ đại trở về”,
khóc rưng
rức khi nhìn hai lỗ đạn Tây mũi lõ để lại trên thân thể Hà Nội, thì
thật tuyệt!
1968: Bạn tưởng tượng, con phố Lê Lợi, Mậu Thân, và
Cao Bồi, PXA,
bạn GNV, đứng trên terrace, phía bên dưới là tổng hành dinh của Tướng
Givral,
coi đồng hồ, ra lệnh Tổng Tấn Công!
Bây giờ là đầu tháng Tư. Người
Việt nào ở hải ngoại cũng như đang
lên cơn sốt, một cơn sốt lây lan ra từ bang nọ đến bang kia, từ quốc
gia này
sang quốc gia khác, không có thuốc chủng nào ngăn được.
Những cánh rừng
Nhà văn lớn là người kết hôn với đất nước của họ.
Và câu này, cũng đã được tôi sử dụng, khi đọc Nhất Linh. Mối tình lớn
của Nhất
Linh với Miền Bắc, bật ra, khi ông, trong nhân vật thế thân của mình,
là Dũng,
buổi trưa hè "ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung" đó, đó, vô tình nhìn
thấy cái áo cánh trắng bên vườn hàng xóm, tự hỏi, của ai đấy nhỉ, và
chợt nhớ
ra là nghỉ hè, và Loan đi học ở tỉnh trở về nhà.
Nhưng với TMT, còn hơn thế nữa.
Bà chỉ có thể kết hôn với ngôn
ngữ, bởi vì quê hương của bà không còn.
Đây cũng là điều Brodsky nói
ra, khi được hỏi, và ông trả lời, tôi
hết còn tin vào cái xứ sở đó.
Nhưng, khác Brodsky, những
người như TMT, họ chứng kiến cái giây
phút hấp hối của xứ sở, khi ngoái nhìn lại, những ngày 30 Tháng Tư
1975. Kinh
nghiệm này, Kundera cũng đã từng sống vào năm 1968, khi Liên
Xô xâm lăng
xứ sở của ông, và ông bảo, nó đau như là một trận cháy nhà. [Trong Le
Rideau, Bức Màn]
Nhà văn người
Nhật Kawabata, Nobel văn chương 1968, trong bài mở đầu tập truyện
"Những
truyện ngắn ở trong lòng bàn tay", viết: Những người viết, khi trẻ
thường
làm thơ. Tôi, thay vì làm thơ, viết những truyện trong lòng bàn tay....
Tinh thần
thi ca những ngày trẻ thơ của tôi sống mãi ở trong chúng".
Biển,
của Miêng cũng thuộc loại truyện lòng
tay. Đọc, tôi nghĩ, ngoài tinh thần thi ca ra, còn có những giọt nước
cam lồ nhỏ
xuống cho cả một thế hệ: một người đàn bà khóc thương một người đàn ông
mất trí
nằm trong bệnh viện và trong những giờ phút cuối cùng, người đàn ông
lầm vị nữ
bồ tát với người vợ đã chết, cùng với con cái, trong lần vượt biển.
Lầm
lẫn, có lẽ không phải như vậy. Hoặc đây là
giá trị biểu kiến của truyện. Trong cuốn Chữ và Vật, Michel Foucault
cho rằng
người điên, hay Kẻ Khác (l'Autre), là một người nhìn tất cả sự vật đều
giống
nhau, khác với người bình thường, hay Kẻ Vẫn Thế (le Même). Cũng trong
cuốn
sách, ông cho rằng tự tử là phán đoán sáng suốt cuối cùng của một con
người
bình thường.
Nếu
chúng ta chấp nhận hành động vượt biển
như là phán đoán sáng suốt sau cùng, như vậy người đàn ông sống sót
trong khi vợ
con chết hết, đã thực sự tin rằng người đàn bà đang nhỏ lệ là vợ của
ông. Cũng
tương tự như vậy - và đây là ý nghĩa đích thực của truyện ngắn theo tôi
-
"sự thực" xuất hiện, khi người đàn bà gọi điện thoại cho chồng:
"... Xong rồi anh ạ... trong tay em".
Camus
có truyện ngắn "Người đàn bà ngoại
tình", câu chuyện về một người đàn bà, đêm đêm, sau khi làm xong hết
bổn
phận của người vợ, trong cuộc lữ của cả hai vợ chồng, đã len lén thoát
ra
ngoài, để ngắm trời ngắm sao... Đây là một đề tài lớn của dòng văn
chương hiện
sinh, theo tôi, thoát thai từ truyện ngắn "Before the Law", của
Kafka.
Đây
là câu chuyện một người nhà quê ra tỉnh,
tới trước "Pháp Luật", tính vô coi cho biết, nhưng bị người lính gác
cản lại. "Anh vô được mà, nhưng đợi chút xíu nữa đi". Chờ hoài chở hủy,
chút xíu nữa đi hoá ra là cả một cuộc đời. Trước khi chết, anh nhà quê
phều
phào hỏi, tại sao chỉ có một mình anh tính vô chơi, coi cho biết; người
lính
gác nói: cửa này chỉ mở ra cho anh, tôi đứng đây, cũng chỉ vì anh;
nhưng bây giờ
anh đâu cần tới nữa, và tôi cũng xong bổn phận ở đây. Nói xong anh bỏ
đi.
Trong
truyện ngắn Evelyne của James
Joyce,
trong tập "Những người dân thành phố Dublin", người lính của Kafka xuất
hiện qua anh chàng thuỷ thủ tầu viễn dương. Một người yêu thương, và có
đủ điều
kiện để đưa cô gái Evelyne tới một cuộc sống khác tốt đẹp hơn; nhưng
tới giờ
phút chót, cô gái quyết định "ở lại".
Truyện
ngắn Biển, của Miêng, bằng
những tình
cảm độ lượng thoát thai từ tinh thần Phật giáo, theo tôi, đã đưa ra một
đề nghị
chót cho vấn nạn người đàn bà ngoại tình. Bằng hành động "trong tay
em", người đàn bà đã vượt quá "Luật Pháp", ôm cả hai cuộc đời,
bên trong và bên ngoài cánh cửa (lưu đầy và quê nhà?), nhập làm một.
Linh
Hồn Của Biển
Bài đọc Biển
của Miêng, Gấu đọc lại, và thấy khác
hẳn, bản được in trong Lần Cuối Sài Gòn,
và đoạn viết về TMT, mất tiêu luôn.
Scan lại ở đây,
toàn bài viết, như được in trên giấy.
Bài đọc sách
này, được đăng trên Văn Học
của NMG, và ông chủ chi địa, chắc cũng ngại sau cái
cú "cái tai người", bèn "hiệu đính" cụm từ “nữ bồ tát”, và thay bằng vị
“nữ tu”!
Trong bài điểm
có nhắc tới câu của Adorno, khiến VD, nhà văn hàng đầu hải ngoại bực,
phán, tay
này “vung tay quá trán”, chứng cớ sau Lò Thiêu vẫn có Ðêm
Tận Thất Thanh, một đóa kỳ hoa dị thảo, của PNN! (1)
(1)
GNV là người
đầu tiên giới thiệu tới độc giả Mít, "hơn
một" tác giả mũi lõ, đa số họ, GNV biết tới, là nhờ đọc tờ Partisan
Review. [Kundera, Gấu cũng là thằng đầu tiên giới thiệu, khi giữ
mục Tạp
Ghi cho tờ Văn Học của NMG: Mùa Thu những di dân].
Kỷ niệm thú vị có lẽ cũng nhiều, để nhẩn nha nhớ lại, nhưng 1 trong số
đó, là,
lần giới thiệu Adorno và câu nói nổi tiếng của ông: “Làm thơ sau
Auschzitz thì
thật là dã man”. Nhà văn hàng đầu hải ngoại Võ Đình bực lắm, phán,
thằng cha
Adorno này là ai mà vung tay quá tr[ch]án. Và ông chứng minh, sau Lò
Thiêu vẫn
có thơ, và đó là thơ của Phan Nhật Nam: Đêm tận thất thanh! (2)
Tuy nhiên, không chỉ một Võ
Đình bực vì câu nói của thằng cha
Adorno. Czeslaw Milosz cũng nực. Trong bài viết ngắn, viết về ‘hậu môn
của thế
giới’, ông cho biết, chính là vào cái năm ông ở hậu môn thế giới, ở Ba
Lan, ông
làm được thơ, và thơ cũng không tệ.
Cái tác phẩm của bậc thầy về Lò Thiêu vừa mới tái khám phá ra
được, A lost master of the Holocaust, chính là tác phẩm được viết khi
tác giả
của nó ở… Lò Thiêu!
(2)
Đêm Tận Thất Thanh.
Văn Học số Xuân Đinh Sửu
[129&130], trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ
viết: "... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ
thì
thật là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng được quen biết,
trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không
lạm bàn rông rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ
như... "vung tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán
này thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"?
Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những nhánh kỳ hoa bung lên từ
bãi
dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc, thối um"?
Đêm Tận Thất Thanh là một nhánh kỳ hoa đó...
Tôi không may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee, Florida 5-2-97
24 tiếng trước Tết Đinh Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình
Trên đây trích từ bài viết của
Võ Đình, ở cuối cuốn Đêm Tận
Thất Thanh của "bạn ta" là Phan Nhật Nam. Trong cuốn sách bạn ta
tặng, buổi tối tại nhà Nguyễn Đình Thuần. Với lời đề tặng:
Của Ông Sơ Dạ Hương với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode.
CA Oct/28/2003.
PNN ký tên.